CTTĐT - Mùa Thu năm 1958, Yên Bái khi đó là một trong những tỉnh khó khăn nhất miền Bắc. Vừa mới giành được độc lập, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, là một tỉnh phần lớn địa hình là đồi núi, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, nạn du canh du cư, mê tín dị đoan còn nặng nề, cuộc sống của đồng bào nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vô cùng thiếu thốn. Bên cạnh đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa phương đã được quan tâm nhưng chưa sâu sát với tình hình thực tế... Trong lúc khó khăn ấy, Bác Hồ đã đến với Yên Bái. Nghe tin Bác đến, đồng bào các dân tộc ở mọi nơi trong tỉnh, từ huyện xa xôi, từ vùng núi hẻo lánh đã trèo đèo, lội suối, băng rừng để xuống thị xã Yên Bái lắng nghe lời dạy, lời chỉ bảo ân cần của Người.
Đồng bào các dân tộc Yên Bái hân hoan vẫy chào khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi qua
Bác đến Yên Bái chiều ngày 24/9/1958, hàng trăm đại biểu thay mặt các đoàn thể, đại diện các dân tộc đã tập trung đón Bác tại sân ga. Cùng đi với Bác hôm đó có bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế, đồng chí Lê Dung - Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải cùng một số chuyên viên cao cấp của Trung ương.
Ngay chiều ngày hôm đó, Bác đã làm việc với lãnh đạo tỉnh Yên Bái. Khi được nghe báo cáo kết quả 4 năm khôi phục kinh tế, Bác đã khen ngợi những thành tích mà đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã đạt được. Người còn ân cần, chỉ bảo cặn kẽ, nhắc nhở đảng bộ và chính quyền phải chăm lo đời sống của đồng bào từ việc to đến việc nhỏ, làm sao đời sống được cải thiện, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, các cháu được học hành. Ngay cả việc cung cấp thuốc chữa bệnh, muối, dầu hỏa đến cái nhỏ nhặt nhất như kim chỉ thêu cũng được Bác nhắc nhở phải lo cho chu đáo. Không những thế Người còn quan tâm đến việc học hành của trẻ em, tình hình bệnh sốt rét, bướu cổ rồi các hủ tục lạc hậu trên địa bàn.
Hàng ngàn người đã tập trung về dự lễ mít tinh tại sân vận động thị xã Yên Bái
Giờ phút trông đợi đã đến, từ mờ sáng ngày 25/9/1958, tại sân vận động thị xã Yên Bái, hàng ngàn người đã tập trung về dự lễ mít tinh. Không gian tràn ngập cờ, hoa và khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”, đồng bào phấn khởi chờ đợi Bác xuất hiện. Người bước ra lễ đài giản dị với bộ kaki màu vàng đã bạc màu, trước toàn thể đồng bào, Bác đã khen ngợi những thành tích mà đảng bộ và nhân dân Yên Bái đã đạt được trong 4 năm qua, đồng thời chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt cần phải làm. Người nhấn mạnh đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái cần phải làm tốt công tác xây dựng Đảng, đoàn kết dân tộc, chăm lo đời sống, lắng nghe và đáp ứng nguyện vọng của quần chúng.
Trong buổi nói chuyện với hàng ngàn người dân Yên Bái, trước tiên, Bác nói đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Người khẳng định đây là vấn đề số một, hết sức quan trọng bởi vì: “Trước kia bọn thực dân, phong kiến chia rẽ chúng ta, chia rẽ các dân tộc, xúi giục dân tộc này hiềm khích, oán ghét dân tộc khác để chúng áp bức, bọc lột chúng ta. Nay chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ.”. Để đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ ý nghĩa cũng như cách thực hiện đoàn kết dân tộc, Người đã dùng những hình ảnh, ví dụ hết sức gần gũi, sinh động mà sâu sắc: “10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xòe 10 ngón tay mà bẻ từng ngón, như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó…”. Cả biển người lắng nghe lời dạy bảo của Bác mà thấm thía, tự sâu trong lòng mỗi người thấy được nhiệm vụ của mình đối với Tổ quốc, với quê hương.
