Yên Bái là một tỉnh miền núi, kinh tế của
người dân chủ yếu dựa vào sản xuất nông, lâm nghiệp, đời sống của nhiều hộ dân
còn gặp khó khăn. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dân số. Tuy vậy,
cùng với sự nỗ lực của đội ngũ những người làm công tác dân số trên địa bàn
tỉnh, sự quan tâm của các cấp chính quyền nên công tác dân số của tỉnh Yên Bái
trong thời gian gần đây đạt được những kết quả đáng khích lệ theo hướng từng
bước nâng cao chất lượng dân số, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế
xã hội của địa phương. Từ một tỉnh có mức sinh cao so với cả nước, năm
2012 đã đạt mức sinh thay thế, tổng tỷ suất sinh (số con bình quân của một phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ) là 2,08; các vấn đề về chất lượng dân số đã bước đầu
được đề cập và triển khai thực hiện.
Đối với các xã vùng đặc biệt khó khăn,
những năm qua, công tác tuyên truyền DS/KHHGĐ được mở rộng và đẩy mạnh. Đặc
biệt, việc tổ chức chiến dịch truyền thông lồng ghép với dịch vụ KHHGĐ được duy
trì 2 đợt/năm tại các xã đặc biệt khó khăn đã có tác động mạnh đến nhận thức
của người dân và góp phần quan trọng trong việc tăng số người thực hiện KHHGĐ tại
các địa bàn khó khăn của tỉnh.
Cùng với đó, hệ thống cung cấp dịch vụ
KHHGĐ được củng cố và phát triển tập trung ở tuyến cơ sở, giúp cho 100% số xã
vùng đặc biệt khó khăn có đủ điều kiện làm dịch vụ KHHGĐ, góp phần quan trọng
vào giảm tỷ lệ sinh và sinh con thứ ba ở các xã này. Trung bình, tỷ lệ sinh con
thứ ba ở các xã đặc biệt khó khăn trong năm 2011 là 22%, đến năm 2015 giảm
xuống còn 17%.
Cùng với tích cực đẩy mạnh thực hiện KHHGĐ,
vấn đề nâng cao chất lượng dân số cũng được quan tâm ở các xã đặc biệt khó
khăn. Từ năm 2011, với nguồn kinh phí Chương trình mục tiêu quốc gia DS/KHHGĐ,
Yên Bái đã được triển khai thí điểm mô hình can thiệp làm giảm tình trạng tảo
hôn và hôn nhân cận huyết thống tại 15 xã vùng cao của 4 huyện: Trạm Tấu, Mù
Cang Chải, Văn Chấn, Văn Yên.
Kết quả, số cặp hôn nhân cận huyết thống
giảm từ 5 cặp xuống còn 2 cặp, tỷ lệ cặp vợ chồng có đăng ký kết hôn tăng từ
51,4% lên 87% năm 2014, khắc phục tình trạng học sinh bỏ học lấy vợ, lấy chồng
và các hệ lụy khác.
Đặc biệt, mới đây, tại kỳ họp thứ 15, HĐND
tỉnh Yên Bái đã ban hành Nghị quyết phê duyệt Đề án về công tác Dân số - Kế
hoạch hóa gia đình tại 72 xã đặc biệt khó khăn của tỉnh giai đoạn 2016 - 2020. Mục tiêu của
Đề án là thực hiện giảm sinh nhanh, giảm thiểu tình trạng tảo hôn, không còn
hôn nhân cận huyết thống tại 72 xã đặc biệt khó khăn nhằm góp phần duy trì mức sinh thấp,
nâng cao chất lượng dân số. Đối tượng được hưởng lợi từ Đề án là nhân dân các
dân tộc trên địa bàn 72 xã vùng đặc biệt khó khăn; người thực hiện và người vận
động biện pháp tránh thai lâm sàng (triệt sản, đặt dụng cụ tử cung) thường trú
trên địa bàn; cộng tác viên DS/KHHGĐ và cô đỡ thôn bản thuộc 72 xã đặc biệt khó
khăn. Đề án tập trung vào 4 nhóm chính sách chủ yếu là: Nhóm các
chính sách về hỗ trợ thực hiện dịch vụ KHHGĐ như bồi dưỡng người đặt dụng cụ tử cung
200.000 đồng; Bồi dưỡng người triệt sản 1.000.000 đồng; Hỗ trợ người vận động đặt
dụng cụ tử cung 50.000 đồng/ca; Hỗ trợ người vận động triệt sản
100.000 đồng/ca. Nhóm các chính sách về truyền thông như hỗ trợ tổ chức chiến dịch
truyền thông; Trang bị loa tay phục vụ truyền thông; Hỗ trợ hoạt động
tuyên truyền làm giảm tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống tại 24 xã
của hai huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải.
Cùng với đó còn có chính sách hỗ trợ cán bộ cơ sở, Cộng tác viên dân
số và cô đỡ thôn, bản và Chính sách thưởng xã không sinh con thứ 3 trở lên
và xã giảm trên 50% tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên so với năm trước.
Để
nâng cao chất lượng dân số kế hoạch hóa gia đình ở các xã đặc biệt khó khăn trên
địa bàn tỉnh, ông Lương Kim Đức - Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh Yên Bái, Chi
cục trưởng Chi cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình cho biết: Năm 2016 với mục
tiêu đẩy mạnh giảm sinh tại vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn với các chỉ tiêu cụ
thể là tỷ suất sinh thô 18,1%o; Tỷ suất chết thô 7,3%o; Tỷ lệ phát triển dân số
tự nhiên 1,080%; tốc độ tăng tỷ số giới tính khi sinh 0,3%; tỷ lệ sàng lọc
trước sinh 5%; Tỷ lệ sàng lọc sơ sinh 10%; tỷ lệ người sử dụng biện pháp tránh
thai hiện đại 74,5%... Các ngành và các địa phương cần tăng
cường sự lãnh đạo của chính quyền các cấp đối với công tác DS - KHHGĐ; Nâng cao
trách nhiệm và tăng cường phối hợp của các cấp, các ngành và tổ chức đoàn thể
trong việc tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện công tác dân số. Đẩy mạnh
công tác tuyên truyền các chủ trương, chính sách pháp luật về tảo hôn, hôn nhân
cận huyết thống, nâng cao hiệu quả chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp
dịch vụ KHHGĐ và các hoạt động tư vấn, hoạt động nhóm, tuyên truyền tại hộ gia
đình.
Ông Lương Kim Đức cũng cho biết thêm: Sở Y tế sẽ chủ trì phối hợp
với Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính tham mưu cho Uỷ ban nhân
dân tỉnh trong việc xây dựng kế hoạch và giao chỉ tiêu kế hoạch công tác
DS/KHHGĐ; phối hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thị chỉ đạo thực hiện công
tác DS/KHHGĐ. Phối hợp với các sở, ngành và các tổ chức đoàn thể liên quan
tuyên truyền phổ biến, tổ chức thực hiện và theo dõi, kiểm tra, giám sát thực
hiện các chính sách của tỉnh. Cùng với đó, chỉ đạo cung cấp dịch vụ KHHGĐ an
toàn, thuận tiện. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ y tế, đảm bảo cơ sở vật
chất, trang thiết bị để người dân ở các xã đặc biệt khó khăn dễ dàng tiếp cận
với dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ.