CTTĐT - "Pá dung" là một hình thức nghệ thuật giải trí không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao. Đó là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình, ôn lại quá trình lịch sử, làm cho con người gần nhau hơn, củng cố tình đoàn kết cộng đồng. Người ta hát khi kết thúc một năm lao động vất vả, mệt nhọc, hát để lấy lại tinh thần bước vào một năm mới với mong ước sức khỏe, mọi điều may mắn, hạnh phúc.
* Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái
I. Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái.
Người Dao là một trong 12 tộc người có dân số tương đối đông sinh sống ở Yên Bái, hiện nay có khoảng 64.000 người, chiếm 9,1% dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa – nơi tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Đồng bào sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên, chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên.
Người Dao ở Yên Bái có nhiều tên gọi khác nhau như: người Động, người Xá, người Mán, ... Người Dao tự gọi mình là “Kiềm miền” (tức là người ở rừng).
Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Để phân biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.
Các nhóm Dao cũng có sự khác nhau ít nhiều về tiếng nói song đều thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (nằm trong ngữ hệ Nam Á).
Hình thái kinh tế chủ yếu của người Dao ở Yên Bái là sản xuất nông nghiệp với hai loại hình: lúa nương và lúa nước. Trong đó lúa nước chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra, đồng bào còn trồng một số loại cây hoa màu như ngô, sắn, ... Rau của người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, các cây họ đậu, khoai, củ từ, dưa gang, .... Đặc biệt ở người Dao Yên Bái phát triển mạnh 2 loại cây công nghiệp đó là cây quế và cây chè. Ngoài cây lúa, hoa màu, quế và chè đồng bào còn có thu nhập thêm từ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà...
Người Dao có các nghề thủ công truyền thống phong phú, đa dạng và phát triển rất sớm, trong đó nổi bật là làm giấy dó, dệt vải, nhuộm chăn, in và thêu hoa văn trên vải, đan lát các đồ đựng bằng tre, nứa, giang, mây song, nghề rèn. Nghề rèn của đồng bào Dao cũng phát triển, chủ yếu là các nông cụ như: dao, cuốc, cào cỏ, lưỡi cày. Nghề làm đồ trang sức bằng bạc, sanh căng và bằng đồng làm thành vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn, xà tích.
Đồng bào Dao thường dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng bản riêng biệt hoặc xen cư với các tộc người khác. Ở người Dao Yên Bái hội tụ đầy đủ 3 loại hình nhà ở đó là: nhà sàn của nhóm Dao quần trắng, nhà đất của nhóm Dao Đỏ và nhà nửa sàn nửa đất của nhóm Dao Quần Chẹt và Dao Tuyển. Hiện nay, những gia đình người Dao có cuộc sống khá giả đã xây nhà theo kiểu mới.
Trang phục truyền thống của người Dao Yên Bái đặc sắc và nổi bật ở nghệ thuật trang trí trên quần áo với mô típ hoa văn cây cỏ, động vật, hình người, hình chim, kết chữ Hán được cách điệu rất sinh động. Trang phục đàn ông thường có hai loại: áo ngắn mặc hàng ngày và áo dài mặc trong lễ hội, lễ cấp sắc hay đám cưới. Trang phục nữ phong phú hơn với những trang trí hoa văn truyền thống, đầu đội khăn.
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản, thức ăn chính của người Dao là cơm tẻ, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ và các loại thảo mộc khác. Ngày nay, đồng bào đã trồng nhiều loại rau khác nhau ngay tại vườn nhà để phục vụ nhu cầu hàng ngày khi không vào rừng hái rau. Các loại gia súc, gia cầm được nuôi chủ yếu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình cũng như những tín ngưỡng dân gian của đồng bào. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam.
Các hoạt động sinh hoạt xã hội – gia đình của người Dao ở Yên Bái cũng rất phong phú và đa dạng. Các nhóm Dao đều thờ cúng tổ tiên và thờ Bàn Vương. Thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình. Bàn Vương được coi như thủy tổ của các dòng họ nên cũng cúng bái chung với tổ tiên. Cùng với phong tục cúng Bàn Vương thì người Dao còn có nghi thức “cấp sắc”. Đây là một tục lệ phổ biến và bắt buộc đối với tất cả đàn ông Dao. Một trong những nghi lễ rất quan trọng phải nhắc đến đó là "Tết nhảy” (Nhiàng chầm đao). Nghi lễ này nhằm mục đích cúng Bàn Vương và luyện binh tướng (âm binh) để bảo vệ cuộc sống và sinh hoạt gia đình.
Hôn nhân của người Dao Yên Bái có nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt truyền thống được thực hiện trong đám cưới đặc biệt là hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Đây là một nghi thức sinh hoạt truyền thống vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Tục cưới xin của người Dao phải trải qua nhiều nghi lễ khá phức tạp, mỗi nhóm có những nghi lễ riêng. Thường thì hôn lễ của người Dao được tiến hành qua các bước sau: nhà trai đến nhà gái xin so tuổi đôi nam nữ; nhà trai báo cho nhà gái biết kết quả so tuổi của đôi nam nữ; định ngày cưới và dâng lễ; lễ cưới và lại mặt. Người Dao thường có tục ở rể 3 năm, sau đó mới được ở riêng hoặc về nhà trai ở hẳn.
Tang ma là một trong những nghi lễ rất quan trọng của vòng đời người Dao phản ánh nhiều tục lệ từ xa xưa. Đồng bào Dao quan niệm rằng con người có phần hồn và phần xác, khi nào phần xác bị hại nặng quá thì người bị chết. Một đám tang của người Dao thường có các các nghi lễ sau: Lễ khâm niệm, lễ xôi gà và lập bàn thờ (lễ cấp thủy và dâng rượu, gia súc); lễ làm chay, lễ nhập quan yểm bùa, lễ đưa đám, lễ hạ huyệt và lễ cúng cơm. Hầu hết các nhóm người Dao ở Yên Bái không có tục cải táng người chết. Đồng bào rất kiêng kỵ việc dựng vợ gả chồng cho con hay làm nhà mới, trồng cấy, gieo hạt giống trùng với ngày mất của người thân. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình.
Người Dao Yên Bái đều có vốn thơ ca dân gian rất phong phú, đồng bào hát "Páo dung" (Pá dung, Pả dung) gợi nhớ lịch sử, xã hội tộc người, ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, thế giới động vật, ca ngợi sản xuất dưới nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và còn gắn vào những bài hát giáo lý, xã hội, gia đình. Người Dao có rất nhiều chuyện cổ tích kể về mọi hiện tượng xảy ra trong xã hội, thiên nhiên. Các câu chuyện đều mang tính giáo dục sâu sắc, anh em phải sống hòa thuận, yêu thương nhau.
Ngày nay truyền thống văn hóa dân gian luôn được bảo tồn, khai thác, phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh tộc người Dao cũng đang góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái ngày càng giàu đẹp hơn.
II. Khái quát về người Dao ở huyện Lục Yên.
1. Khái quát chung về huyện Lục Yên.
Huyện Lục Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên Bái. Huyện Lục Yên nằm trên toạ độ địa lý: từ 21055’30’’ đến 22003’30’’ vĩ độ Bắc; từ 104030’ đến 104053’30’’ kinh độ Đông, Phía Bắc và phía Đông giáp huyện Hàm Yên (Tuyên Quang), huyện Quang Bình, huyện Bắc Quang (Hà Giang), phía Tây Bắc giáp huyện Bảo Yên (Lào Cai); phía Tây và phía Nam giáp huyện Văn Yên, huyện Yên Bình. Lục Yên nằm trong tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thích hợp với sự phát triển nông, lâm nghiệp. Theo thống kê năm 2008 thì tổng diện tích tự nhiên của huyện là 80.870 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 9.826,35 ha, đất lâm nghiệp là 59.417,33 ha còn lại là các loại đất khác. Toàn huyện có 23 xã và 1 thị trấn, bao gồm: An Lạc, An Phú, Động Quan, Lâm Thượng, Liễu Đô, Khai Trung, Khánh Hòa, Khánh Thiện, Mai Sơn, Minh Chuẩn, Minh Tiến, Minh Xuân, Mường Lai, Phan Thanh, Phúc Lợi, Tân Phượng, Tân Lập, Tân Lĩnh, Tô Mậu, Trúc Lâu, Trung Tâm, Vĩnh Lạc, Yên Thắng, thị trấn Yên Thế.
Dân số của toàn huyện Lục Yên năm 2008 là 105.104 người. Mật độ dân số bình quân là 1130 người/km2năm. Toàn huyện có 16 dân tộc anh em cùng chung sống gồm: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mường, Thái, Cao Lan, Dáy, Ngái, Pa Cô, Pa Dí, Xá, Tu Dí, Lô Lô, Mông...
Địa hình của huyện bị chia cắt bởi 2 dãy núi chính chạy dọc theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tạo ra các thung lũng, bồn địa bằng phẳng là nơi dân cư tập trung sản xuất và sinh sống từ lâu đời. Phía hữu ngạn sông Chảy là dãy núi Con Voi chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có độ cao trung bình 300 – 400m, đỉnh cao nhất 1,148m, đỉnh tròn, sườn thoải, độ dốc trung bình 400. Phía tả ngạn sông Chảy là dãy núi đá lớn chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, đỉnh cao nhất 1.035m, có độ dốc lớn, đỉnh nhọn, sườn núi bị cắt xẻ. Vùng đất thấp bằng phẳng được xen kẽ giữa 2 dãy núi và triền sông Chảy đất đai phì nhiêu màu mỡ. Đất ở đây có thể phân ra thành hai hệ đất chính: đất phù xa do sông chảy bồi đắp và hệ đất Feralit phát triển trên nền địa chất đa dạng của địa hình đồi núi.Với địa hình và đất đai như trên rất thuận lợi cho phát triển cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và nông nghiệp. Cùng với đó Lục yên còn có tài nguyên khoáng sản rất lớn với các loại khoáng sản quý hiếm như: phôtphorit, pirit, đá quý, đá bán quý, đá hoa trắng, đá xây dựng, than, sỏi, cát…
2. Người Dao ở huyện Lục Yên
Tính đến năm 2008 người Dao ở huyện Lục Yên là 15.240 người chiếm 14.5% dân số toàn huyện. Huyện Lục Yên hiện có 2 nhóm Dao chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản); Dao Quần Trắng. Phần lớn người Dao ở đây sống tập trung ở các xã Trung Tâm, Phúc Lợi, Trúc Lâu, Động Quan, Khánh Hòa, An Lạc, Khai Trung, Tân Phượng và rải rác ở Tô Mậu, Tân Lĩnh và Tân. Họ cư trú thành các bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Họ có hai loại hình cư trú phân tán và tập trung tương ứng với nhóm du canh hoặc định canh sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nguồn sống chính của họ là lúa nước và lúa nương, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, cây đặc sản. Nhìn chung đời sống của người Dao còn nhiều khó khăn. Người Dao ở đây vẫn còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc truyền thống như cấp sắc, đám cưới, tang ma, ...
III. Khái quát về người Dao Đỏ ở xã Trung Tâm, huyện Lục Yên.
1. Khái quát về xã Trung Tâm, huyện Lục Yên.
Xã Trung Tâm là một xã vùng 3 cửa ngõ phía Nam của huyện Lục Yên, nằm ở tọa độ địa lý là 21°58′19″B 104°45′6″Đ, phía Bắc giáp xã Phúc Lợi, phía Nam giáp xã Tân Nguyên ( huyện Yên Bình), phía Đông Nam giáp xã Phan Thanh, phía Tây nam giáp xã Ngòi A (huyện Văn Yên). Xã Trung Tâm cách thành phố Yên Bái hơn 40km về phía Bắc, nằm trên tuyến đường Quốc lộ 70 nối Hà Nội – Việt Trì – Yên Bái – Lào Cai.
Theo thống kê năm 1999, Xã Trung tâm có diện tích 4.228,5 ha trong đó có 62 hq ruộng lúa nước 2 vụ, dân số là 3.135 người, mật độ dân số đạt 75 người/km². Đây là nơi tập trung sinh sống của rất nhiều anh em dân tộc, chủ yếu là dân tộc Dao, Kinh, Tày, Nùng.... Xã Trung Tâm hiện nay có 13 thôn là: Thôn Làng Thìu, Thôn Làng Đát, Thôn Lũng Cọ, Thôn Khe Lạnh, Thôn Khe Vầu, Thôn Khe Hùm, Thôn Sài Trên, Thôn Sài dưới, Thôn Sài Lớn, Thôn Sâm Trên, Thôn Sâm Dưới, Thôn Ngòi Thìu, Thôn Vạn Thìu.
Xã Trung Tâm có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nên sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của xã Trung Tâm. Đồng bào ở đây thường trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn, khoai sọ... và trồng các loại cây công nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao như keo, bồ đề mỡ.
Điều kiện xã hội xã Trung Tâm đang ngày một thay đổi, đời sống của nhân dân ngày một được cải thiện và nâng cao, GDP đầu người tăng, tình hình an ninh chính trị ổn định, cơ sở hạ tầng đang từng bước được đầu tư hoàn thiện và khang trang.
2. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội của người Dao xã Trung Tâm, huyện Lục Yên.
Lịch sử di cư của người Dao ở Trung Tâm, huyện Lục Yên.
Theo khảo sát ở những địa phương có người Dao sinh sống thì người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17), với hai hướng chính là đường bộ và đường biển. Người Dao di cư vào Việt Nam theo nhiều đợt sớm nhất từ thế kỷ XIII, các nhóm Dao ở tỉnh Yên Bái chủ yếu di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng sang.
Ở xã Trung Tâm tộc Dao có 2465 khẩu chiếm 70 % dân số toàn xã. Họ thường sống thành bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Nguồn sống chính của người Dao ở Trung Tâm là trồng lúa nước, lúa nương, các loại hoa mầu thiết yếu phục vụ cho cuộc sống như khoai sọ, vừng, bí, rau, đậu. Những năm gần đây, người Dao ở xã Trung Tâm rất phát triển chăn nuôi bò, lợn, gà ... Ngoài ra, còn phát triển trồng cây ăn quả, cây đặc sản .... Ở đây còn có các nghề thủ công như đan lát, rèn đúc, nghề dệt nhưng những nghề này chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp của các gia đình.
Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Dao ở Trung Tâm.
