CTTĐT - Trong thời đại ngày nay, bình đẳng giới đã trở thành một trong những vấn đề của phát triển mang tính toàn cầu. Nói đến bình đẳng giới, về cơ bản là nói đến sự bình đẳng về vị thế, cơ hội và các quyền của phụ nữ với nam giới. Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), đến cuối thế kỷ XX, các quốc gia đều đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển con người, nhưng vẫn còn có sự khác biệt trong các chỉ số phát triển giữa nam và nữ. Trong đó, sự phát triển năng lực của phụ nữ ở tất cả các quốc gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt ở những quốc gia chậm phát triển.
Chú trọng tới công tác phổ biến giáo dục pháp luật, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Qua thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cũng thấy rằng, bất bình đẳng giới thực sự vừa là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà đến tất cả các thành viên trong xã hội.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc chăm lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới, trong đó, các tiêu chí phát triển được hướng vào cả nam giới và nữ giới.
Trong khi đó, việc định kiến giới là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng về giới, đặc biệt trong đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung cư trú ở những vùng sâu, vùng xa, vùng địa bàn đặc biệt khó khăn, đại bộ phận đời sống của các gia đình dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự tồn tại của những phong tục tập quán, tín ngưỡng, hủ tục lâu đời trong đời sống đồng bào các dân tộc cũng làm cho phụ nữ trở thành nhóm xã hội cực khổ nhất. Họ là một lực lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Để góp phần cải thiện đời sống, nâng cao trình độ, dân trí, đảm bảo trật tự an ninh xã hội và chủ quyền quốc gia, việc thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng các dân tộc thiểu số là công tác xã hội quan trọng cần ưu tiên, đặt lên hàng đầu. Vấn đề bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề cần đặc biệt quan tâm cả trong mục tiêu phát triển và cả trong quá trình hoạch định chính sách quan hệ tộc người ở nước ta trong bối cảnh hội nhập sâu rộng nền kinh tế toàn cầu.
Trong những năm qua, đã có nhiều văn bản (Nghị định, Thông tư) cụ thể, thể chế hóa, hướng dẫn Luật Bình đẳng giới gồm: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới, với 4 chương, 18 điều. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới với 6 chương, 23 điều. Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới với 5 chương, 29 điều…
Ủy ban Dân tộc là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong phạm vi cả nước. Trong quá trình triển khai nhiệm vụ thực hiện Luật Bình đẳng giới tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Ủy ban Dân tộc đã phối hợp Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các bộ, ngành có liên quan triển khai thực hiện tốt công tác bình đẳng giới.
Sau khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, Uỷ ban Dân tộc đã chủ động trong việc tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, công chức. Trong đó, đặc biệt chú trọng tới công tác phổ biến giáo dục pháp luật, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới. Chú trọng lồng ghép trong các chương trình, chính sách, dự án, đề án lớn do Ủy ban Dân tộc đề xuất xây dựng và triển khai thực hiện. Trong đó, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135); Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số (Quyết định 34/2006/QĐ-TTg); Chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn (Quyết định 32/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Chính sách này dựa trên thực trạng đời sống của hộ gia đình người dân tộc thiểu số, trong đó có cả chủ hộ gia đình là nam và nữ đều được bình đẳng như nhau. Kết quả thực hiện chính sách này đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế hộ gia đình và góp phần tích cực trong việc thực hiện quyền bình đẳng trong hộ gia đình dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, Ủy ban Dân tộc cũng đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cơ quan, địa phương có liên quan tổ chức xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Mô hình 5 trong Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới với nội dung: mô hình thí điểm về dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về bình đẳng giới tại 30 xã, phường, thị trấn ở miền núi, vùng cao cho đồng bào dân tộc thiểu số. Khảo sát đánh giá về thực trạng bình đẳng giới tại các xã miền núi, vùng cao. Xây dựng thí điểm một số dịch vụ thông tin, tư vấn (tại các điểm bưu điện văn hóa xã, tại nhà người có uy tín tại thôn, bản) nhằm nâng cao nhận thức về thực hiện bình đẳng giới tại một số dân tộc có phong tục, tập quán ảnh hưởng trực tiếp đến bất bình đẳng giới (tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống). Xây dựng các sản phẩm truyền thông phù hợp với từng nhóm dân tộc để tuyên truyền thay đổi dần các phong tục, tập quán ảnh hưởng tới bình đẳng giới. Tổ chức các hoạt động thăm quan học tập kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo, tọa đàm rút kinh nghiệm triển khai và nhân rộng mô hình.