Bác Hồ nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái, ngày 25/9/1958
Cả biển người lắng nghe lời dạy bảo của Bác mà thấm thía, tự sâu trong lòng mỗi người thấy được nhiệm vụ của mình đối với Tổ quốc, với quê hương
Tiếp đó, Người đặt câu hỏi, làm thế nào để đời sống nhân dân được sướng hơn, được ăn no mặc ấm? Lặng im nhìn đồng bào, Người khẳng định: “Phải tăng gia sản xuất”. Vậy làm thế nào để làm được điều đó, Người ân cần chỉ bảo: “…đồng bào phải cố gắng làm ăn định cư. Điểm nữa là nên tăng vụ…thứ ba là về phân bón. Ruộng không có phân như người không có cơm. Người không có cơm có lớn được không?... Muốn có nhiều thóc thì phải bỏ nhiều phân”. Bác còn nhấn mạnh: “Muốn tăng gia sản xuất thì phải có tổ chức, phải có tổ đổi công…” Người đã thấy được tầm quan trọng của công tác dân vận trong khi thực hiện tổ đổi công và những mặt hạn chế khi thực hiện công tác này nên đã nhắc nhở kịp thời, đúng hướng: “Tổ đổi công phải thực sự giúp đỡ nhau, chứ không phải chỉ khai trên giấy. Không phải dắt cổ bảo “anh phải vào tổ đổi công” mà phải làm cho đồng bào tự nguyện tự giác”. Những lời của người cũng chính là định hướng cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương phải đi sâu, đi sát với tình hình thực tế.
Một vấn đề quan trọng nữa Bác đề cập trong bài nói chuyện là đồng bào phải thực hành tiết kiệm và thực hiện đời sống văn hóa mới. Cụ thể, Người chỉ rõ, tiết kiệm là tiết kiệm trong tăng gia sản xuất, tiết kiệm trong tổ chức ma chay, cưới xin. Người nhấn mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa mới phải gắn liền với thực hành tiết kiệm, Bác nói “ Đồng bào ta đây có nhiều điểm tốt, nhưng cũng còn có nhiều khuyết điểm cần phải sửa chữa dần dần. Hỏi có tiết kiệm không? Cũng có tiết kiệm nhưng lúc đám cưới, mời họ nội, họ ngoại chè chén linh đình, 2 bữa say sưa bằng thích. Nhưng sau đấy nhà trai, nhà gái phải bán trâu, bò, thóc, bán ruộng đi vay nợ. Như thế là không tốt… đám ma cũng thế. Thường thì chôn cất cũng đủ, nhưng cũng cứ phải chén, thế rồi cũng bán thóc, bán trâu, bán ruộng…”. Người kết luận đó là những mặt chưa tốt, chưa tiết kiệm của đồng bào, đồng bào ta phải quyết tâm từ bỏ những thủ tục rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới xin, những tập quán lạc hậu trong làm ăn thì cuộc sống mới khá hơn, mới tiến bộ hơn. Vấn đề đặt ra nên thực hành tiết kiệm như thế nào cho đúng, cho hiệu quả, để giải đáp thắc mắc đó của đồng bào, Bác đã nêu một ví dụ rất sinh động về thực hành tiết kiệm: “Bây giờ ai cũng tiết kiệm từ trên xuống, từ thành thị đến nông thôn đều tiết kiệm, mỗi người mỗi ngày bớt một dúm gạo thôi, mỗi tháng mỗi người dành được nửa kg. Trong kháng chiến chúng ta đã làm được. Làm như thế trong tỉnh nhà mỗi năm tiết kiệm được 750 tấn gạo… Trước kia ta phải đưa gạo từ dưới xuôi lên. Đồng chí Chủ tịch có cho biết là vừa rồi cũng phải đưa lên 300 tấn. Nếu tiết kiệm được như trên thì không phải đưa gạo từ dưới xuôi lên. Làm như thế có khó không? Không khó. Có dễ không? Không dễ. Mà phải có tổ chức.”. Tiết kiệm như lời Bác dạy sao mà thiết thực, dễ làm đến thế, có thể thực hiện ở mọi nhà, mọi ngành, mọi lúc, mọi nơi, hàng ngày trong đời thường mà hiệu quả. Việc tưởng chừng như khó mà lại thành ra đơn giản, chỉ cần quyết tâm từ Đảng bộ, Chính quyền đến quần chúng nhân dân là đã giải quyết được vấn đề nan giải cho tỉnh nhà.