Trung Tâm là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Dao Đỏ, vậy nên nhà đất là loại hình nhà ở chủ yếu của đồng bào. Đó là loại nhà hình chữ nhật, nhà thường được xây dựng 2 gian, 2 cháI, cột bằng các loại gỗ chắc ít mối, mọt lợp bằng cọ vách nhà thường làm bằng các tấm dát vầu, hốc gắn kết bằng các thanh ngang, bộ sườn nhà được chế tạo khá đơn giản. Nguyên vật liệu làm nhà thường kiếm ngay tại chỗ, chủ yếu là cây rừng. Phần gian nhà bên phải dành đặt giường ngủ của khách, buồng ngủ của chủ nhà đặt ở phía bên phải bàn thờ, giường ngủ của con trai thường đặt sau giường của khách, còn phòng ngủ của con gái thường đặt phía trong gần bếp. Bàn thờ được đặt ở gian giữa, nhà thường có hai bếp (một bếp ở gian ngoài để sưởi ấm vào mùa đông dành cho đàn ông và khi có khách đến). Nhà của người Dao thường được bố trí: bếp là nơi tập trung của cả gia đình vào mùa đông, là nơi rộng nhất trong nhà. Nhà ở của người Dao có ít cửa ra vào, đặc biệt là ít của sổ, đa số chỉ có một cửa sổ đặt ở giường nằm ngủ. Đây là loại nhà tổng hợp bếp, chuồng gia súc, các công cụ sản xuất và sinh hoạt đều thuộc phạm vi nhà ở.
Trang phục của người Dao đỏ: Trong các nhóm Dao thì trang phục của người dao Đỏ thường được làm cầu kỳ và sử dụng nhiều màu sắc hơn cả. Đối với trang phục nam giới không có gì khác biệt lắm so với trang phục nam giới trong các ngành Dao. Đàn ông Dao đỏ thường đội mũ nồi hoặc vấn khăn dài, áo chàm được may theo lối cổ khoanh bí, áo dài gần trùm mông, vạt áo may thẳng có cài khuy lộn dọc từ ngực xuống bụng, sau lưng áo có miếng vải hoa văn hình bùa chú. Quần của đàn ông là quần thụng vải đen, may kiểu chân què bổ đũng dài gần chạm cổ chân và cạp quần luồn dây rút bằng sợi vải hoặc sợi gai. Trang phục của nữ giới Dao Đỏ được tạo điểm nhấn bằng những gam màu đỏ của vải hoặc sợi trên nền vải đen và thường được may công phu hơn, gồm có các bộ phận: khăn, áo, thắt lưng, quần, xà cạp cùng đồ trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay….. Để tạo thành bộ y phục đẹp phải có vải đen làm nền để thêu hoa văn, chỉ thêu gồm 5 màu cơ bản: đỏ, trắng, đen, xanh, vàng, nhưng chủ yêu là màu đỏ. Người Dao đỏ thích dùng mầu đỏ tươi rực rỡ để trang trí: khăn đỏ, ngực áo, cổ áo đỏ, khăn đỏ, tua đỏ, yếm đỏ, nẹp ngực áo đỏ, yếm lưng đỏ...
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản thức ăn chính của người Dao là lúa nước và lúa nương, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ, các loại rau trồng trong vườn nhà và các loại thảo mộc khác. Cùng với đó là các thức ăn từ gia súc gia cầm. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam. Người Dao rất thích ăn ớt, gừng, riềng, lá sả, hạt dổi, lá chanh, các thứ rau thơm và các thứ nước chua. Hàng ngày đồng bào uống nước chè, nước vối, nước từ các loại cây thuốc... Người Dao cũng uống các loại rượu cất từ gạo, ngô, khoai, sắn và các loại cây có bột như: báng, móc. Men rượu đều chế biến bằng các thứ lá và rễ cây rừng.
Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Dao ở Trung Tâm.
Tiếng nói - chữ viết: Tiếng Dao nói chung và Dao Đỏ nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, nằm trong ngữ hệ Nam Á
Chữ viết của người Dao còn trong một số tài liệu lưu giữ được là chữ Hán và chữ Nôm Dao.
Một số nghi lễ truyền thống
+ Lễ Cấp Sắc: Đây là một nghi lễ truyền thống độc đáo có tính lịch sử lâu đời trong đời sống sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao công nhận sự trưởng thành cả về vật chất lẫn tinh thần của người đàn ông. Theo quan niệm của người Dao thì cấp sắc là để được thánh thần công nhận, được âm binh và có thể làm nghề cúng bái. Nghi lễ của lễ cấp sắc rất mở, có thể là một, hay nhiều cá nhân của một gia đình, dòng họ hay cả một tập thể của nhiều gia đình, nhiều dòng họ, nhiều bàn làng khác nhau tổ chức. Lễ cấp sắc có rất nhiều bậc, bậc đầu tiên họ được cấp 3 đèn và 36 binh mã, bậc hai được cấp 7 đèn và 72 binh mã, bậc ba được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Lễ cấp sắc 3 đèn và 7 đèn được tổ chức thường xuyên trong cộng đồng tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện của các gia đình, dòng họ. Riêng nghi lễ cấp sắc 12 đèn có quy mô lớn hơn hai nghi lễ trên nên phải hai, ba mươi năm mới có một lần. Nội dung chính của lễ cấp sắc tiến hành theo trình tự sau: lễ lên đèn, lễ ban mũ thầy cúng, Lễ trình diện Ngọc hoàng, Lễ cấp tinh, Lễ hạ đèn và giao quân, lễ qua cầu, lễ đặt tên. Các nghi thức trong lễ cấp sắc đều nhằm mục đích hướng thiện, giúp con người trưởng thành hơn, đạo đức hơn, sống tốt hơn và quan trọng là những lời giáo huấn này được thực hiện bằng những lời thề trước sự giám sát của tổ tiên và nhiều quan binh nên càng làm tăng tính giáo dục. Đây là một nghi lễ giao tiếp có tính kế thừa, kết nối các giá trị văn hóa giữa các thế hệ chứa đựng nhiều thành tố quan trọng của bản sắc văn hóa Dao. Đồng thời lễ cấp sắc cũng là dịp để cộng đồng cùng thưởng thức các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhảy múa hết sức hấp dẫn. Các điệu múa trong lễ cấp sắc rất đặc sắc. Múa ở đây có sự đan xen hòa quyện giữa yếu tố lao động trần thế và tôn giáo thể hiện sự giao hòa giữa hai thế giới, điệu múa đặc trưng, đặc sắc, vui nhộn nhất là Múa Rùa. Múa Rùa diễn ra trong không khí vui tươi, những động tác múa nhịp nhàng, khỏe khoắn của các chàng trai miêu tả lại việc đuổi rùa, tìm rùa, bắt rùa, giết rùa. Múa Rùa là một nét đẹp, thể hiện tính phồn thực và mối giao hòa trong cộng đồng dân tộc.
+ Tết nhảy: Đây là tết riêng của mỗi gia đình, cũng mang tính dòng họ. Tết này này nhằm mục đích luyện âm binh cho bộ tranh Đại đường để thờ phụng các thần linh, bảo vệ cuộc sống gia đình. Vì vậy nó mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo rất rõ rệt. Tết nhảy được tiến hành vào tháng chạp, năm nào cũng tổ chức nghi lễ này cứ ba năm làm thành một chu kỳ. Chỉ có gia đình nào có bàn thờ tổ và đã sắm tranh Đại đường thì mới có tết nhảy. Tết nhảy đòi hỏi một quá trình chuẩn bị khá lâu, phải nấu rượu, nuôi lợn, thanh niên luyện tập các điệu múa, chuẩn bị dao, gươm bằng gỗ.
Quá trình của tết nhảy trải qua các bước sau: lập đàn tẩy uế, làm lễ khấn các thần thánh. Nội dung chính của nghi lễ là nhảy múa và khấn tụng được tổ chức liên tục trong suốt những ngày đêm làm tết. Mỗi người múa tay đều cầm cờ, trống chiêng, sập sèng... múa theo điệu quay vòng. Rồi sau đó là nhiều điệu múa truyền thống được trình diễn như: múa kiếm, múa dạo (lạp miên a dạo), múa nhảy rùa (Pẻo tộ)... Tất cả những động tác của các điệu múa này đều được thực hiện một cách liên tục với sự khéo léo và tinh tế của người trình diễn. Những điệu múa, lời hát trong Tết nhảy thường hướng đến những điều tốt lành, hạnh phúc. Lễ "nhìang chầm đao" chủ yếu phục vụ cho tôn giáo tín ngưỡng, nhưng ít nhiều có mầu sắc văn nghệ, toát lên ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao sống đoàn kết, thủy chung, tình nghĩa.
Một số lễ tết khác của tộc người trong năm:
+ Tết Nguyên Đán: Khác với dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa dân tộc mình. Với người Dao cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Đồng bào Dao đón tết đơn giản nhưng lễ nghi lại cầu kỳ và độc đáo. Với người Dao, tết nguyên Đán là mở đầu cho một năm mới đã bận rộn chuẩn bị từ 27, 28 tháng chạp. Từ 27/12 nhân dân đã chuẩn bị mọi thứ cho việc đón tết như: gạo, bột, lá gai, củi, rau, bò, lợn, trang trí nhà của và đặc biệt sắp đặt quần áo.
Ngày 30 tết nhà nào cũng phải nấu một nồi nước thơm thật to để ai cũng phải tắm. Theo quan niệm của người Dao thì tất cả mọi người phải tắm rửa sạch sẽ để rũ bỏ mọi xấu xa, bẩn thỉu của năm cũ bước vào năm mới sạch sẽ, trong lành. Chiều 30 tết nhà nào cũng lập đàn cúng để mời gia tiên và các thần linh về ăn tết với con cháu. Bao giờ cũng vậy tối 30 tết mọi người trong gia đình quây quần bên nồi bánh trưng để trò truyện về năm đã qua. Các thứ bánh được người Dao cúng trong ngày tết ngoài bánh trưng còn có các thứ bánh khác như bánh dầy, bánh gai, bánh bột nếp....Cũng giống người kinh trên bàn thờ của mỗi gia đình người Dao có thêm cành đào, trong chén lúc nào cũng có rượi và nước, hương được đốt liên tục. Ngoài ra người Dao còn quan niệm kiêng không mở hòm trong 3 ngày tết nên phải lấy sẵn quần áo và đồ dùng trước giao thừa. Trong 3 ngày tết cũng không được san sẻ hay cho ai bất cứ thứ gì. Đêm giao thừa người Dao có tục thay nước đầu năm mới trên bàn thờ. Từ đêm giao thừa đến mùng một, họ kiêng không ăn rau chỉ ăn cơm, các loại bánh và thịt động vật. Sau khi cúng giao thừa song mọi người trong gia đình quây quần vui vẻ, ăn uống, ca hát và chúc tụng nhau những lời chúc tốt lành cho năm mới. Sáng mùng một sau khi song xuôi mọi thủ tục ở gia đình, mỗi nhà một người nam giới mặc trang phục truyền thống tạo thành một đoàn đi chúc tết tất cả các nhà.Tết cũng là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi hội ngày xuân.
+ Tết cùng năm: Đây là tết của gia đình, dòng họ. Dòng họ nào cũng tổ chức tết này vào tháng 12 âm lịch, nhưng tập chung nhất vào các ngày 15 đến 25 tết. Các gia đình luân phiên nhau tổ chức tết, luân phiên mời nhau.Mục đích của tết này trước là để lập đàn cúng tạ ơn gia tiên, các thần linh đã phù hộ cho gia cho, dòng tộc một năm may mắn thành công... Sau là ngày xum họp của anh em ruột thịt, họ tộc, bạn bè thân thiết để trò chuyện thông báo cho nhau về một năm qua. Lễ vật chuẩn bị cho tết năm cùng khá đầy đủ với thịt lợn, gà, bánh dầy. Bánh dầy là một trong những lễ vật không thể thiếu được trong tết năm cùng.
+ Tết cơm mới: Đây là một trong những lễ cúng quan trọng của mỗi gia đình Dao được tổ chức tại nhà.Cúng cơm mới là để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tốt tươi, lúa ngô có thể thu hoạch được. Lễ cúng được tổ chức trong nhà. Khi lúa sắp được thu hoạch, người ta chọn ngày tốt, gặt lấy ít thóc đầu mùa đem phơi khô, lấy gạo nấu cơm cúng. Nếu lúa chưa chín họ lấy gạo cũ về thổi cơm, ngắt lấy vài bông bỏ vào nồi cơm để có hương vị cơm mới và coi đó là cơm mới. Đàn cúng gồm: 5 bát cơm, 5 chén rượi, 1 chén nước, 1con gà luộc, một ít tiền ma, một bát hương. Chủ nhà đứng trang nghiêm trước bà thờ kế công ơn cử tổ tiên và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ mãi mãi về sau để công việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Sau lễ này, đồng bào chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để thu hoạch lúa mới.
Các tập quán theo chu kỳ đời người
+ Sinh đẻ: Người Dao đẻ ngồi và đẻ ngay trong buồng ngủ, không được đẻ ở nơi khác, do mẹ chồng, mẹ đẻ hoặc chồng đỡ cho. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế mới bế lên, tắm rửa bằng nước nóng. Người ta cắt rốn bằng dao nứa. Ngay từ khi đẻ sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng và rượi. Trẻ sinh được ba ngày thì gia đình lập giàn cúng mụ gọi là làm lễ "nam khan". Sau khi sinh khoảng từ 3 đến 7 ngày, họ chọn ngày tốt để làm lễ để đặt tên cho trẻ. Tên của bé cũng được chọn rất kỹ, không được trùng với tên của gia tiên, ông bà, chú bác, anh em nội ngoại gần xa. Người Dao Đỏ thường đặt tên con đầu là: Cấu, San, Lộ... Con trai út lại thường đặt tên là: Lai, Lĩu...
+ Cưới hỏi: Lễ cưới của người Dao Đỏ có nhiều nét đọc đáo, trước ngày cưới khoảng một năm bên nhà trai phải trao các khoản thách cưới bằng tiền để cô dâu chuẩn bị cho ngày cưới. Suốt thời gian một năm ấy, cô gái phải dành thời gian để thiêu thùa, sắm sửa trang phục, chuẩn bị của hồi môn.Đến ngày cưới nhà trai cử người đến đón dâu, tùy theo giờ tốt, người ta đưa cô dâu vào nhà chồng theo các hướng theo quy định. Khi ăn cỗ, họ nhà trai ngồi riêng, nhà gái ngồi riêng. Người Dao Đỏ còn có tục bất kỳ ai trong họ nhà trai cũng như nhà gái đến dự đám cưới đều có phần thịt, bánh mang về.
+ Tang ma: Ngay sau khi người chết tắt thở, người ta bắn ba phát súng, nếu là người trưởng tộc hoặc được cấp sắc 7 đèn trở lên thì chọc thủng nóc nhà bắn chỉ thiên báo cho Ngọc Hoàng và báo cho dân làng biết. Đám ma cử người Dao Đỏ cũng tiến hành tất cả các thủ tục như các nhóm Dao khác. Mồ mả người chết được chôn vĩnh viễn. Đồng bào quan niệm đám ma chỉ là bước đem người chết đi cất giấu để không cho ma xấu bắt hồn và làm nhục thể xác.