Cùng với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội trong những năm qua, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và công tác phụ nữ, cán bộ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, rất đáng tự hào và được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). Việt Nam cũng được Liên hợp quốc đánh giá là nước có nhiều tiến bộ trong cải thiện công bằng giới. Đạt được kết quả như trên, bên cạnh những thành quả chung của cả nước, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số góp phần quan trọng trong thực hiện thành công mục tiêu, chỉ tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ta có dân số chiếm 14,3% dân số cả nước, trong những năm qua, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến tích cực: Tỷ lệ cán bộ, công chức nữ trong đó có cán bộ, công chức nữ là người dân tộc thiểu số tham gia trong khu vực công ngày càng tăng, điều đó cho thấy, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần phụ nữ dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, công tác bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ còn hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ tham gia giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt còn khiêm tốn. Trong lao động, việc làm thì phụ nữ dân tộc thiểu số có thời gian làm việc nhiều hơn nam giới, ngoài lao động kiếm sống hàng ngày, còn phải làm việc nhà và chăm sóc con cái. Mặc dù pháp luật quy định trong gia đình vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo cho con cái, cha mẹ... nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Vì vậy, phụ nữ dân tộc thiểu số ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ, nghỉ ngơi giải trí hay tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ không chỉ gánh vác mọi công việc, chăm sóc con cái, mà đồng thời còn là lao động chính trong gia đình.
Bên cạnh đó, thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng người DTTS cũng còn những tồn. Các nhóm dân tộc vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không những bị tách biệt về không gian địa lý, mà còn bị tách biệt về không gian xã hội. Chính sự tách biệt này đã và đang ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với những thay đổi không lường trước trong môi trường sống của họ. Điều đó cho thấy, có rất nhiều đặc điểm chung trong bất bình đẳng giới nói chung và bất bình đẳng giới trong các nhóm DTTS nói riêng.
Để thực hiện bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số, thì trong công tác giáo dục, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ DTTS cần được ưu tiên hàng đầu. Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực, kết hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước. Thực hiện nghiên cứu toàn diện hơn về tỷ lệ mù chữ trong phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những giải pháp xóa mù phù hợp và tăng cường sự tham gia của phụ nữ DTTS trong việc tiếp cận các cơ hội cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thực hiện nghiên cứu tổng thể hơn về bối cảnh dễ bị tổn thương của phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những khuyến nghị và thiết kế những chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ DTTS, tăng cường khả năng chống đỡ của họ trước các vấn đề toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, những hiện tượng xã hội như nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em... Đây là những vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay, cần có giải pháp cơ bản đồng bộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
Tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đồng thời, xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế “có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Hiện nay lao động nữ thanh niên DTTS vẫn bị tụt hậu so với mặt bằng chung của xã hội do rào cản ngôn ngữ và hạn chế về trình độ học vấn. Các lớp đào tạo dạy nghề cho phụ nữ DTTS cần quan tâm đến những đặc thù này và khả năng tham gia vào thị trường lao động cụ thể. Trong công tác đào tạo nghề thì cần có sự hài hòa về vai trò sản xuất và tái sản xuất của người phụ nữ.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư và củng cố cơ sở hạ tầng ở một số vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để giúp phụ nữ DTTS tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ giáo dục và y tế. Đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, tạo điều kiện cho phụ nữ và nam giới vùng DTTS có việc làm tại chỗ, có điều kiện phát triển kinh tế gia đình không phải đi làm ăn xa, có điều kiện chia sẻ lẫn nhau trong thực hiện vai trò sản xuất, sinh sản nuôi dưỡng, cộng đồng.