Với đặc trưng là một tỉnh miền núi lạc hậu, nhiều dân tộc ít người cư trú. Do vậy, khó khăn trong xây dựng đời sống mới của tỉnh Yên Bái là vấn nạn tảo hôn, nhân dịp đông đảo đồng bào các dân tộc có mặt tại lễ mít-tinh, Bác muốn nói cho đồng bào hiểu tác hại của việc này. Trước tiên, Bác nhờ đồng chí Phạm Ngọc Thạch phân tích cho đồng bào hiểu, nhưng những lời giải thích bằng ngôn ngữ khoa học của bác sĩ và với trình độ dân trí còn hạn chế thì đồng bào không hiểu, không nhớ hết được. Thấy đồng chí Phạm Ngọc Thạch gãi đầu gãi tai, Bác liền đứng ra nhận nhiệm vụ giải thích cho bà con. Với lời lẽ giản dị, mộc mạc mà gần gũi như con trâu, cái bừa, Bác nói đại ý tác hại của việc tảo hôn: Đồng bào ta khi làm nhà thường chọn cây tre nứa già mà không chọn cây non vì nó chóng mọt, chóng hỏng. Đồng bào bắt con cháu mình lấy vợ, lấy chồng sớm cũng giống như lấy cây tre nứa non về làm nhà nó cũng sẽ chóng mọt, chóng hỏng, như cây bưởi non có ép ra quả cũng không được, tảo hôn sẽ ảnh hưởng không tốt đến giống nòi. Vẫn với phong cách giản dị, mộc mạc mà gần gũi, Người hỏi đồng bào có hiểu không, cả biển người vỗ tay hô vang “hiểu ạ, hiểu ạ!”.
Kết thúc buổi nói chuyện, trước toàn thể đồng bào, Người đề nghị: “Yên Bái phải thi đua để trở thành một tỉnh khá nhất của các tỉnh miền núi, liệu các cô, các chú có hứa với Bác thực hiện được không?”. Đáp lại lời của Người, như một làn sóng, biển người hô vang “Quyết tâm”. Cuối cùng, Bác bắt nhịp cho mọi người cùng đứng dậy hát bài “Kết đoàn”. Trong khi tiếng hát cất vang, bóng Bác Hồ đã khuất sau lễ đài. Bác trở về Thủ đô trong niềm nuối tiếc của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái.
2192 lượt xem
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Mùa Thu năm 1958, Yên Bái khi đó là một trong những tỉnh khó khăn nhất miền Bắc. Vừa mới giành được độc lập, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, là một tỉnh phần lớn địa hình là đồi núi, dân cư thưa thớt, trình độ dân trí thấp, nạn du canh du cư, mê tín dị đoan còn nặng nề, cuộc sống của đồng bào nhất là đồng bào dân tộc thiểu số vô cùng thiếu thốn. Bên cạnh đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo của chính quyền địa phương đã được quan tâm nhưng chưa sâu sát với tình hình thực tế... Trong lúc khó khăn ấy, Bác Hồ đã đến với Yên Bái. Nghe tin Bác đến, đồng bào các dân tộc ở mọi nơi trong tỉnh, từ huyện xa xôi, từ vùng núi hẻo lánh đã trèo đèo, lội suối, băng rừng để xuống thị xã Yên Bái lắng nghe lời dạy, lời chỉ bảo ân cần của Người. Bác đến Yên Bái chiều ngày 24/9/1958, hàng trăm đại biểu thay mặt các đoàn thể, đại diện các dân tộc đã tập trung đón Bác tại sân ga. Cùng đi với Bác hôm đó có bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Bộ trưởng Bộ Y tế, đồng chí Lê Dung - Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải cùng một số chuyên viên cao cấp của Trung ương.