+ Làm nhà mới: Việc làm nhà mới với người Dao Đỏ là rất quan trọng. Việc chọn địa điểm làm nhà là quan trọng hơn cả. Đồng bào thường làm ở nơi khuất gió, cao ráo, gần khe suối, gần ruộng nương thuận tiện cho việc lấy củi, hái rau.Nghi lễ chon đất cũng rất được coi trọng, đồng bào quan niệm nếu gặp được điền lành khi chọn đất làm nhà thì sẽ gặp nhiều may mắn làm ăn gặp nhiều thuận lợi. Sau khi dựng nhà song, theo giờ tốt đã chọn, đồng bào sẽ làm lễ vào nhà mới như sau: một cụ già cầm đuốc đi trước, theo sau là chủ nhà và những người trong gia đình đem theo bàn thờ tổ tiên và một số đồ vật tượng trưng. Sau đó họ làm cơm để kính báo và mời tổ tiên về nhà mới cùng con cháu.
Một số tín ngưỡng thờ cúng dân gian
+ Thờ cúng tổ tiên:
Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình đồng bào người Dao, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ.
Theo quan niệm của người Dao tổ tiên là loại ma lành phù hộ con cháu, tuy nhiên nếu không thờ cúng cận thận tổ tiên cũng có thể bắt tội làm con cháu ốm đau bệnh tật. Thường người Dao thờ tổ tiên chín đời. Điều này thể hiện rõ trong các nghi lễ lớn như cấp sắc, tảo mộ hoặc trong các dịp tết của gia đình.
Việc lập bàn thờ tổ phải tuân thủ theo quy định rất nghiêm ngặt. Bởi vậy nó thể hiện bề dày truyền thống gia đình và cũng là niềm tự hào của truyền thống gia đình. Bàn thờ tổ luôn được đặt ở gian giữa nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đằng trước hay bên cạnh bàn thờ người ta treo một cái trống bằng dây thừng hay da thú, dây này buộc lên thượng lương của nhà. Ngay trên vách cạnh bàn thờ người ta treo hai ống nứa hay hai túi vải đựng hai bộ tranh "Tam thanh lớn" và "Tam thanh nhỏ". Vì bàn thờ tổ là nơi tôn nghiêm nên phụ nữ đặc biệt là các cô dâu ít được gần nhà thờ, đặc biệt là không bao giờ được thắp hương hoặc bê lễ vật lên bàn thờ cúng. Ngay từ khi quét nhà người ta luôn luôn chú ý quay mặt về phía bàn thờ mà quét quay lui trở ra, quay lưng về phía bàn thờ bị coi như là một thái độ thiếu tôn kính đối với tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên thường là do chủ gia đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Nếu nhà không có đàn ông thì đến ngày lễ tết, đốt hương ở phen thờ, cúng lễ cũng phải nhờ đàn ông khác trong họ đến cúng.
+ Thờ cúng Bàn vương "Chẩu đàng"
Thờ cúng Bàn vương là một tục lệ khá điển hình trong sinh hoạt của người Dao. Bàn Vương được đồng bào coi là thủy tổ của dòng họ nên việc thờ cúng Bàn Vương được người Dao coi như một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả dân tộc. Thường ngày, Bàn Vương được thờ cúng chung với tổ tiên của từng gia đình, từng họ. Trong các nghi lễ lớn lễ cấp sắc, tết nhảy... đều phải cúng Bàn Vương. Ngoài việc cúng Bàn Vương hàng ngày còn có những lễ cúng bàn vương riêng với các nghi lẽ chính sau: Lễ khuất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.Việc thờ cúng Bàn Vương không phải chỉ là sự chung thủy uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn của tổ tiên, mà còn là yếu tố văn hóa quan trọng được lưu truyền qua nhiều thế hệ của người Dao.
Văn học dân gian
Dân tộc Dao vốn có một lịch sử và một nền văn hóa lâu đời, một nền văn học nghệ thuật và những tri thức dân gian rất phong phú, phản ánh lên cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ của người Dao. Trong các sáng tác dân gian của dân tộc Dao, văn học dân gian (Truyện cổ, thơ ca, câu đố, Hát, Múa, Tực ngữ, Vẽ...) chiếm phần lớn. Dân tộc Dao không có văn tự riêng nhưng họ sử dụng chữ Hán đã Dao hóa. Cùng với các tác phẩm truyền miệng còn có các tác phẩm khuyết danh bằng chữ nôm Dao. Các sáng tác bằng truyền miệng được diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân nên phong phú và khá phổ biến. Nội dung của văn học dân gian chủ yếu đề cập đến nguồn gốc của dân tộc Dao, ca ngợi thiên nhiên, tình yêu trai gái,đề cao lao động, kinh nghiệm cuộc sống.
Tri thức dân gian
+ Cách tính thời gian dân gian: Đối với người Dao, việc tính tớn thời gian rất quan trọng và phải tiến hành thường xuyên để biết thời vụ sản xuất, biết ngày tốt, ngày xấu, ngày cho phép khởi điểm các công việc có tính chất đặt nền móng, biết được những ngày kiêng kỵ không đi làm nương. Song đồng bào không có hệ thống lịch riêng mà chỉ dựa hoàn toàn theo cách tính lịch Trung Quốc. Cách tính tháng hoặc năm, người ta dựa vào chu kỳ mặt trăng như cách tính thời gian theo lịch âm của người Việt, cũng theo lục giáp (10 can, 12 chi) và gọi tên theo tên 12 con vật.
+ Cách phán đoán thời tiết, khí hậu: Đồng bào Dao có một số kinh nghiệm phán đoán thời tiết, khí hậu để sản xuất cho kịp thời vụ. Những kinh nghiệm đó đã được đúc kết, tích lũy từ lâu đời trên cơ sở nhận xét sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên như: khi thấy " xâu kỉa piáo" (kiến dọn tổ) thì báo hiệu trời sắp mưa, nếu kiến ở bờ suối dọn tổ thì sắp có nước lũ. Hoa " xấu dòng phăng" (rau muống rừng) nở đỏ rực, báo hiệu không lo rét trở lại, cấy lúa sớm......
+ Y học dân gian: dân tộc Dao đã tích lũy được nhiều vốn y học cổ truyền quý giá. Các vị thuốc chủ yếu hái lượm ở rừng, ít khi trồng sẵn. Có loại lấy rễ, có loại lấy lá hoặc vỏ, cũng có loại lấy quả hoặc hoa .... Có vị thuốc sắc uống để chữa bệnh đường ruột, đau xương ...; có vị giã nhỏ để rịt hoặc bó hư chữa gẫy xương, vết thương nhỏ... ; có vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa như các bệnh ngứa, lở loét, phù thũng... Nhìn chung có thể chia làm ba loại thuốc chính: thuốc bổ, thuốc trị bệnh và thuốc độc giết hại thú rừng.
* Nghệ thuật "Pá Dung" của người Dao
I. Sơ lược về hát "Pá dung" của người Dao.
"Pá dung" (hay còn gọi là "Páo dung" hay "Pả dung") là một lối hát trên cơ sở giai điệu, tiết tấu có sẵn, nội dung vô cùng phông phú. Đây là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của cộng đồng Dao từ xưa đến nay. Đồng bào quan niệm "Có sừng dài mới đi vào được làng" (mài chong đáo chính pịa tú lảng), nghĩa là phải biết hát và hát đối giỏi mới được vào làng. Theo thông lệ của đồng bào, đã là khách muốn vào làng phải biết hát. Do vậy, người Dao nói chung, ai cũng có nguyện vọng là muốn hát và hát giỏi.
"Pá dung" là hát nói chung phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt, có thể kể về quá trình lịch sử - xã hội của tộc người như: "Người Dao vượt biển" (Phìu dìu khói dung), muốn hát "người Dao vượt biển" đòi hỏi phải thuộc mới được hát. Có thể người này thay người kia hát nhưng phải tiếp nối nhau cho trọn bài vì đồng bào quan niệm nếu dừng lại giữa chừng thì quá trình vượt biển của tộc người không đến nơi đến chốn, lênh đênh, lưu lạc ngoài biển cả. Khi không thuộc một đoạn nào đó thì phải có người nhắc hoặc phải có sách để xem.
Hát trai gái chưa vợ chưa chồng (Pá dung tòi tồm dòi lủng) hát ca ngợi tình yêu đôi lứa, hát đối đáp, giao duyên. Trai gái có thể hát mấy đêm liền. Họ hát để tỏ tình yêu đương với nhau. Khi hát thường có các cụ già giúp đỡ đặt lời ví đối khẩu.
Hát những người có vợ có chồng (Mài piáo tồm tòi pá dung). Những cuộc hát này có mục đích chính là thưởng thức tài văn nghệ của nhau nên nội dung các bài hát chủ yếu ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, hỏi thăm sức khỏe, thăm công việc đồng áng, thăm gia đình con cháu của nhau. Họ không hát tỏ tình như trai gái chưa vợ chưa chồng nên thời gian hát ngắn hơn, thường chỉ một vài giờ là kết thúc.
Hát uống rượu (Pá dung hốp tiu): khi uống rượu vui vẻ thì đồng bào hát với nhau. Nội dung bài hát thường phù hợp với ý nghĩa của tiệc rượu. Ví như trong đám cưới, người ta hát những bài khuyên nhủ vợ chồng làm ăn hòa thuận, đông con nhiều cháu; trong tiệc rượu mừng nhà mới, người ta hát những bài chúc sức khỏe, sản xuất tốt, làm ăn gặp nhiều may mắn, ... Trong tiệc rượu, ai muốn hát cũng được, không phân biệt trai gái, không phân biệt tuổi tác.
Hát ru (Háo ton dung). Làn điệu hát ru rất nhẹ nhàng, êm dịu, bay bổng. Loại hát này thường được mở đầu và kết thúc bằng câu "Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng" (Ối a, ngủ ngon, ngủ ngoan con nhé). Khi ru, các bà, các chị thêm vào những câu hát dành riêng cho trẻ em, kể về những câu chuyện của trẻ em.
Hát có thể phản ánh một phần thực trạng xã hội tộc người trong lịch sử như "Người làm dâu" (Nhỉ nhàng dung), hát mời rượu, hát mừng cô dâu chú rể, hát ca ngợi sản xuất, hát hỏi thăm, hát chúc mừng năm mới, hát giữ khách, hát khuyên răn, gần đây là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới. Phần lớn các bài hát đều do người hát tự sáng tác tùy theo khả năng của mình. Do vậy, đề tài rất đa dạng nhưng có đặc điểm là không được ghi chép để truyền tụng từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, cũng có nhiều bài hát với các thể loại khác nhau được ghi chép bằng chữ Nôm Dao được phổ biến trong cộng đồng. Đó là các bài hát với các chủ đề: hát chào (chíp khé dung), hát tiễn đưa (phúng khé dung), hát mời rượu (hốp tiu dung), hát tình yêu (phây quyển dung), ... cũng không ít thơ ca được ghi thành truyện thơ dài như bài ca vượt biển (chúa khói dung), truyện thơ Lương Sơn Bá -Chúc Anh Đài (inh tòi dung), ... Những bài hát cổ ghi trong sách phổ biến là thể loại 7 từ (thất ngôn), có thể là khổ 4, khổ 8, 12 hoặc trường thiên. Những sáng tác mới mang tính tự do về ngôn từ hơn. Thơ và ca gắn liền với nhau. Thơ là lời của bài ca, vậy nên muốn có nhiều bài ca thì đồng bào phải sáng tác nhiều bài thơ.
"Pá dung" không chỉ hát vào dịp đầu xuân hay khi có lễ hội, có các cuộc vui mà người ta hát bất cứ khi nào cảm thấy thích hát, muốn hát như trên đường đi nương, đi ruộng, khi cắt lúa, khi gặp nhau trên đường, khi khách tới chơi nhà, khi mời khách, giữ khách, tiễn khách, ... nhưng nhiều nhất là các dịp trai gái đến chơi làng, hát trong đám cưới, hát vào nhà mới hay những ngày hội làng, hội bản.
Ở người Dao, từ trẻ đến già hầu hết đều biết hát và sáng tác thơ ca. Hát "Pá dung" là loại hình nghệ thuật thu hút sự tham gia của mọi đối tượng trong cộng đồng, nam có, nữ có, thanh niên có, trung niên có, cao niên cũng có. Trong những cuộc vui lớn thì số lượng người hát cũng như độ tuổi tham gia hát đều không hạn chế. Mỗi đối tượng hát những thể loại khác nhau phù hợp với tuổi tác, tâm tư, tình cảm của mình: thanh niên thì hát giao duyên, trao đổi tâm tình, hẹn hò, kết bạn. Người trung tuổi thì hỏi thăm nhau sức khỏe, gia đình, anh em, chuyện làm ăn, chuyện con cái. Người già thì ôn lại chuyện xưa, kể chuyện con cháu.
"Pá dung" là một hình thức nghệ thuật giải trí không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao. Đó là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình, ôn lại quá trình lịch sử, làm cho con người gần nhau hơn, củng cố tình đoàn kết cộng đồng. Người ta hát khi kết thúc một năm lao động vất vả, mệt nhọc, hát để lấy lại tinh thần bước vào một năm mới với mong ước sức khỏe, mọi điều may mắn, hạnh phúc. Trai gái hát để tâm tình, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau. Người già hát để kể cho con cháu nghe về lịch sử di cư của tộc người mình. Bạn bè hát để chúc nhau hạnh phúc trong ngày cưới, hát để mời nhau chén rượu mừng, hát để hỏi thăm nhau, chia sẻ cùng nhau, ...
II. Giá trị của hát "Pá dung".
Có thể nói "Pá dung" là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao nói chung cũng như người Dao Yên Bái nói riêng. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Pá dung" mang trong mình những giá trị bền vững không thể phủ nhận.
Giá trị nghệ thuật thể hiện trong ca từ, thể hiện sự sáng tạo của cộng đồng trong việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thi ca, những giai điệu, tiết tấu của "Pá dung" cũng thể hiện sức sáng tạo độc đáo, mang bản sắc riêng của tộc người.
Giá trị lịch sử thể hiện rõ nét trong những lời ca kể về lịch sử di cư của tộc người hay những lời ca than thân, trách phận, thể hiện sự đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, thể hiện sự khao khát tự do, mong ước về một tình yêu vĩnh cửu của những đôi trai gái yêu nhau. Đó là những giá trị hiện thực đã từng tồn tại trong lịch sử xã hội tộc người được phản ánh trong thơ ca mà chúng ta cần khai thác và tìm hiểu.
"Pá dung" còn thể hiện rất rõ giá trị văn hóa của tộc người. Từ lời hát, cách hát, giai điệu, tiết tấu, âm nhạc đến nội dung đều thể hiện những nét văn hóa riêng, độc đáo của tộc người.
Giá trị giáo dục cũng được thể hiện rất rõ trong "Pá dung". "Pá dung" khuyên người ta chăm lao động, hướng tới cái thiện, không làm việc xấu, ghi nhớ công ơn mẹ cha, chăm chỉ học hành, vinh danh đỗ đạt, sống tốt với cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người.
III. Đặc điểm của hát "Pá dung".
"Pá dung" (hay còn gọi là "Páo dung" hay "Pả dung") là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao. Lối hát dựa trên cơ sở giai điệu, tiết tấu có sẵn, làn điệu bay bổng, nhịp hát rõ ràng, dễ hát đồng thanh.