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Trong thời đại ngày nay, bình đẳng giới đã trở thành một trong những vấn đề của phát triển mang tính toàn cầu. Nói đến bình đẳng giới, về cơ bản là nói đến sự bình đẳng về vị thế, cơ hội và các quyền của phụ nữ với nam giới. Theo báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), đến cuối thế kỷ XX, các quốc gia đều đạt được những thành tựu quan trọng về phát triển con người, nhưng vẫn còn có sự khác biệt trong các chỉ số phát triển giữa nam và nữ. Trong đó, sự phát triển năng lực của phụ nữ ở tất cả các quốc gia còn thấp hơn nam giới, đặc biệt ở những quốc gia chậm phát triển.Qua thực trạng bình đẳng giới cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội ở các quốc gia, Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cũng thấy rằng, bất bình đẳng giới thực sự vừa là một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đói nghèo, vừa là rào cản lớn đối với sự phát triển bền vững và tác động tiêu cực không chỉ đến phụ nữ mà đến tất cả các thành viên trong xã hội.
Sự nghiệp giải phóng phụ nữ ở Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ buổi đầu cách mạng. Khẩu hiệu “nam nữ bình quyền” được khẳng định từ Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946). Cho đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Việc chăm lo phát triển nguồn lực con người là một nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới, trong đó, các tiêu chí phát triển được hướng vào cả nam giới và nữ giới.
Trong khi đó, việc định kiến giới là một trong những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng về giới, đặc biệt trong đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS). Đồng bào các dân tộc thiểu số thường tập trung cư trú ở những vùng sâu, vùng xa, vùng địa bàn đặc biệt khó khăn, đại bộ phận đời sống của các gia đình dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, sự tồn tại của những phong tục tập quán, tín ngưỡng, hủ tục lâu đời trong đời sống đồng bào các dân tộc cũng làm cho phụ nữ trở thành nhóm xã hội cực khổ nhất. Họ là một lực lượng xã hội quan trọng có ảnh hưởng toàn diện đến sự phát triển của vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Để góp phần cải thiện đời sống, nâng cao trình độ, dân trí, đảm bảo trật tự an ninh xã hội và chủ quyền quốc gia, việc thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng các dân tộc thiểu số là công tác xã hội quan trọng cần ưu tiên, đặt lên hàng đầu. Vấn đề bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề cần đặc biệt quan tâm cả trong mục tiêu phát triển và cả trong quá trình hoạch định chính sách quan hệ tộc người ở nước ta trong bối cảnh hội nhập sâu rộng nền kinh tế toàn cầu.
Trong những năm qua, đã có nhiều văn bản (Nghị định, Thông tư) cụ thể, thể chế hóa, hướng dẫn Luật Bình đẳng giới gồm: Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày 4/6/2008 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới về trách nhiệm quản lý nhà nước về bình đẳng giới và phối hợp thực hiện quản lý nhà nước về bình đẳng giới, với 4 chương, 18 điều. Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/5/2009 của Chính phủ về các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới với 6 chương, 23 điều. Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/6/2009 của Chính phủ xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới với 5 chương, 29 điều…
Ủy ban Dân tộc là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc trong phạm vi cả nước. Trong quá trình triển khai nhiệm vụ thực hiện Luật Bình đẳng giới tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, Ủy ban Dân tộc đã phối hợp Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, các bộ, ngành có liên quan triển khai thực hiện tốt công tác bình đẳng giới.