Ngay chiều ngày hôm đó, Bác đã làm việc với lãnh đạo tỉnh Yên Bái. Khi được nghe báo cáo kết quả 4 năm khôi phục kinh tế, Bác đã khen ngợi những thành tích mà đồng bào các dân tộc trong tỉnh đã đạt được. Người còn ân cần, chỉ bảo cặn kẽ, nhắc nhở đảng bộ và chính quyền phải chăm lo đời sống của đồng bào từ việc to đến việc nhỏ, làm sao đời sống được cải thiện, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, các cháu được học hành. Ngay cả việc cung cấp thuốc chữa bệnh, muối, dầu hỏa đến cái nhỏ nhặt nhất như kim chỉ thêu cũng được Bác nhắc nhở phải lo cho chu đáo. Không những thế Người còn quan tâm đến việc học hành của trẻ em, tình hình bệnh sốt rét, bướu cổ rồi các hủ tục lạc hậu trên địa bàn.
Hàng ngàn người đã tập trung về dự lễ mít tinh tại sân vận động thị xã Yên Bái
Giờ phút trông đợi đã đến, từ mờ sáng ngày 25/9/1958, tại sân vận động thị xã Yên Bái, hàng ngàn người đã tập trung về dự lễ mít tinh. Không gian tràn ngập cờ, hoa và khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm”, “Đảng Lao động Việt Nam muôn năm”, đồng bào phấn khởi chờ đợi Bác xuất hiện. Người bước ra lễ đài giản dị với bộ kaki màu vàng đã bạc màu, trước toàn thể đồng bào, Bác đã khen ngợi những thành tích mà đảng bộ và nhân dân Yên Bái đã đạt được trong 4 năm qua, đồng thời chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt cần phải làm. Người nhấn mạnh đảng bộ và nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái cần phải làm tốt công tác xây dựng Đảng, đoàn kết dân tộc, chăm lo đời sống, lắng nghe và đáp ứng nguyện vọng của quần chúng.
Trong buổi nói chuyện với hàng ngàn người dân Yên Bái, trước tiên, Bác nói đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Người khẳng định đây là vấn đề số một, hết sức quan trọng bởi vì: “Trước kia bọn thực dân, phong kiến chia rẽ chúng ta, chia rẽ các dân tộc, xúi giục dân tộc này hiềm khích, oán ghét dân tộc khác để chúng áp bức, bọc lột chúng ta. Nay chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ.”. Để đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ ý nghĩa cũng như cách thực hiện đoàn kết dân tộc, Người đã dùng những hình ảnh, ví dụ hết sức gần gũi, sinh động mà sâu sắc: “10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xòe 10 ngón tay mà bẻ từng ngón, như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó…”. Cả biển người lắng nghe lời dạy bảo của Bác mà thấm thía, tự sâu trong lòng mỗi người thấy được nhiệm vụ của mình đối với Tổ quốc, với quê hương.