Trong "Pá dung", đồng bào chia ra ba hình thức hát. Thứ nhất là hát hát (Pá dung); thứ hai là đọc hát (Tộ dung); thứ ba là nói hát. Trong ba hình thức này, đồng bào chủ yếu chỉ sử dụng hai hình thức hát "Pá dung" và "Tộ dung". Khi "Pá dung" mà người hát cảm thấy mệt, người ta tự chuyển sang "Tộ dung" để đỡ mất nhiều hơi hơn mà không ảnh hưởng gì đến lời hát. Chính bởi thế, cùng một nội dung bài hát nào đó, người ta vừa có thể "Pá dung" vừa có thể "Tộ dung”.
Hát "Pá dung" có thể hát đơn hoặc hát đối đáp, trong đó hát đối đáp được sử dụng rộng rãi hơn. Trong hát giao duyên nam nữ, những người cùng tông tộc không hát với nhau bởi ngoài việc thi tài, trai gái còn hát để làm quen, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau.
Đồng bào Dao có phong tục nam nữ cùng làng không tổ chức hát với nhau mà chỉ hát với những người ở làng khác. Việc tổ chức ca hát rất đơn giản có thể được hát ở bất cứ nơi nào, có thể tại nhà, tại một khu đất rộng trong những lễ hội đầu xuân, tại đám cưới, tại những đêm trăng giao lưu, tại ruộng, tại nương hay ngay cả trên đường đi.
Nội dung nhằm ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, yêu thế giới động vật, yêu lao động sản xuất, yêu quê hương, đất nước hay ôn lại quá trình lịch sử - xã hội tộc người.
IV. Đặc điểm của “Pá dung” xã Trung Tâm.
Ở Yên Bái, có khá đông người Dao Đỏ sinh sống trên nhiều địa bàn khác nhau nhưng mỗi vùng có những nét văn hóa riêng, đặc sắc. Nghệ thuật hát “Pá dung” cũng vậy.
Xét về nội dung các bài hát thì cơ bản là giống nhau, đặc biệt là các bài hát cổ như: người Dao vượt biển, khúc hát người làm dâu, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, hát mừng đám cưới, hát mời uống rượu, … Những bài hát mới sau này ca ngợi vùng đất và con người bản địa (bài “Đêm trăng nhớ Bác” rất phổ biến ở vùng quế Đại Sơn, Viễn Sơn của huyện Văn Yên nhưng không có ở các vùng khác) và một số bài cúng liên quan đến vùng đất của cộng đồng (bài hát “cúng tổ tiên” của người Dao vùng sông Chảy được đồng bào sử dụng rất phổ biến trong vùng nhưng lại không hát ở những vùng khác, …), được các cộng đồng lưu giữ và đó cũng là nét văn hóa riêng ở mỗi vùng người Dao Đỏ sinh sống mà trong quá trình nghiên cứu chúng tôi ghi nhận được.
Về hình thức hát có thể nhận thấy: nếu như cộng đồng người Dao sống ở hữu ngạn sông Hồng (như vùng Đại Sơn, Viễn Sơn, …) thường gọi là "Páo dung " và hình thức hát có ngân dài hơi hơn, hát rên rõ hơn, dài hơn còn vùng tả ngạn sông Hồng và các xã ven sông Chảy cộng đồng người Dao Đỏ lại gọi hát là "Pá dung" và khi hát không rên dài hơi như vùng trên mà họ hát nhanh, hát ngắn về thời gian, đôi khi còn như đọc, một số chỗ có ngâm nhưng không dài hơi như hữu ngạn sông Hồng.
V. Tiến trình hát "Pá dung".
Như trên đã nói, "Pá dung" là hát của tộc người Dao nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú. Trước hết là quá trình chuẩn bị nghi lễ và ca khúc hát vượt biển. Chuẩn bị vào hát chính thức, công tác tổ chức được làm rất cẩn thận. Trước tiên cộng đồng xem ngày lành tháng tốt, sau đó đến bàn bạc và đón thầy Mo, kế đó mới mời thầy phụ. Các thầy đã được thông báo trước, tới ngày này, các thầy chủ động báo cáo và xin tổ tiên nhà mình, khi được sẽ chuẩn bị đồ dùng trong nghi lễ, có người đến đón là các thầy đi tới nơi làm lễ luôn.
Các thầy tự chuẩn bị những vật dụng cần dùng trong quá trình làm lễ, để ngay ngắn trên bàn ngồi làm lễ. Những người giúp việc thực hiện việc cắt giấy màu dán vào bàn thờ đặt lễ vật, xung quanh khu vực làm lễ, bày biện các đồ lễ vật theo sự chỉ đạo trực tiếp của ông thầy cả. Chiếc thuyền đã được chuẩn bị từ trước, đem ra đặt ngay cạnh con lợn cúng trên ban thờ đặt lễ.
Khi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất, thầy cả yêu cầu người giúp việc thắp hương, đốt đèn, rót rượu vào các chén để thầy chuẩn bị làm lễ. Những người phục vụ hương, đèn, rượu này không được phép vắng mặt trong suốt quá trình làm lễ và cũng không lúc nào được để hương tắt, đèn tắt hay rượu hết.
Xong việc, thầy Mo bắt đầu thỉnh chuông và cúng khấn mời tổ tiên về chứng giám và nghe khúc ca ôn lại lịch sử di cư của tộc người mình trong lịch sử. Đây là một trường ca dài kể về lịch sử của tộc người, từ khi không mặc áo quần, không biết chồng vợ, cho đến khi gặp trận đại hồng thủy, cỏ cây, con người chết hết, chỉ có hai anh em nhà nọ nhờ nương tựa trong quả bầu (trong truyện là hồ lô) mà thần sấm ban cho nên sống sót, đi khắp thế gian tìm người kết duyên, gặp con rùa, rùa bảo anh em lấy nhau để duy trì nòi giống nhưng hai em không tin, đánh vỡ mai rùa, rồi tiếp tục đi tìm nhưng thực là không còn một bóng người. Cuối cùng, hai anh em đành lấy nhau, sinh con đẻ cái, rồi sinh ra loài người. Số con đó một nửa lên non, một nửa xuống biển tạo thành 12 họ của tộc người như hiện nay. Nhưng do cuộc sống khó khăn, đoàn người quyết vượt biển đi tìm kế sinh nhai. Công cuộc vượt biển thật gian nan, vất vả nhưng với quyết tâm, với ý chí nghị lực phi thường, cuối cùng cũng hoàn tất đến bến bờ an toàn. Rồi các họ tộc cùng nhau cày cấy, vui chơi, hát ca, hưởng cuộc sống an bình, hạnh phúc đến muôn đời. Cốt truyện tuy giống với nhiều tộc người khác nhưng trong nội dung, ý thơ, lời hát, phong cách nghệ thuật trình diễn vẫn mang những nét bản sắc văn hóa của tộc người rất rõ nét.
Đến khi đã lên hương, lên đèn đầy đủ, thầy cả bắt đầu ca:
PÌU DÌU KÍA KHÓI DUNG
(CA NGƯỜI DAO VƯỢT BIỂN)
Luồng kít nin kên kỳ chấy phúi
Slía luốn tồng siho chảng lít tầu
Chía kiếu chùn nghìn sũ dặm líu
Một kết một dằng buốn dặm biêu
Chẳng kết nhần mằn dặm ấy vạ
Liềm đía thó xanh kía tsliêu
Slin pết pé lụa chiệp phấy phíu
Xin chảng thút pầy duấn nụn tàu
Chảng kít nin kên vùi phấy dác
Dặm vụa túa sam sin tsluất mầu
Dùn xanh pham pé lụa chiệp phấy phúi
Mậu khuýa giăng mềnh dùn óm âu
Hạ kít nin kên khắng vui va
Ói kếnh sính chuần dặm híu tầu
Mụa kít nin kên vủi háu suôn
Thống nin dìa nhàng khấu mọn sliêu
Ù cá sính hùng phính sluất sấy
Chấy sluất tại dùa dung chuống châu
Kạp cháng dùn xanh lụa chiệp phíu
Duồi tậy thó xanh cánh chuống phíu
Dần Mão nhị nin kín tại quấy
Ù lìu ghịa tậy chám tìn pậu
Ù lìu chảng thin chùn một kiếu
Luồi nhà phộng pá một xong châu
Hai nhuần ếnh kiếu ù trừ vạ
Sbếp chuống luồi nhà chảng muột pâu
Duồi tậy lậu luồng khoa gọi sluất
Duồi luồng kết cháy tại hầu cầu
Siêu puốn hầu lâu duốn pụa ố
Phiêu duấn muồn puống pụa ố châu
Kình tỉnh dùn nin bồng súi phát
Hai phần tó mạnh chắn hầu lầu
Sluân xanh nạn tỏ bò nò vạ
Dâu día nàn hò kháu bói châu
Sluất chiu sliết día mậu mềnh nhụt
Sên bang síu duốn miền thin hầu
Đắp chảng thin tòng mậu thin khấu
Thin muồn thin đía síu pành pâu
Súi đía dằng luồng tài púng súi
Bầu lầu thoái tặng súi tình liều
Có pú nhị nhần phụ bây hộ
Tồ hoang kháu sấy muận ka kiều
Sluất sấy tồ hoang bầu lầu nọi
Pầu đầu thin đía siệu dàu dầu
Pá quấn bành dầu khán thin đía
Thin đía chiệp miêu mậu có châu
Pầu dầu kía chiêu thác pết cúa
Tú kín ùa quây làn lầu tầu
Ù quây khoi khấu chùn nghìn búa
Thin đía nhần mằn phấy líu hiêu
Dặm sáng bành dầu chiềm ngõ nịm
Chậy kắp hông đay vầy xấy phiêu
Phụ hây chấy mụi dặm siến va
Dậu quẫy lụn nghìn ká hoắng châu
Tá pó ù quây làn lậu chói
Chiên chía mậu nhân mạn cắp châu
Hành dầu chiệp chiêu mâu ngõ mịn
Siến chía ù quấy chiền vạ phiêu
Vụi sính duấn pâu phấy làng vạ
Cắp chánh ù quây dùa hắng phiêu
Kết chảng cắp chằng chiệp nhị cúa
Sin chảng trùn dùn hắng kiệu pâu
Phụ hây phang cắp pin phang cắp
Ếch khấu ù duồi phang cắp phiêu
Khói ngọn siêu hang đàu púi sấy
Găng mềnh chậu đía kết xong phiêu
Nhụt tàu kía thin vầy chong chếnh
Tậy ghịa còng bò choang chếch phiêu
Thin pun tậy pái chằng huân líu
Thất chịu khoa tó chảng nhằng pâu
Xanh ghịa hủn pùn mậu mềnh phích
Nhất có tông qua bìa muột châu
Mậu kế pun mềnh pé phính bộ
Khuýa chiến nhụt nhiêu pắn tồ phiêu
Phật chảng sbinh sên chằng nhân phích
Phật ghịa pành tín pé phích châu
Sbế pến nhân mằn chắn thin đía
Dặm tác pun mềnh pé phích châu
Sluất xấy sính lùng chấy liệp tỉnh
Xanh ghịa lục nàm lục phiêu châu
Pun pái lục nàm chằng lục phích
Lục nhiêu pun mềnh lục phích châu
Pun ghịa ngũ diêm cuộng lục kún
Nhất phích xanh nàn nhị phích phiêu
Khống chú sính hồng chấy sâu dặng
Dùn búa pun mềnh thin đía tầu
Chấy liệp họ tòng tộ sâu dặng
Chùn gáo nhân mằn thông biếu phiêu
Hoang tàu liều pham chấy ka khúa
Sìu dìu thin đía khuýa quân dầu
Chiêu hùng chấy chiêu có dịa tập
Tại mua liền bằng miễn tậy pâu
Túa hùng chấy khuýa pàn nhân sáy
Khuýa súi tàng chầy chắn mịn pâu
Pẹ mãi dùn tài tầy nhất kếch
Sâu dặng chùn tài tày nhị phiêu
Hái nhân tộ sâu chằng quấy cháy
Hái cô phiêu slun chằng quấy châu
Tộ sâu chía dặng cuôn mềnh bộ
Nhất cúa chìn làng nhị cúa phiêu
Chấy tỉnh nhất sên púi nhất súi
Thin đía nhất bò púi nhất chiêu
Chấy nài nhất nám púi nhất nhiêu
Nãm nhiêu chằng xong khú quấy phiêu
Nàn tong chiệp pết tếnh ca dạy
Nhiêu tong chiệp pết ká đào phiêu
Dần Mao nhị nin chạ mã phán
Pẹ nhính dạ dầu cuôn dạ dâu
Mềnh hùng sluất sấy phán thin đía
Sết pại nhân mằn pé nhính châu
Piền hùng sluất sấy pành on cúa
Thính chụ mềnh hùng phán pại chiêu
Say tông ừ kề pành mã khiếu
Duồi bô sết xanh pé phính châu
Miền mằn piu kía nàm kinh ngọn
Piền hùng nghìn hin kía tàng sliêu
Dần mao nhị nin thin tai hán
Ké mua sluất in chiu mụa khâu
Phấy có luồng muần mậu sún diến
Pết sluấn siêm tòng mậu có nhiều
Cuôn sbong mậu mãi dàu hoang chiến
Pẹ phích mậu làng hoang lụn dâu
Mậu sbấu số xanh mậu kế nọi
Pìu dìu kía khói khiếu tông chiêu
Phín liệp kía sên piền hùng póng
Bố liệp sâu liềm kía khói tàu
Cắp chằng tại dùn piu kía khói
Thất có tại chùn síu mịn biều
Quá khí hồng kề chùa chuống nọi
Ừ kề pành mã bin chùn biêu
Kắng quất lầy táu síu lầy cậu
Scâm ghịa lầy tầu síu lầy tầu
Danh thán piến than nàn phan duấn
Dùn tuông dân vắng dặm vần biêu
Tong chói chùn triêng pham pé nhất
Mậu kế nọi bò síu mịn biều
Dậu día luồng hùng tài káo kít
Puồng slui sín lọ khói nàn hầu
Kiềm lầu síu diếm bêu ghịa khói
Nạn pé luồng muồn síu đía biêu
Chuống tắn nhần mằn dàu hoang chiến
Chùn chuông phấy chụ sính hùng tầu
Só sbính thin say tài muộn quá
Tín sluất lìn chiêu pụa mịn tầu
Kía khói piền hùng chiệp nhị phích
Khúng día chày pun dặn kếch tàu
Dặm ếch chày phun kía tại khói
Súi lâu dặm thông chùn dặm biêu
Liềm chày biếu nhụn chùn tuông nọi
Ếch pú nhân tinh kía khói tàu
Ừ kề pành má mài lình sính
Vùi panh duốn pậu búa lìn chiêu
Phan chiu tú kín chùn buây khiếu
Chùn hành thán ngạn khẳng quân dần
Piu chiến phấu nọi lò sbăng quyện
Duồi sên canh cuống kía tàng sliêu
Tông quấy phộng vuof chiền ên nhụn
Pun dán hây tầu có phính phiêu
Nhất chùn kía khói có kế nọi
Tam chùn kía khói phấy chùn biều
Phấy chùn đắp thán rằng phay tố
Pham chùn kằng pá kắng chìu chiêu
Phấy chùa đắp chang ù quấy tây
Pết mạn sên tàu kắng quất chiêu
Pặng sên dung manh sống kía sấy
Kháu sính vầy ên sliêu kía sliêu
Nhất sên chám pại mậu canh chuống
Dậu kía nhị hang kháu nhị chiêu
Ông dìa chầy liệp sềnh chông chấu
Háu suận sính chiền phiêu chính tầu
Nhất kếnh ông dìa mịn quân hấy
Nhị kếnh sính chiền phiêu chính tầu