Sau khi Luật Bình đẳng giới được ban hành, Uỷ ban Dân tộc đã chủ động trong việc tuyên truyền đến toàn thể cán bộ, công chức. Trong đó, đặc biệt chú trọng tới công tác phổ biến giáo dục pháp luật, phổ biến Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Bình đẳng giới cho đồng bào dân tộc thiểu số. Việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong quá trình xây dựng chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề để thực thi bình đẳng giới. Chú trọng lồng ghép trong các chương trình, chính sách, dự án, đề án lớn do Ủy ban Dân tộc đề xuất xây dựng và triển khai thực hiện. Trong đó, Chương trình phát triển kinh tế - xã hội cho các xã đặc biệt khó khăn (Chương trình 135); Đề án “Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số (Quyết định 34/2006/QĐ-TTg); Chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn (Quyết định 32/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ). Chính sách này dựa trên thực trạng đời sống của hộ gia đình người dân tộc thiểu số, trong đó có cả chủ hộ gia đình là nam và nữ đều được bình đẳng như nhau. Kết quả thực hiện chính sách này đã tác động rất lớn đến đời sống kinh tế hộ gia đình và góp phần tích cực trong việc thực hiện quyền bình đẳng trong hộ gia đình dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, Ủy ban Dân tộc cũng đã phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các cơ quan, địa phương có liên quan tổ chức xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Mô hình 5 trong Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới với nội dung: mô hình thí điểm về dịch vụ tư vấn, hỗ trợ về bình đẳng giới tại 30 xã, phường, thị trấn ở miền núi, vùng cao cho đồng bào dân tộc thiểu số. Khảo sát đánh giá về thực trạng bình đẳng giới tại các xã miền núi, vùng cao. Xây dựng thí điểm một số dịch vụ thông tin, tư vấn (tại các điểm bưu điện văn hóa xã, tại nhà người có uy tín tại thôn, bản) nhằm nâng cao nhận thức về thực hiện bình đẳng giới tại một số dân tộc có phong tục, tập quán ảnh hưởng trực tiếp đến bất bình đẳng giới (tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống). Xây dựng các sản phẩm truyền thông phù hợp với từng nhóm dân tộc để tuyên truyền thay đổi dần các phong tục, tập quán ảnh hưởng tới bình đẳng giới. Tổ chức các hoạt động thăm quan học tập kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo, tọa đàm rút kinh nghiệm triển khai và nhân rộng mô hình.
Cùng với sự nỗ lực của Đảng, Nhà nước và toàn thể xã hội trong những năm qua, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và công tác phụ nữ, cán bộ nữ đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, rất đáng tự hào và được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Xếp hạng năm 2012 của Liên hợp quốc về chỉ số bất bình đẳng giới Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao). Việt Nam cũng được Liên hợp quốc đánh giá là nước có nhiều tiến bộ trong cải thiện công bằng giới. Đạt được kết quả như trên, bên cạnh những thành quả chung của cả nước, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số góp phần quan trọng trong thực hiện thành công mục tiêu, chỉ tiêu quốc gia về bình đẳng giới.
Vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ta có dân số chiếm 14,3% dân số cả nước, trong những năm qua, công tác bình đẳng giới vùng dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến tích cực: Tỷ lệ cán bộ, công chức nữ trong đó có cán bộ, công chức nữ là người dân tộc thiểu số tham gia trong khu vực công ngày càng tăng, điều đó cho thấy, đời sống vật chất, văn hoá tinh thần phụ nữ dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, công tác bình đẳng giới và công tác cán bộ nữ còn hạn chế. Tỷ lệ phụ nữ tham gia giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt còn khiêm tốn. Trong lao động, việc làm thì phụ nữ dân tộc thiểu số có thời gian làm việc nhiều hơn nam giới, ngoài lao động kiếm sống hàng ngày, còn phải làm việc nhà và chăm sóc con cái. Mặc dù pháp luật quy định trong gia đình vợ chồng đều bình đẳng với nhau về mọi mặt, cùng nhau bàn bạc, quyết định mọi vấn đề chung, cùng chia sẻ mọi công việc cũng như chăm lo cho con cái, cha mẹ... nhưng trên thực tế, nam giới vẫn được coi là trụ cột gia đình, có quyền quyết định các vấn đề lớn và là người đại diện ngoài cộng đồng. Vì vậy, phụ nữ dân tộc thiểu số ít có cơ hội để học tập nâng cao trình độ, nghỉ ngơi giải trí hay tham gia các hoạt động xã hội. Ở một số vùng theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ không chỉ gánh vác mọi công việc, chăm sóc con cái, mà đồng thời còn là lao động chính trong gia đình.