Bác Hồ nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái, ngày 25/9/1958
Cả biển người lắng nghe lời dạy bảo của Bác mà thấm thía, tự sâu trong lòng mỗi người thấy được nhiệm vụ của mình đối với Tổ quốc, với quê hương
Tiếp đó, Người đặt câu hỏi, làm thế nào để đời sống nhân dân được sướng hơn, được ăn no mặc ấm? Lặng im nhìn đồng bào, Người khẳng định: “Phải tăng gia sản xuất”. Vậy làm thế nào để làm được điều đó, Người ân cần chỉ bảo: “…đồng bào phải cố gắng làm ăn định cư. Điểm nữa là nên tăng vụ…thứ ba là về phân bón. Ruộng không có phân như người không có cơm. Người không có cơm có lớn được không?... Muốn có nhiều thóc thì phải bỏ nhiều phân”. Bác còn nhấn mạnh: “Muốn tăng gia sản xuất thì phải có tổ chức, phải có tổ đổi công…” Người đã thấy được tầm quan trọng của công tác dân vận trong khi thực hiện tổ đổi công và những mặt hạn chế khi thực hiện công tác này nên đã nhắc nhở kịp thời, đúng hướng: “Tổ đổi công phải thực sự giúp đỡ nhau, chứ không phải chỉ khai trên giấy. Không phải dắt cổ bảo “anh phải vào tổ đổi công” mà phải làm cho đồng bào tự nguyện tự giác”. Những lời của người cũng chính là định hướng cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp chính quyền địa phương phải đi sâu, đi sát với tình hình thực tế.
Một vấn đề quan trọng nữa Bác đề cập trong bài nói chuyện là đồng bào phải thực hành tiết kiệm và thực hiện đời sống văn hóa mới. Cụ thể, Người chỉ rõ, tiết kiệm là tiết kiệm trong tăng gia sản xuất, tiết kiệm trong tổ chức ma chay, cưới xin. Người nhấn mạnh việc xây dựng đời sống văn hóa mới phải gắn liền với thực hành tiết kiệm, Bác nói “ Đồng bào ta đây có nhiều điểm tốt, nhưng cũng còn có nhiều khuyết điểm cần phải sửa chữa dần dần. Hỏi có tiết kiệm không? Cũng có tiết kiệm nhưng lúc đám cưới, mời họ nội, họ ngoại chè chén linh đình, 2 bữa say sưa bằng thích. Nhưng sau đấy nhà trai, nhà gái phải bán trâu, bò, thóc, bán ruộng đi vay nợ. Như thế là không tốt… đám ma cũng thế. Thường thì chôn cất cũng đủ, nhưng cũng cứ phải chén, thế rồi cũng bán thóc, bán trâu, bán ruộng…”. Người kết luận đó là những mặt chưa tốt, chưa tiết kiệm của đồng bào, đồng bào ta phải quyết tâm từ bỏ những thủ tục rườm rà, tốn kém trong ma chay, cưới xin, những tập quán lạc hậu trong làm ăn thì cuộc sống mới khá hơn, mới tiến bộ hơn. Vấn đề đặt ra nên thực hành tiết kiệm như thế nào cho đúng, cho hiệu quả, để giải đáp thắc mắc đó của đồng bào, Bác đã nêu một ví dụ rất sinh động về thực hành tiết kiệm: “Bây giờ ai cũng tiết kiệm từ trên xuống, từ thành thị đến nông thôn đều tiết kiệm, mỗi người mỗi ngày bớt một dúm gạo thôi, mỗi tháng mỗi người dành được nửa kg. Trong kháng chiến chúng ta đã làm được. Làm như thế trong tỉnh nhà mỗi năm tiết kiệm được 750 tấn gạo… Trước kia ta phải đưa gạo từ dưới xuôi lên. Đồng chí Chủ tịch có cho biết là vừa rồi cũng phải đưa lên 300 tấn. Nếu tiết kiệm được như trên thì không phải đưa gạo từ dưới xuôi lên. Làm như thế có khó không? Không khó. Có dễ không? Không dễ. Mà phải có tổ chức.”. Tiết kiệm như lời Bác dạy sao mà thiết thực, dễ làm đến thế, có thể thực hiện ở mọi nhà, mọi ngành, mọi lúc, mọi nơi, hàng ngày trong đời thường mà hiệu quả. Việc tưởng chừng như khó mà lại thành ra đơn giản, chỉ cần quyết tâm từ Đảng bộ, Chính quyền đến quần chúng nhân dân là đã giải quyết được vấn đề nan giải cho tỉnh nhà.