Pham kếnh bang tàn có cố tại
Tậu lây pành phiên pành pín phiêu
Tặng ka lây phính nhất dặng kế
Dậu púng phó muần liềm đía kiều
Có phính thính vần pháy khán dặng
Chiệp dặng phô muần liềm đía kiều
Tá kế dòi chùn on cọ lúi
Dặm dàu hái lậu khuốn phiêm dâu
Dịch nghĩa:
Sinh sống trước công nguyên kể lịch sử
Trước công nguyên con người sinh sống chưa có
Gia đình chồng vợ sinh sống trong rừng hỗn loạn
Người sống trước thượng nguyên thọ một nghìn tám trăm năm
Thân thể mặc đầy lông lá, không mặc áo quần
Đến trung nguyên ba trăm sáu mươi tư tuổi không lửa quang minh
Còn tối tăm, người sống hạ nguyên chưa tiếng nói
Muốn kính thánh thần không biết từ làm từ đâu
Mãi đến mộc cát niên gian mới biết hiếu thuận
Mới biết nghĩa vụ phải sinh con
Các thánh vương mới xuất thế
Chế ra cây búa dưỡng nhân gian
Mệnh sống con người sáu mươi tuổi
Dựa đất dưỡng sinh biết làm ăn
Bại đến Dần Mão hai năm trời điềm báo thần sấm hạ trần gian
Thần sấm trên trời truyền bá lại thần nhỏ rằng
Thần sấm có dặn hai anh em
Hai anh em nhớ lời dạy bảo
Mang răng đi cấy mọc hồ bô
Cây bầu phát triển them năm tháng
Ra hoa kết trái thành hồ bô
Thu hái hồ bô đem về cất
Hồ bô cất để trong nhà
Mừng tám tháng tư năm kinh định
Hồng thủy dâng ngập tận thiên đường
Anh em chui vào hồ bô ở
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Sơn bở nước ngập dâng tận trời
Dâng đến tận trời không lối thoát
Nghe nói thiên hạ nước ngập đầy
Nước dưới con sông mới sả thủy
Hồ bô đến đất nước ngừng dâng
Anh em hai người không thấy ai
Nhờ có hồ bô cứu được mạng
Du hành thiên hạ thấy buồn sầu
Cầm gậy du hành khắp thiên hạ
Thiên hạ thập châu không có người
Du hành nhiều châu đến tám nước
Thấy được con rùa ở giữa đường
Con rùa mở miệng đã cho biết
Thiên hạ nhân dân không còn ai
Không cần du hành tìm hạnh phúc
Tự kết hôn lễ chế nhân dân
Anh em chưa tin câu chuyện ấy
Con rùa mở miệng nói dối thôi
Đánh vỡ con rùa để ở đáy
Thật sự không ai thể ghép liền
Du hành mười châu tìm hạnh phúc
Mới tin con rùa nói thật thà
Hai anh em lúc này mới bàn bạc
Ghép mai con rùa ở thành nguyên
Kết trái ghép thành mười hai miếng
Ghép lại tuần hoàn như cũ luôn
Ghép lại thành liền như cũ
Ứng khẩu con rùa trở lại nguyên
Hai bên bờ biển cùng nhóm lửa
Khói lửa bay lên vẫn kết liền
Nguyện đầu quá thiên cùng làm chứng
Dưới đất cỏ sông cùng chứng minh
Trời xe duyên phận thành chồng vợ
Bảy ngày bảy đêm đã có bầu
Sinh ra quả dưa vô danh họ
Sinh ra quả dưa chửa thành người
Không cách phân minh thành ra họ
Chín trâu ngọc nữ mới phân chia
Leo lên thành sơn thành dân tộc
Đi xuống đồng bằng vạn họ dân
Hóa thành nhân dân khắp thiên hạ
Chưa được phân chia thành họ nào
Xuất thế thánh hoàng được phân định
Phân thành sáu nam sáu nữ danh
Phân cho sáu nam thành sáu họ
Sáu nữ phân thành sáu nữ danh
Phân xuống ngũ âm cộng lục quyển
Nam nữ hai họ mới thành duyên
Khổng tử thánh hoàng chê thơ chữ
Truyền bá thế gian cùng học chung
Chế lập học đường để học chữ
Truyền giáo nhân dân cùng hiểu hay
Hương đầu lưu tam chê ca nhạc
Vui chơi ca hát được hân hoan
Vương triều được lập để cai quản
Cây cao bóng cả che mọi người
Trúc vương chế hỏa thế gian dụng
Thủy hỏa trường kỳ phải có luôn
Ngũ cốc lúa gạo quý thứ nhất
Thơ chữ tính quý thứ nhì
Nhị nhân đọc thơ thành quý tử
Người nào canh tác thành quý nhân
Dùi mài kinh sử thành quan chức
Nhất quản triều đình nhị quản dân
Chế định nhất sơn với nhất thủy
Thiên hạ nhất hà với nhất châu
Sinh được nhất nam với nhất nữ
Nam nữ thành đôi thành gia đình
Nam đương mười tám biết xây dựng
Nữ đương mười tám biết cầu hôn
Dần Mão hai năm giặc kinh loạn
Nhân dân cũng lo quan cũng lo
Minh hoàng ra đời phạm thiên hạ
Sát hại nhân dân trăm họ người
Bàn Vương xuất thế bình an quốc
Nghe thấy minh hoàng phạm lại triều
Sai đông ngũ kỳ binh mã khổ
Tại sao sát sinh trăm họ dân
Nhân dân hoảng sợ chạy toán loạn
Bàn Vương nhỏ lệ quá trường thu
Dần Mão hai năm thiên đại hán
Cây cối ra khói chuối cũng khô
Bốn bể xung quanh đều không nước
Tư sử sông hồ vô hữu ngư
Quan dân vô thực buồn sầu thảm
Nhân dân nghèo đói loạn buồn sầu
Vô thực dưỡng sinh chịu nạn đói
Liều mình vượt biển ra biển Đông
Tiên lập quá sơn Bàn Vương bảng
Hậu lập sách lâm quá hải tờ
Ghép thành thuyền bơi sang biển Đông
Bảy chiếc đại thuyền trôi trên biển
Mênh mông nhiều ngày nhiều hải lý
Nước sâu sóng dữ rất khó đi
Chèo đến lưng chừng khó quay lại
Trong thuyền quỷ quái khó lòng qua
Lênh đênh sóng biển ba mươi ngày
Đành chịu khó khăn ngoài biển khơi
Lại sợ Long Vương gây ra họa
Phong ba bão táp thuyền bị chìm
Bát hương bát nước ném xuống biển
Vạn bách long môn dưới thủy lưu
Trong thuyền mọi người cùng hoảng sợ
Trong thuyền quy nghĩ ra nhiều điều
Có được thiên sư đến xem quẻ
Đoán ra liên châu tam miếu thần
Quá với Bàn Vương mười hai họ
Bỏ rơi không thờ thần thánh đường
Thần không phù hộ cho vượt biển
Thủy bộ bất thông thuyền khó đi
Trong thuyền cầu khấn ngay lập tức
Phù hộ các con vượt biển đường
Ngũ kỳ binh mã linh thần thánh
Hồi binh về bộ báo liên châu
Ba ngày được thấy thuyền hành khổ
Thuyền cũng bơi được đến bến bờ
Triều châu phủ bộ cùng các huyện
Cùng bàn canh tác dựa rừng gò
Đông quý tạ hoàn thân ơn khấn
Phân chia từng họ tự khác làm
Mỗi họ sang biển có một kế
Ba thuyền sang biển bốn thuyền hay
Bốn thuyền cập bến Triều Châu phủ
Chia ra bát hương tự khác lo
Hai thuyền cập bến Quảng Tây đảo
Ba thuyền Quảng Bác Quảng Triều Châu
Bốn thuyền cập bến u quáng địa
Tám vạn rừng gò rông phán châu
Nhất sơn chém trém trụi sang nơi khác
Bại đến nhị nơi dựa nhị phương
Ông cha thành lập thừa tông tổ
Hiếu thuận thánh đi đúng đúng đường
Nhất kính ông cha toan hoan hỉ
Nhị kính thánh Bàn đúng đường phương
Họ Đặng họ Lý cùng một kế
Lại làm bẫy khóa cài ở rừng
Các họ nghe thấy cũng bắt chước
Mười dặm kiểu kế di kiếm cầu
Bàn xong các kế ổn định hết
Không phải tơ vương nghĩ kế gì
Khi đã sang tới bến bờ an toàn, làm ăn may mắn, sinh sống hạnh phúc, thóc lúa đầy kho, gia súc đầy chuồng, người an vật thịnh, để cảm tạ sự phù hộ của các bậc thánh nhân, đúng theo lời hứa, từng họ của tộc người Dao làm lễ trả ơn. Bài ca "Trẩu đàng ý tría" và "Cú dung" thể hiện cụ thể nội dung đó:
TRẤU ĐÀNG Ý TRÍA
(HOÀNG ÂN CẢM TẠ)
Ká lỳ hóp lù trống sếnh ngoày hóp lù trồng san
Trống san trống sếnh trống vuậy sàn mềnh
Hoàn bào trí trói hoán chói ỳ kiông hoàn hoan
Trói boòng kỳ vuậy có co báp nghỉ thếnh sêng
Tạn thếnh dất mềnh tồng trị siên thông voàn nhụn
Siáng dềnh ý tría mó thểnh tông phang côồng dồ
Bòi tsếng miến thểnh say phang sía trọng bòi ngềng
Chói bọ hiàng đắn tạn thếnh siếu siếu dáng sỳ sáo
Hom tồng bềnh bềnh nhắp muồn siang tsếnh bò cú huồn huồn
Ý tría bềng bềng sáo trông triếp truổn ón siáng
Siàng ngềng quối bọ trống sếnh đằn thềnh
Ý tría biàng biàng sáo trông triếp truổn ón siắng
Trống sếnh đắn tsiàng ý tría bồng bồng quấy bọ
Trống sếnh đằn trồồng hòi háo kiếp nghí siền thống
Voàn nhủn mà đào trói vuậy nhắp muồn siang tsếng
Si áng dềnh ý tría phàn mềnh trống sềng duồn hiồng
Tsếng há coóng phú hiàng đắn tà dắt tsếng san
Tố ố ố tà nhị tsếng sếng tồ ka hiàng hoa
Triếp bếng tráp trói hiàng đằn lí nuối tà sam
Nhị sam tsếng sếng pịa pú dòi bàm
Tsếng san tố ố tsếng sếnh tsếngồ cà bày san trói vuậy
Bày sếng trói kiông hoan trói ý kiông tsếng tạn thếnh siếu
Siếu mềnh xỳ tái thông sam đào biang ký cà trí
Tồng tsao ý bòi còn nhuần bài lụ siắng dềng ý
Tría trếnh vọa pạ xuất siắng dếng ý tría sểng siắng
Pạ chi cá diềm vọa pí thiên siắng tsặt sêng
Nàn trí tí hía kăng cú nàn hì sam kăng chía
Trếnh día trếnh sam cằng thái dàng bó liếu thái
Yêm duổn siặng tsặt sêng doán huấn pạ táu duồn hàng
Nhần mằn quôi ố ngào mà quôi bàn cay dí đàu
Bồng piếu dí đàu bàm cà trí đàu xỳ tsếng
Tá siếu siếu dàng xy huấy nhần pạ tsếng tsếng
Nhần pạ huấy pị nhần siang tsếng pạ pị hiàng
Đàn bí nuối pạ pị dí mủ tò hàng pạ pị
Tsêng thiên nhất pạ pị thài dàng tsắt triếu pạ pị
I ố bi thái yêm tsắt triếu pạ pị yềm bọ tị
Nhụa pạ pị sí piên đào pạ lù xy pạ pị xý piên
Coong xuôi tsiàng bào pạ pị xý piên tại mụa
Dìa bàm pạ pị sý piên hù xăng miên siếu pạ
Pị sếng voàng vuầy tại hiàng đằn bi nuối
Pạ kám pị yêm pạ kám pị dàng siếu xy bọ
Siếu tại tám quội bọ trống sếng kiêm ón đòi diền
Siếu si bọ siếu háo trông tsía mạn yêm si tái
Lý hàng diều dàng si tái lì hàng háo kháu
Mộng trống trống yêm si dắt mềnh tồng trị tráo piên
Tsếng tsắt sàn diền tồng trí dạu piên tsếng tsắt
Hố pá siên xy siáng dềnh ý tría phông tsếng mí
Sí tsếng phổng pạ mí sì pạ phông tsuội luồi
San cói điến phông của cù san tại mua bàm
Bàm pạ trám pạ tuốn siếu mụa pạ trống pạ xằng
Tồng trông pạ tá pạ hiàng bò cú pạ tá pạ sênh ỳ tría
Pạ suất pạ tsêng ngìn vọa pạ pú pạ mềnh tồng
Bềnh khềng khêng hòi háo phàm mềnh siếu
Duồn siếu vuậy pạ ám sêng trao pú huận dất kuông
Ý tría của biểu nhị kuông si áng dềnh ý tría dấu
Hòi trếnh tong sềnh trao pú huấn ý tría bềng
Bềnh sềng trao pú huấn sêng voàng cói điện cói
Của mú niên mú nhụt mú nhắt ý bòi hì bù
Tsắt húa hì ghi thuấy trạ diền hí múa trao mú
Khú mú huấn mú sía mú tsông tị tsí
Lỳ đào tồng tso ý bòi mú nhần bòi tố puốn phang
Tì niệm dất đồng cà trị duân trói kcậu phang
Tì niệm sàn đào trám pại san kúa trám hoong
Mú t sý kằng tsuôn kê ngọ nàn tong ông
Ùa thái trú cà siên muồn diền siếu mủ lạp tá
Tsiên niên bềnh điền xuối thú ố puối siếu mủ lạp
Tá mán tại t siềng biàu dấu dì sân pặng san
Vuầy bệ khau sếng vuầy an hếch biếu dất
San bào của nhị san kếch biếu dất xuối bào
Của nhị xuấy thếnh vuồn nhần duồn mú tsí lì đào
Sàn đào dả hú san mí duồn coong xuôi
Dã bềnh mú nhần dất đồng cà trị hì lù san
Húa hì ghi thuẩy trạ thuẩy vuậy trụ trông hiàng
Húa tò tái kiềm bù xuối voán tsi kiông nàm ní
Duối trói kậu phang tì miện bào duốn cúa hói bào
Lụ cúa kai bào san cúa bếng boi tố mú tsí
Đào sàn đào dả hú san mí dả duồn coong xuấy
Dả bềng tría muộn puồn phang tị trí quân nhần
Hoi tám san đào tá hội voàng này tri thú
Bạp hí sí cáo mào phàng bạp hí bồng ghi
Ố trá siáng cói thiên đòng ỳ xuẩy trông cói
Tại đằn trú trông hiang húa hạ cói nhần
Tềng cói cúa ngòa dìn kúa há dáng muột
Tri dòi cày dòi niên dả cao suấy suấy
Cao niên cao cúa mú niên mú nhạt mú nhất
Mú yêm mú nhần tồng t si mú sỉ tría cà
Muồn đào siặng hiàng đằn lí nuối siêu hí
Dất lù nhị bù sam lù mềnh hiang hiang
Si pạ diên tại công siếu dí pá diên hò ý phồng
Dềnh diên vuậy tồng tsoo ý bòi hồng xuối phát
Há thiên đáy biau dấu dì sân siều hiang
Kếnh phộng trú trông hiang húa liền trào pham
Miệu sềng voáng buồn voàng dì sân pạng san
San vuầy bệ kháu sếnh vuầy an kháu mộng
Yêm kan pú trếnh yếu cúa biàng mằn nhụt đào
Tsoo tsắt triếu há bàn kan sạp nhị sếng
Biàu dấu dì sân siều hiang kếnh phộng yêm
Phú tềnh kan voàn nhủn đồ tsiang siên
Thông siắng dềng ỳ tría trống sếng kam tri
Ngũ si pạ cám cù sêng khí kiếp sêng
Boòng khí tải siếu si phú mú thóc xăng bào
Dòng họ tị nhần bồ tẩu nụm tồng bềng hòi
Háo suất vỏa phàn mềnh siên thông cà trí
Voàn nhủn tri dí tồng tsao ỳ bòi buôn cú
Sếng voàng hoi thiên bạp tí mạm cú duồn diền
Tsềng duồn dằng dằng cói cúa thiên đoòng ngũ
Buồi kiấu sêng duồn mủ óm há thiên đoòng
Thiền đềng phát ý hồng xuối yếm hí