Bên cạnh đó, thực hiện bình đẳng giới trong cộng đồng người DTTS cũng còn những tồn. Các nhóm dân tộc vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không những bị tách biệt về không gian địa lý, mà còn bị tách biệt về không gian xã hội. Chính sự tách biệt này đã và đang ảnh hưởng đến khả năng ứng phó với những thay đổi không lường trước trong môi trường sống của họ. Điều đó cho thấy, có rất nhiều đặc điểm chung trong bất bình đẳng giới nói chung và bất bình đẳng giới trong các nhóm DTTS nói riêng.
Để thực hiện bình đẳng giới trong đồng bào dân tộc thiểu số, thì trong công tác giáo dục, vấn đề dạy chữ viết cho phụ nữ DTTS cần được ưu tiên hàng đầu. Đối với nhóm đối tượng này, những chương trình dạy chữ cần thiết thực, kết hợp phát triển kinh tế và học chữ, để khuyến khích phụ nữ tham gia. Đối với những nhóm đối tượng như học sinh tiểu học và trung học, cần đầu tư thêm để các em có thể theo đến hết bậc trung học và học cao lên và tránh không bị rơi vào vòng tái mù như các thế hệ phụ nữ đi trước. Thực hiện nghiên cứu toàn diện hơn về tỷ lệ mù chữ trong phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những giải pháp xóa mù phù hợp và tăng cường sự tham gia của phụ nữ DTTS trong việc tiếp cận các cơ hội cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Thực hiện nghiên cứu tổng thể hơn về bối cảnh dễ bị tổn thương của phụ nữ DTTS để có thể đưa ra những khuyến nghị và thiết kế những chính sách phù hợp với nhu cầu của phụ nữ DTTS, tăng cường khả năng chống đỡ của họ trước các vấn đề toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu, những hiện tượng xã hội như nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em... Đây là những vấn đề hết sức cấp thiết hiện nay, cần có giải pháp cơ bản đồng bộ trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay.
Tăng cường mở các lớp tập huấn giảng dạy về kiến thức, kỹ năng cho phụ nữ về chăm sóc sức khoẻ, nuôi dạy con, dân số và có từ đó và kế hoạch hoá gia đình, kỹ năng sống và tổ chức cuộc sống gia đình hạnh phúc. Đồng thời, xây dựng hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế “có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động, sáng tạo, có lối sống văn hoá, có lòng nhân hậu, tích cực lao động sản xuất, sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”.
Hiện nay lao động nữ thanh niên DTTS vẫn bị tụt hậu so với mặt bằng chung của xã hội do rào cản ngôn ngữ và hạn chế về trình độ học vấn. Các lớp đào tạo dạy nghề cho phụ nữ DTTS cần quan tâm đến những đặc thù này và khả năng tham gia vào thị trường lao động cụ thể. Trong công tác đào tạo nghề thì cần có sự hài hòa về vai trò sản xuất và tái sản xuất của người phụ nữ.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đầu tư và củng cố cơ sở hạ tầng ở một số vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn để giúp phụ nữ DTTS tiếp cận tốt hơn với các dịch vụ giáo dục và y tế. Đầu tư cơ sở hạ tầng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các ngành, tạo điều kiện cho phụ nữ và nam giới vùng DTTS có việc làm tại chỗ, có điều kiện phát triển kinh tế gia đình không phải đi làm ăn xa, có điều kiện chia sẻ lẫn nhau trong thực hiện vai trò sản xuất, sinh sản nuôi dưỡng, cộng đồng.