Với đặc trưng là một tỉnh miền núi lạc hậu, nhiều dân tộc ít người cư trú. Do vậy, khó khăn trong xây dựng đời sống mới của tỉnh Yên Bái là vấn nạn tảo hôn, nhân dịp đông đảo đồng bào các dân tộc có mặt tại lễ mít-tinh, Bác muốn nói cho đồng bào hiểu tác hại của việc này. Trước tiên, Bác nhờ đồng chí Phạm Ngọc Thạch phân tích cho đồng bào hiểu, nhưng những lời giải thích bằng ngôn ngữ khoa học của bác sĩ và với trình độ dân trí còn hạn chế thì đồng bào không hiểu, không nhớ hết được. Thấy đồng chí Phạm Ngọc Thạch gãi đầu gãi tai, Bác liền đứng ra nhận nhiệm vụ giải thích cho bà con. Với lời lẽ giản dị, mộc mạc mà gần gũi như con trâu, cái bừa, Bác nói đại ý tác hại của việc tảo hôn: Đồng bào ta khi làm nhà thường chọn cây tre nứa già mà không chọn cây non vì nó chóng mọt, chóng hỏng. Đồng bào bắt con cháu mình lấy vợ, lấy chồng sớm cũng giống như lấy cây tre nứa non về làm nhà nó cũng sẽ chóng mọt, chóng hỏng, như cây bưởi non có ép ra quả cũng không được, tảo hôn sẽ ảnh hưởng không tốt đến giống nòi. Vẫn với phong cách giản dị, mộc mạc mà gần gũi, Người hỏi đồng bào có hiểu không, cả biển người vỗ tay hô vang “hiểu ạ, hiểu ạ!”.
Kết thúc buổi nói chuyện, trước toàn thể đồng bào, Người đề nghị: “Yên Bái phải thi đua để trở thành một tỉnh khá nhất của các tỉnh miền núi, liệu các cô, các chú có hứa với Bác thực hiện được không?”. Đáp lại lời của Người, như một làn sóng, biển người hô vang “Quyết tâm”. Cuối cùng, Bác bắt nhịp cho mọi người cùng đứng dậy hát bài “Kết đoàn”. Trong khi tiếng hát cất vang, bóng Bác Hồ đã khuất sau lễ đài. Bác trở về Thủ đô trong niềm nuối tiếc của nhân dân các dân tộc tỉnh Yên Bái.
Các bài khác
- Bế mạc Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất triển khai luật, nghị quyết của Quốc hội khoá XV (06/09/2023)
- Yên Bái tham dự Hội nghị trực tuyến toàn quốc lần thứ nhất triển khai luật, nghị quyết của Quốc hội khoá XV (06/09/2023)
- Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Đức Duy kiểm tra kết quả sau 1 tháng khắc phục hậu quả thiên tai tại xã Hồ Bốn, huyện Mù Cang Chải (06/09/2023)
- Yên Bái: Nhiều hoạt động chào mừng kỷ niệm 65 năm Ngày Bác Hồ thăm Yên Bái (06/09/2023)
- Yên Bái quan tâm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa bằng các cơ chế, chính sách (05/09/2023)
- Kỷ niệm 65 năm Bác Hồ thăm Yên Bái: Bài nói chuyện của Bác Hồ với đồng bào các dân tộc tỉnh Yên Bái ngày 25/9/1958 (05/09/2023)
- Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Đức Duy dự khai giảng năm học mới các trường học tại xã Hồ Bốn, huyện Mù Cang Chải (05/09/2023)
- Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng gửi thư chúc mừng ngành Giáo dục nhân dịp khai giảng năm học 2023 - 2024 (05/09/2023)
- Đồng chí Trương Thị Mai - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm việc với BCH Đảng bộ tỉnh Yên Bái (04/09/2023)
- Đồng chí Trương Thị Mai - Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương dự khai giảng năm học mới 2023-2024 tại Văn Yên (04/09/2023)
Xem thêm »