Thiên piên coong xuối dào dào tsắt trói sàn
Nhuồn xuối piếu u hác óm ý cù voàng trí
Thiên bềng trí tí thiên trí si phang tị trí
Pát coó trí bay sàn nhuần xuối piếu trí dáu
Yềm dàng san sếng trí đáu pạ nhị nhần
Màn trí dáu trí dáu vùa miều điền đoòng trí
Dáu ngũ cú vùa miều mí biàng pạ nhị sếng
Biàu dấu dì sân duồi niên kăng trống trí dáu
Trí dáu t sắt seng mềnh nhụt triếu há
Bàm kan sếnh niên kan siắng duồn cáp
Dí nhân xăng dật tsiên pát pá lụ sạp
Sí xuấy hàng hiang duồn muồn ý biệu
Diếu mụ phú dí yềm phú tềng can dấu bòi
Cao cưa trông duồn káp dí nhần săng
Sam pá lụ sạp sì xuẩy hàng hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mụ phú dí yêm phú tiềng
Can dấu bòi cáo của hạ duồn cáp
Dí dật pá nhị sạp xì xuội hang hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mủ phú dí yềm phú tềng
Kan dấu bòi cao của kềng tệng duỗn miên sí
Nhuật tso pát trông trì nhất hồng xuối phát
Há gyàng gyáng duồn mú dằng dằng yếm hí
Thiên đàng yếm sí thiên ha nhần mằn cói
Diện thiên há nhần mằn trộng dáu phụ kihi
Tría mấy nhị nhần duồn trói hù lù tú muội
Tồô hoang tsắt sấy bào hàng thiên há tá kiến
Mú có nhần mằn trếnh bòi vuầy huân phấy
Họp phù tsi trí tsắt sạp nhị sếng biáu dẩu
Di sân biàng mằn pạ sếng duồi san kăng trống
Dấu bòi cao của mụa cít miền kan nhầm
Xăng bụ sạp káp dí pẹng mạn liều bìm
Trếnh bòi phú dí tại đằn trú trông
Hiáng húa biền trao sam miện sểng voàng
Sếng voàng tsắt sáy trí bạp kiềm bắn sểng
Điện xăng há lụ màn lụ ný nàm trí đào căn
Ní trí bềnh pán tráp xa voàng soo co dào lả
Boòng trí co bào sam trí hiố trao voàng trí mụa
Ngũ bo trí hoa đồng voàng trí diền túa voàng
Trí húa lù pan trí ố khống chú trí mầy
San họ đòong tộ xi siắng kháo quoán trế
Trí lạp trao phú huân muồn quoán há nhần
Mằn pạ sểng trí dáu ngũ cú san nồng
Voàng tái tri tsắt ngũ cú mí bìang tsố
Tsắt cù hoa mí tráo ngũ cú bồng chiang còong
Trông dáu tráo bềnh trông huấn sếng sàn
Mềnh biền tại sếng lềng đòi bềnh on
Dậu lòi cáo của mềnh trìu tại voàng tsắt sáy
Phán pại thiên há nhân mằn cói trìu diện
Cúa buần voáng sếng trí tsay dáu ngũ ghì
Pêng mà duồi hồ guếu săng sếng voàng
Chói bọ kiềm băn điện siăng
San tsên tsắt pá lụ sạp sì xuấy kap dí
Hàng hiang duồn muồn liệu lụ nàm dềng
Lủ sếng lủ ní phan dềng lủ sểng phan dềng
Sạp nhị sếng bìau dấu dì sân phân dềng
Siến yêm nàm ní phan dềng kiông yêm
Nàm ní phan dềng trí yêm nàm ní phan
Dềng cóo yên nàm ní phan dềng ngũ yên lụ
Chún tại sếng bềng voàng trí dáu của
San póong trọong sạp nhị sếng triang tô mà
Dày kiúa dấn sạp nhị miến bao pá sạp
Nhị sếng biàu dấu dì sân sềnh tểnh vuồi
Nú kháu san vuầy lệ kháu sổng vuồi an
Sếng voàng quây điện trí dáu biền trao sam
Miệu sếng voàng pụa coong tại voàng ngũ ghì
Pếng má dấu bòi cao của hông ú niên can
Phán pại thiên há nhần mằn cói diện quân
Voàng sát trìu pại trế sap nhị sếng bìau
Dịch nghĩa:
Hoàng ân cảm tạ đại thân phụ mẫu
Ngày xưa, dân tộc Dao còn sinh sống tại bên kia bờ biển.
Họ tộc người Dao cũng thờ phụ mẫu
Thờ thần linh và những vị thánh cao thượng đế
Để phù hộ cho gia đình thịnh vượng
Có sức khỏe dồi dào, hòa thuận, hạnh phúc
Cho con cháu biết kính trên nhường dưới
Biết thể hiện đạo lý làm người
Người Dao vẫn canh tác nương rẫy
Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên
Cuộc sống cứ thế trở thành truyền kiếp
Kéo dài từ năm này qua năm khác
Kéo dài từ đời này qua đời khác
Đến hai năm là năm Dần, Mão
Không may bị hạn hán mấy năm liền
Đến nỗi lá chuối bốc thành lửa
Cây cối ra khói, ra than tro hết
Con người không còn lương thực để ăn
Sông suối không còn nước cho con người uống
Khe suối cạn kiệt không còn nước
Con cá không còn nơi sinh sống
Mười hai họ của người Dao lòng đầy âu lo
Lo lắng cho sự sinh tồn của dân tộc mình
Họ bèn họp nhau lại cùng bàn
Nhằm nghĩ ra cách cứu sống dân tộc mình
Họ đồng tâm liều mình một phen
Nhất quyết vượt biển tìm kế sinh nhai
Mười hai họ cùng nhau chuẩn bị
Chuẩn bị một con thuyền rất to
Sắp xếp hành lý cùng lên thuyền
Lương thực còn sót lại mang theo
Đồ thờ phụng khá cũng đầy đủ
Thế rồi cùng nhau vượt biển
Vượt sóng muôn trùng đẩy ra khơi
Đi được tròn bảy ngày bảy đêm
Lênh đênh trên biển vô bờ bến
Bỗng đánh rơi một bát nhang to
Để thắp hương thờ Phật phù hộ
Bát hương đã rơi xuống biển sâu
Thế là phạm ý trời ý Phật
Trời bỗng nổi cơn thịnh nộ
Bốc sóng lên cao vút tầng mây
Sấm chớp cùng dông tố dữ dội
Mười hai họ chưa từng thấy bao giờ
Mười hai họ Dao trong thuyền kinh hoàng, sợ hãi
Tới lúc này mọi người mới nghĩ ra
Do đánh rơi bát nhanh thờ Phật
Bảo bối thờ Phật muôn đời nay
Nên thần Phật không còn linh thiêng nữa
Mới xảy ra họa lớn thế này
Mười hai họ cùng họp nhau lại
Cùng ngồi trong thuyền cầu khấn Phật tiên
Mong các vị thánh thần linh phù hộ
Cho chúng con qua được cơn sóng này
Được sóng yên gió lặng muôn trùng
Chúng con vượt biển được an toàn
Sang cập được bến bờ bên kia
Chúng con xin hứa sẽ tạ ơn
Mỗi họ bằng hai con lợn to
Bằng nhiều hũ rượu thơm gạo mới
Bằng gạo nếp thơm nhiều cân
Bằng bánh trái hoa quả dâng lên
Trai trẻ, gái trẻ dâng lễ vật
Có mời ba thầy để mời thần linh
Mời phụ mẫu đến từng gia đình
Đến từng họ nhận lễ tạ ơn
Đó là lòng thành của chúng con
Sau khi cầu khấn được như vậy
Các vị thần thánh rất linh thiêng
Trời tự nhiên sóng yên gió lặng
Trời quang, mây tạnh sáng bừng lên
Đoàn người vào được bờ an toàn
Từ đó, mười hai họ tộc người Dao
Không bao giờ vong ân bạc nghĩa
Đời đời, kiếp kiếp xin được trả ân
Hoàn ân trả nghĩa với phụ mẫu linh thiêng
Cứ như vậy thành lệ lưu truyền
Mỗi đời người tạ ơn một lần
"Cú dung" cũng là một đoạn ca thể hiện sự đền đáp công ơn đối với các bậc thần thánh của tộc người. Đoạn ca vừa thể hiện lịch sử tộc người, vừa thể hiện truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo vừa mang tính giáo dục sâu sắc:
U CÚ DUNG
(TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN)
Dấu dì sân thuối há kiềm bằn sêng điện
Pan hí trìu trao phú bọ tsiang huấn nàm
San pát phang san dào duồi san kăng
Trống dấu lòi cao của diền mào nhị niền
Thiên trí tại hàn sam miền sí sí xuống quaon
Tsoong mú mái pạ sếng mù biàng nhần
Mằn bào luộn mủ ký nọi hò triu ụp
Tsắt húa ké mụa tsắt diên coong hò
Mụ xuối siềm đòng mù nhì bềnh điền mụ
Xuối sạp nhị sếng biàu dấu dì sần niền
Niên kê ngỏ mủ líang tham hếch mủ kế
Nọi hò trếch bòi phiáo dào của hói dất
Tsiên tsắt pá hói lí sam có nhụt đào
Dàng san nàm pú sếng nụng nàn tồô sạp
Nhị căn hìang lù bao há ngũ hói bồng
Muồn sếng voàng ú nú trói san trếnh lòi
Hác óm duồn trông t sắt ýa duồn hàng siếu
Mủ tố ngản mà háng siếu mủ tố hiang
San lú pạ thông xuối lú pạ hòi dấu bói
Tá kiến quay treeng tại phông dả tố tại
Ý dả bói thếch vuần hói đáy bồng muốn
Sếng híang dậu phá tại phông tại ý
Tsuối bọ ngũ hói bồng muốn có nhần
San hoang dàu ýa kêng hoang kháu thiên
Mủ bệ kháu sêng mủ an si lìang
Sí tróc muồn lụ mú nhần vuầy cô vuầy tại
Trì nhần trộng dáu trụ trông hiang húa
Dia tí ngũ ghì pêng mà diền bói sết phẩy hồ
Bói guếu săng guêu tá sam miên mủ con tri
Tsố guếu tá sí nhất mú mẹng trì nhần trếnh
Lòi duồn trói duồn trông li nuối kầu huấn
Trụ trông hiang húa ngũ ghì pềng má nàm
Họng puốn trú cà siên vuầng đào
Du oán miến hí siáng san an liàng nhụn sọ
Pú nhần têng mí kêng sam trao dất tsắt
Duồn hàng tố ngản mà hàng tố hiang
Duồn đào phiu siáng quoang tông đó tsiáo trao
Phú bọ tsiang huấn nàm phang sàn đào lạp hí
Bồng ghi ố trá duồi san kăng trống ngũ cú
Phộng voàng tại sộc tsắt nhụt sạp nguc chông
Chì nhất sạp nhị sểng biàu dấu dì san
Trếnh bói voàn an tạp trỉa tại san phú mú
San an biáng nhụn duồi muốn ý biệu
Dất tọi của biểu nhj tọi sềnh trông nhị
Của biếu sam tọi sềnh trông tsiệp trú
Tếnh tái hiàng diều dì sâu kiáo đồng mạn
Tọi y trông tsiệp chú y cú tái lạy phú dí
Yềm phú tềng kàn dất niên sí ký siêu dìn
Siếu vụi dất niên si cý sam ngà sí tráy
Tsuối trắn ngàn tsiền của biếu dất niên si cý
Vuồi bòi sọ pú nhần tềng sọ pú nhần hảo
Sọ pú ngòa dìn kúa há dáng muột chi dòi
Cay dòi ca ly quoàn bù thóng dán ngoáy
Bý pạ háo thóong hoi dất đồng cà trí tsiền
Ý bói duôn trói mú niên mú nhuột mú nhất
Ý bói tsắt san hí siáng hò siáng vèng trị
Yùi si liáng nhụn siáng đằn tsếng tsắt hí
Nhủn tồng trí há đằn tsếng tsắt pá nhủn
Puần quân hi siáng pù si trói ơn dất
Hí nhị poong pù si liàng nhủn pạ tuẩn
Hò niên pạ tuấn hò nhụt nhuẩn tuẩn sạp
Niên tá siáng nhị sạp niên ta há dáu
San hi nhủn dáu san phổng voàn pù si
Hoòng hoòng áp trói tua đồng lì nuối soo
Doòng tú hóa ngàn tsiền pụa bày sao
Bênh sao nọp tsếng phúa có nhân tsắt sáy
Hoàn kuông vuầy phộng dất soong
Dậu trụ kiáng mú nhất poong liáng piên troó dảu nhủn đầu dòi
Dịch nghĩa:
TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN
Bản cổ sơ khai phân thiên địa
Chế lập năm họ chế loài cây
Chế sơn đầu nhân dân được ở
Chế lập cung điện thánh nhân an
Chế được thánh điện chế ngũ cốc
Chế được ngũ cốc dưỡng nhân dân
Ngũ cốc xuất thế phân lương huyện
Xuất tại phân lương phân quốc triều
Khai thiên lập địa ngũ âm họ
Chế được nhân gian vô vàn người
Kinh dịch nguyên niên phát hồng thủy
Gò bở nước dâng đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Nước ngập đến trời khó mà lường
Hồng thủy ngập trời biến bại dạng
Thiên hạ không người chuyền cổ ngôn
Chỉ còn hai anh em còn tồn tại
Hồ lô trôi nổi đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm hồng thủy ngập
Anh em hai người đi khắp nơi
Đi khắp các nơi không có ai
Còn lại anh em hai người thôi
Đi đến ba suối khe thật dốc
Gặp được con rùa ở trên đường
Anh em hai người mở miệng hỏi
Con rùa xuất khẩu không còn ai
Tay cầm gậy sắt lại đi tiếp
Đúng là thiên hạ chẳng còn ai
Đi khắp các nơi không ai cả
Lại ghép con rùa mai thành liền
Liễn biên thắp hương khói liên kết
Đành phải lấy nhau nối tông đường
Đẻ ra con người không gì dưỡng
Ngũ cốc đại vương anh mới thương
Thần nông hoàng đế chế ngũ cốc
Lưu danh thiên hạ dưỡng nhân dân
Ngũ cốc chính thức là bảo ngọc
Cứu được mọi người sống ấm no
Chuột chúa sang biển tha giống lúa
Con rồng phun nước tưới lúa xanh
Thanh minh cốc vũ cho mưa xuống
Được thấy cây lúa xanh tốt tươi
Thần lúa thổ địa quan ngũ cốc
Hoa tiến tiển nàng quản lúa cây
Lúa hoa chị em chuyên chăm sóc
Ngũ cốc đại vương cho lúa kho
Lúa tẻ đến dùng làm cơm bữa
Lúa nếp để dùng làm rượu thơm
Ngũ cốc đúng ba đường nhân ngọc
Trăm họ nhân dân cũng phải cầu
Thứ nhất cung kính các vị vua
Thứ hai là để cứu dân cư
Cao Vương ở trời chế thiên địa
Bình vương ở đất chế suối sông
Chế được sông suối vô vàn khúc
Lại chế đại thuyền mặt nước đi
Thiên tư hạ giáng thiên ban điện
Lưu tam chế được vạn bài ca
Long cung truyền phép chém quỷ kiếm
Đàn tiền cầu phép diệt trừ yêu
Kèn cũng khẽ thổi trống khẽ đánh
Kinh phí chín bậc không bước nhầm
Thiên thượng nhất tinh du thiên quá
Nghìn dòng sông suối chảy về đông
Giữ yên gia đình toàn lương nguyện
Kế tài vượng quá đại thiên nga
Người thầy đương thiên chiêu hòa đến
Hòa ông hòa mẫu nhập hòa kho
So với các vùng khác, người Dao Đỏ vùng sông Chảy nổi lên bài hát cùng tổ tiên “ghến dìn họ sếnh dung”, bài hát này được dùng trong các nghi lễ lớn của cộng đồng như lễ cấp sắc, lễ cầu mùa đầu xuân.
GHẾN DÌN HỌ SẾNH DUNG
Chụ chông hăng húa hoàn chọi vậy
Hù săng sà súi họ diềm căn
Sà lò sà súi cênh họ sếnh
Cếnh họ chống sếnh sếnh dào ăn
Hàng họ chống săn săn chó ý
Lềnh san kiều duấn chí ca nhiền
Kiền duấn nhiền tênh chiên pá cọ
Chồng mềnh lìn lý chát dồng và
Lộ nhiền kiều duấn thin cáp dị
Chói thin cáp dí chói dằng căn
Lộ liệu diết niên thiêm nạm suối
Chàng sân siệu lộ mạn niên can
Nàm nhiền kiều duấn họ đòng nuội
Niên tong sạp pát tú chồng mềnh
Dọ tá vuần su kháo sáng chế
Kiều quân chộng chế quán chan đềnh
Ní nhiền kiều duấn siếu hoa tó
Siếu chềnh ho tó chàng co chăng
Huối cháng láng dìn họ sàn sếnh
Mạnh chủ còng chông suối đạ trắng
Chi dòi kiều duấn muộn làn lạc
Ngòa dìn chúa há hú bài hòng
Cai dòi kiều duấn mụ sa sụ
San chó nào i có có hồng
Ừ cú kiều duấn chiên chong lạp
Lìn lò kiều duấn phú ca đòng
Chiên puân kháo sếnh hồng an chí
Chiều duấn kiêm nhàn mậu man cong
Pa piếu háng chuân lòi lụ duấn
Chui duấn chìn chiêm chắn mạn nhàn
Pụa háng ca đòng niên niên vạng
Dồng và phụ quấy chát quyên lòng
Chính sí lềnh săn phụ mụ ý
Chiều dòi chán púa pú ca đòng
Lồng ki sáng sí kiêm lào điện
San pú ón diền lồng phộng đòng
Chiêm siến dện iu cù lào sáng
Cù lào tá cú cú dằng dàng
Chiêm đồng vận suối hú sào hăng
Niên niên hênh vạng hú phông quang
Lộ nhiền sò pú lộ cáp dị
Tàng sang siêu lộ mạn niên trắng
Siệu pú nàm săn niên niên vạng
Hói suối giàng mạn lý trắng
Muộn nhiền só pú hoa con chếnh
Hoa vìn tuấn chếnh da mụ phàn
Dọ chó tăng phông lệnh sáng chọi
Hí hả bềnh tỵ hú phông quang
Nàm nhiền sò pú si muồn vạng
Chiều thiên thiên ếnh phát lềnh thông
Ní nhiền so pú siếu hoa tó
Chiềm hàng si pú siếu hoa hồng
Niên tong chát chá nhiền hang lỵ
In giăng chềnh tói họ chềnh song
Nhiền ca đào chí lòi pịa sịa
Phông quân cha chế pấy quân lòng
Chát muồn thái dằng lòi cô chiếu
Nhập muần dộng chậu hư dia vầy
Nàm sán ní sá nhiền nhiền vạng
Diên công pú hậu sếnh pùi chầy
Chi dòi sò pú to hếnh sạo
Hồng bì chắng nhựa mạn chiên căn
Ngò dằng cai áp pụa phụ tạn
Báo săng luồi luội hú chềnh song
Nhất lý pấy náng phộng chắt tạn
Día lậy pấy nắng líu quấy làn
Sì dìn đào sáng pú vùa mùi
Làm làm cói tậy muộn sía đòng
Dìa san pạ chọ háo pạ sấn
Phộng vàng tại sộ tá duần sao
Chí phú quây đòng mộn chong lạp
Ếnh chấy ca đòng nạn phíu trăng
Chìn đòi phát duấn nhiền tênh chắn
Nhiền háo chắn thin to kít trắng
Hồng phú muộn đòng lụ muộn khú
Dồng và mạn lậy khú duần sênh
Chếnh sí lềnh san phụ mụ ý
Ca dòi chán sàng ngoại dòi thin
Lộ nhiền chiu duấn tang sang hú
Hào quang mạn chắng chiếu thông thiên
Mụn nhiền chiu duấn hoa con chính
Hoa dùn tuấn chính da mụ phàn
Nằm nhiền chui duấn dọ si phát
Đào thiên dọ phát kiếu làng màn
Nỉ nhiên chui duấn to kiếp lạng
Chồng mềnh lìn lí sái quân diêm
Chi dòi chui duấn chiên can tại
Hồng bì tá cúa tại san cong
Cai dòi chui duấn mụ mạn có
Cai công giằng cúa tại ngò vàng
Ừ cứ chúi duấn chin chong lạp
Liền lò chui duấn phú ca chông
Chính sí lềnh san chàn ca chông
Chính sí lềnh san chàn chọ ý
Lềnh san chiếm chị ngoái chia đềnh
Diết chiếm chai giăng cộng hùa lạm
Áp chói pá phăng suối đại đềnh
Lộ nhiền chiếm chị phòng muồn lụ
Quan bù hào tiệp tý chông dòng
Nhiền tinh kiếm chị chát chai nạn
Vuần chai chị khí sáng thiên đềnh
Chi dòi kiếm chị cúa san hú
Sìa đào sía ní ứ quán chênh
Cai dòi kiếm chị hìa lấy háo
Nhiềm kiến pạ thào hú pạ tham
Chính sí lênh san hú dào ý
Chiên puân pé dạng kiềm dòi đùn
Cá chí chiếm nhất chó hú dí
Chí nhiền chó dí tá muồn hoi
Chếnh tá si ông lòi hoàn nhụn
Chống sếnh thính vuần cô có lòi
Chống táng dị sân lòi họ sếnh
Háng dàn cháo chắn pạ song song
Chống táng dị sân họ sếnh liệu
Pú on cà chí chát pá liền liền
Hăng đàn cháo chắn pá liền liền
Hăng chuân dị sân cếnh họ sếnh
Sếnh ăn pú chí vạng chin nin
Chông quân pú chí niên niên vạng
Ừ cú phộng tang sạp mạn chong
Chống táng dị sân điều quái liệu
Ngà cún bái bái on há đòi
Pú on cà chí da mụ chai
Hộ tọi di sân chất siếu dòi
Chiêm nhàn chồi pạ phâu nhập ố
Vuần chai nhì khí sáng thiên đòi
Hông sênh thuối vậy suận sênh chiếu
Tá hoi mềnh cếnh chiếu ca đòng
Diết sênh sếnh tố chống quân mềnh
Cho siếu dồ chang lòi lệnh dềnh
Chong sếnh song song song dòi sếnh ý
Dòi dòi pú chí mạn niên hênh
Dịch nghĩa: HÁT CÚNG TỔ TIÊN
Phù hộ tổ tiên vui vẻ ở
Thanh niên hò hát phù hộ tổ tiên
Vui vui vẻ vẻ được bình yên
Yên hạ tổ tiên được yên ăn
Hàng họ tổ tiên san hữu nghỉ
Thật thà trở về đúng chủ hộ
Trở về con cháu được bình yên
Khôn ngoan trò giỏi đối đáp người ngoài
Người cao tuổi trở về thêm tuổi
Cho thêm tuổi già sống mãi mãi
Già đi một năm thêm một tuổi
Trở già cao tuổi cổ la hi
Con trai trở về nhà trường học
Đến năm mười tám được thông minh
Học chữ sau này được làm quan
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Con gái trở về hoa thăm nhà
Vui chơi cửa nhà hát đối đáp
Bài hát vui vẻ phù hộ sinh
Số phận long đong như suối chạy
Nuôi lợn đầy chuồng đầy vườn cây
Lợn thả ra xếp thành hàng dài
Nuôi gà đầy chuồng
Con nào con nấy lông mượt như tơ
Thóc gạo đầy bồ đầy cót
Nuôi con nuôi cháu mãi không vơi
Tiền bạc trở về đầy hòm
Phúc lộc để đầy nhà
Chính là thần thánh phù hộ
Mong rằng phúc lộc về đầy nhà
Bạc chim bay tới đến lộc phúc
Mong đến tiền bạc được bạt ngàn
Phù hộ con cháu an khang thịnh
Như là phúc lộc như là quan
Chính là nhờ thần thánh phù hộ
Chế lập cung điện thánh nhân an
Nhà của bốn bề có bạc tiền
Ba phụ ông hộ phương thiên đàng
Gói bánh bằng lá bạc vàng đây
Cửa nhà vui vẻ chuông vang lên
Kim đồng đựng nước hoa vàng
Niên niên an khang thịnh vượng sáng
Người già muốn sống lâu trên thế gian
Tang niên thầy cổ muôn niên thăng
Làm sao con cháu nam nam ngọc
Dòng suối chạy long đong theo dòng
Cháu chắt muốn ăn học đàng hoàng
Cháu chắt muốn làm ăn phát đạt
Ở rừng thấy ong bay hoa nở
Xuống núi được bao la đàng hoàng
Đàn ông thì muốn tài năng giỏi
Giỏi công giỏi việc giỏi tài năng
Con gái xinh đẹp muôn phần ấy
Xem vào bốn bên hoa tươi thắm
Đến năm mười tắm làm dâu nhà người
Nên chồng nên vợ thành đôi lứa
Làm chị người ta vui vẻ cùng
Gia đình nhà cửa được bình an
Lúa gạo đầy bồ lớn
Con cháu đều vui vẻ
Chén rượu hoa quả bày trên bàn
Mong rằng gia đình không ai gặp hoàn nạn
Về sau con cháu suốt đời vui
Tiền bạc về nhập đến nhà an
Tiến bạc được nhiều lần hơn thế
Con cháu sinh sôi được nhiều người hơn thế
Bệnh tật tai ương không đến với gia đình
Nhờ ơn thần thánh tả hậu
Tổ tiên có mắt định xem con cháu nhà mình
Nhờ ơn tổ tiên quan tâm con cháu
Mong tổ tiên phù hộ cho con cháu suốt đời
Con cháu dẽ đời đời không quên
Mang ơn tổ tiên phù hộ từ đời này qua đời khác
Bên cạnh câu truyện cổ được phổ biến rộng rãi như trên, trong "Pá dung", đồng bào còn rất nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, có câu chuyện kể kể người con gái thứ 4 của Ngọc Hoàng thượng đế xuống trần lấy anh chàng mồ côi:
CHẶNG PHẤY CHÍA DUNG
Piền cấu sính hùng thin tậy
Chấy chuất nhiền màn phấy khói chê
Chấy khí nhụt tào luần thin chíu
Diệt dòi thin đía khú goàng chê
Lình thin chí chún bài chính siếu
Pun dòi phấy có cún chìu chê
Tông pung on bài chạp diết mụa
Tông pung pết có pết quyên vầy
Nàm pung on bài pềnh tênh húa
Nàm pung pết có pết quyên vầy
Phai pung on bài cành siêm kiêm
Phai pung pết có pết quyển vầy
Pá pung on bài nhiền quây sui
Pá pung pết có pết quyên vầy
Chống giăng diết có lình siu miu
On khí nhụt hùng tịu chạng vầy
Chặng cha nhụt hùng chúa tọi quýa
Tọi toi phiêu phiệm công tá vầy
Sấy chặng mài nhiền ói thính cấu
Mậu nhiền thám cấu dạ máu pây
Chìn pan ói chúm hô pan híu
Khấu chẳng dạm dí pát chá phơi
Hò nhiều tú pây chín cho cấu
Dạm quýa họ vần chêu chuất phơi
Míu chậy liều lá chíp tú chăng
Dạm chậy liều lá chấy quýa chầy
Míu chậy diết siêm mậu mềnh chún
Bài mềnh diết kiếu chuống nhiền pây
Song siếu đáp chạng mạ on pấy
Diết tíu tại lậu quýa tuông phiêm
Dạm híu chạng mài hùng cún
Phấy có chăng chun giạ họng chiềm
Phún tài dạm chậy guyền điều sấy
Diết sin lọ mạn quýa mìn siêm
Chạng tháo cô sên thin diêm ún
Ký chầy tú tháo thái pành nin
Phầm nin mâu nhiều thin tại hạn
Liếp mạ vùi tao duốn phíu nan
Nhụt quýa chiệp hự goang mênh píu
Lống quôi quáng khỏi phộng quôi thin
Châu choi chị liều khó liềm hong
Khò phí dạ nàn duối síu nin
Chê chuất cấu nghìn liều nhiều tộ
Động ghì díp mạnh quýa tàng nin
Pé dạng cấu nghìn míu dạm sứ
Chía lớn thim chuông tá nạo nghìn
Tòng hùng phài thim chí kinh puấn
Thim chuông liều lụn chía to nin
Chí vậy nàm thin sâm híu ché
Danh chấu nhụt thin chạng phin
Chạng cha chiếu phiêu chúa tọi quýa
Chính tú phai thin pụa chấy nghìn
Pha chiệp pham thin on hùng tịu
Lình siu tại mịu sính nhiền vìn
Pụa mậu dùn sân chiết chấy mui
Tấu nhiều chuông lậy khú tùn dùn
Nhất biện thái dạng phúi quýa phúi
Día biện thái diệm chun quýa chun
Hự pé nìn cên thin chuông lụn
Suối pây hành chía chặng thin muồn
Danh dếm phăm thin kiếm hút tịn
Nhụt hùng kiêm khấu chính tài puông
Nàm thin khiếu cún phín tố chậu
Ý tài tá nạo lụn thin chuông
Chấy mụi chiết nhiền to phàn tía
Ói giạ pàm cên khú quýa nin
Phán lụn thin chuông nậu chế nọi
Có nhiền chúa đía khí chằng dùn
Phâm chía giạ pàm vàng ý chun
Phấy chí kít pún chui vần phông
Thin chuông tú cín chính khó liền
Lầy lịu phà chiệp phăm thim chái
Tài púi chui vần lọ nạn nhiều
Chiệp dạng chai chín phăng phuống chụ
Phái sinh phái muộn khó liền nhiền
Cha chói há chiêu hái hăng lậy
Pụa mậu sòng chiên chói hái pịn
Chui vần gọi khấu tài tạp chịa
Quấy chía phin hiều nọi thính nghìn
Suồng dí dạm siên quây diêm diều
Chộng máy néng chía chói hoàng vìn
Pành chuống chậu chói hoàng vìn nọi
Đam chàng viện mấy quýa tàng nan
Chui vần pịn muộn chăng phấy chía
Pịn chậy hái chiêu quấy pậu phin
Pụa mậu mài mềnh phình hò dạng
Chồng tào diết nhậy ý muồng nghìn
Phấy chía phái sinh khoi nghìn vạ
Có có chía thính mụi kiềm nghìn
Pậu mậu dùn sân chiết chấy mụi
Mìu chậy chui kiêm chính nhụt nhiều
Tú cín có có pành hàn hín
Mộng tài phiêu kít khú chàng song
Chui vần thính chụ phiêm kinh lịu
Pành hàn diết sấy suối cám púi huân in
Pành hàn diết sấy suối chía chói
Nàn púi chinh dồng mấy sết phin
Phấy chía pịn chăng ó nghìn vạ
Có có ý pá vạ hền nghìn
Mài phiêm dòi kít vầy chai tói
Mậu dào pẹ mại dạm dào chín
Chui vuần chậy dá chía puôn vạ
Chiệp puôn mậu ấy dạ nàn nghìn
Chó pắng phơi tài mậu chế mọi
Diện nèng tồng lậu duấn quấy vìn
Quậy tháo lòng vìn nhàng pịn khắn
Ngan cín chậy pây khấy lịu chính
Nèng chía túi cín chui vầu duấn
Diệu tái goàng mấy khú nhiệu phin
Nèng chía khoi nghìn phăng muộn vạ
Diên hò quấy nhiệu tháo hoàng vìn
Pịn má chui vần dạm chía lậy
Hò cám lìu nhiều thin chạng pin
Pành hán pịn khuấn pành hàn ố
Nhịa chuất dại chionhf tại dạng thin
Lộ chía vạ nghìn chăng phấy nhiệu
Chinh dồng quấy nhiêu thích dùm diền
Quyên cha phú quấy hò dạm ói
Phấy vày quấy kiếm dáp goàng vìn
Phấy chía kiếm nghìn tài khuyến chạng
Pín chạng lộ nèng pụa mậu chính
Chiệu tài chiếm chiên to dòng hậy
Nám hành kiếu tói chính màn nghìn
Chịu diền kít tú chàng song tói
Tịnh diền mài nhất tú chắng vìn
Pịn pá chính hăng siu tàn chạng
Pái thin pái tậy tóng día nèng
Chúa pái chình thin chúa pái tậy
Vầy chấu día nèng tòng chạng làng
Chúa pái nhụt táo luốn thin chíu
Vầy múi chinh súi cáp siêm nàng
Chúa pái pấy pung chuống lụa chiên
Nhậy nhiền kít púi tún dún lịu
Chíu chá día chiếu cếnh chiên nèng
Pịn chính phấy pung hự púng khé
Ý hiến pành pọ chiếu pui chàn
Mài dún chính nhiêu mài dún quận
Chàng song diết día dọ quyền làng
Pạ dán chiếu tói khé dán lịu
Phấy chía chiêm tông phơi tại chắng
Chiệu pá kiếm cha chui khấu khía
Liều lầy ngòa ố tái cha hăng
Làn chai liệp khí trọng nhuần phấu
Sài quýa nám kinh diết cúa hăng
Chiết chiệp nhậy muồn pai huồng pháng
Nghị chiệp phấy tòi hít ché làng
Chìn muồn liệp khí siu dìu phấn
Hộ muồn liệp khí mộng khoa tòi
Liệp khí tại tòng chông phiêm chói
Muồn pông quáng tại sái puông làng
Chó pin liệp khí kiếm chai họng
Diệu pin liệp khí phộng vàng tòi
Ố bấy chuống tìu ngìu chín chậu
Chiu lọ bẹ nhàn día lọ kiêm
Dụa quýa phăm chiu dạm siêu khí
Muồn chìn phía chất phàm chai dạng
Thin đía chòi nần tái diết cô
Pết pin tòi tào pâu kiềm chán
Chiến châu khói muối cháu kiêm pùn
Kiềm pui nhàn chán trán lộ chiếu
Chui chắng kinh chinh nao nghịt sinh
Khú muối tòi tuông khán dạm chiên
Liều lầy tăng chắn ánh goanh mềnh
Chui vấn túi cín phiêm quyên hấy
Sấy cên nàn cín chía puôn nhiền
Chìn cho pành hàn vạ dạm chiện
Suồi pấy kiềm nhất pến chằng nhiền
Phấy chía goi nghìn chúm búa híu
Khó chậy cha hào pé dạng dòi
Ói khiếu khói tuông chí luồng pú
Cha tuông mài pú chính vầy dòi
Chá khí chàng dùn chin lậy lậu
Tài tháo luống hùng pú tịn tòi
Hông đại luồng hùng mài hự hín
Muộn câu mài hái tháo luồng tòi
Phấy chía tạp nghìn chún búa híu
Câu nèng tài cá pú quàng châu
Hộng đại tự nhiên dòi hò khí
Tịp chuất chiều châu cêu pá câu
Phấy chía chíp châu ón siếu lậy
To chịa luồng hùng chá mậu quây
Duấn tháo siêm chình chiêu vần phấu
Pái chạng tòi tào quang lạng diều
Lộ nèng tú quyên phiên quyên hấy
Dia có guang diều chiêm pú chấu
Phấy chía chộng phơi mậy vầy khú
Tồng kinh mài có sái quang diều
Siếu nhum diết chế tâu thiên bá
Buôi dùn chá mậu tháo tồng kinh
Phấy chía siếu tuông khoi pá chuất
Tâu khí tồng kinh khoa chiếm chình
Chăng tài ón chói chui vần phấy
Diết dằng khoa chiếm nhạy dăng chình
Phấy chấu nhiền chùn sinh chuất quáng
Chui vần lán chái pến cha tình
Tồng kinh mài có hùng dùn ngoài
Dùn cô chế quấy tại mềnh sinh
Thính chụ nhiền sinh ói buôi khắn
Mài hái chòi nần sái quáng kinh
Dùn ngoái diết phiêm chiêm buôi khắn
Lụa có nhiền hầu dòi chạng kinh
Đáp tháo chui vần muồn nhia khắn
Diết dằng khoa kiếm nhậy dằng chình
Tú cín quang mềnh chiền châu pú
Hào quang sái quýa chuống chiêu tình
Dịa mạ chàng sin pịa phâu khắn
Chui vuồn chíp pịa chói tồng thinh
Hành lậy phái phiêm khoi khú vạ
Cuối chá quyên dùn tháo chịn thinh
Chấu chuốt chà nhà chiền châu muối
Chiêm chắn hang chà tài phộng chình
Phấy chía thó chà tài phộng chình
Dùn ngoái chao tào khắn diết pin
Mịn dồng phấy háng goạng diêm nhụt
Sới chạng nằn mai động chía puôn
Chúa có tồng chai to mấy lạng
Mậy dàng nháng tú diết lời puân
Phiếm tuông liệp khi khiền chình chế
Ói mào nhiền mạnh kít nhiền chai
Dùn ngoái khí sin chệ pệ liu
Chuốt muồn chề mạ duốn vùi kinh
Diếu día pháng phây tá bênh chế
Ói mào phấy chía kít vuói chai
Phía chấy vuồn sâu khiếu phang chính
Liạng có on tồng tái phiến tài
On tồng đắp tháo chui vuần phấu
Pịn chíp chui vuần tồng lậu tài
Pịn chậy tồng kinh hùng hùn ngoài
Ói chính chui vuồn diếm chiếu chang
Chiếu chị bài tài diệm vuội hái
Ói kít vuồi hông dòi ché làng
Chui vuần pín búa chàng phấy chía
Quyên cha chính chiếu ché guyên lăng
Phấy chía thính vuần khoi nghìn búa
Chia mặn sao dào dạm tá hoang
Nọi táng diết chầy tá diết quá
Tồng chìn lọ tậy tịnh diêm dàng
Diết quá tồng chín tịnh diệm khú
Chui vuần ý tú chuốt muồn lào
Nhậy có tồng chìn tịnh diệm khú
Mài lậu chiếu hành mậu lậu cuôi
Phấy quá goi nghìn tài phăng khuýn
Ý chiếu nhiên cha nhịa đại phây
Chui vuồn dạm thính chai nhầy khuýn
Diết phiêm ói chiếu chọng nhuồn chai
Chui vuần chiêu tháo chình muồn nhịa
Dùn ngoái chuất tài chíp pịa chai
Chui vuần phơi páng phiêm guyên hấy
Tú chuộng quyên dùn thăm chang
Dùn ngoai làng phiêm hành ó chế
Liêp mào chao chế họi làng phiêm
Tòi táo pái chuốt mời vuần chiếu
Phăng khuyến chui vuần hông đại lòng
Kít quyái nhậy nhiền vuối păn chế
Chui vuần chiếu chuội chạng chòng nghìn
Dùn ngoái khoi phang tịp chuốt pú
Ón chói chui vuần săm lậy tuông
Mại chong chui vuồn thào nịp pú
Chính tài diếm chiếu vuội hò diên
Chui vần goi sinh pậy diền váng
Suồi pây diền váng tộ làng phiêm
Chạng mài chiết phinh thái pẹ híu
Dia mài chiệp tịn híu diên diều
Dùn ngoái pịn chai chiêp hự có
Khí khiêu khàng cho phấy chín tài
Diên vuội chui vuần tháo nịm pú
Chó muồi phấy chia kít vuồi chai
On tồng tái phó tài tháo ón
Khoi nghìn pín búa diết chông diên
Dùn ngoái chai tài mậu pết dại
Diên vuôi chui vuồn nịm pú châu
Phấy chía phây tài phiêm tuông nạu
Dùn ngoái mài khi chinh luồng chiếu
Chiệp hự on tồng nít tằng táo
Chó nghìu diệu thúi dạ nàn đút
Diêu dào min sết luội tằng liều
Púng chuất nhậy nhiền quây búa phiến
Dùn ngoái mài nần tài sái câu
Nhậy nhiền quây cha thông búa phiếm
Dạm chậy hền pin nhiêuh họng câu
Dùn ngoài thính vần diền diều dại
Phiên tuông dáo día pé tìu diêu
Dùn ngoài kinh trình nhiền to chuống
Cháng chậy diệu dào nàn nọi tầu
Tịu khí luông panh phăm chin có
Nhiền mạ chùn chùn lậu chạng hành
Chùn chùn khiếu tháo chuo vần phấu
Phăm dằng vầy quýa dạm thông puông
Cao sinh nao má chăng phấy chía
Mài nần chuất khắn goi mầy síu
Phấy tú tìa to phiêm chính làng
Goi khấu má sinh hùng dùn ngoái
Quấy chía pịa muồn nịm khí chiếu
Phăm chin panh mạ sết vần âu
Dạm sái chăng to dạm lào lệ
Niều vần pành nọi chói dáo âu
Púng chuất diết mềnh quây búa phiến
Chính híu sìn thồng hến tại câu
Dùn ngoái phăng phơi mậu đào kháo
Ói tháo thin po phấu nọi diều
Thin po mài có lý sìn sáng
Vầy quyên chấu dại sùi quân chinh
Pín búa lý sìn dói bái chế
Kiếp giếu pạnh tào chuất sính chinh
Thin po pái tào chuất thin muồn chặm
Phấy chía phơi tài dạm tá nàn
Buôi chạng piến thin púng nghin khắn
Thin po quyên phấy diết dòi pan
Diết chệch diều má phát giạ tậy
Pến chin pến mạn nhiệt cha panh
Thông chình chắm pại thin po phấu
Dằng hù nhậy phấu diết dòi pành
Khoi nèng diết pá pong po sín
Lìn panh lìn chúng luội song liều
Tá chặm dạm hình diều sú khó
Niều vần pành nọi chính dào diều
Liều gia ký sìn hùng dùn ngoái
Đọ quyên mậu chúng váng phàn phiên
Sìn sáng khoi mầy chao kính chíu
Chíu tháo piền thin khắn dam mềnh
Pháy chía piềm thin goi sinh má
Lẻng có chún nhầy dạm tía chìn
Lẻng có nghìn mấy dạm chía pú
Vắng phấy đam mềnh tóng hái pin
Chìn hộ pây tài nàm hò nọi
Phăm canh piến día chạng hùng chình
Pái pín hìn chông sính hùng chiếu
Chồng tào diết nhậy lớn chinh chinh
Hìn chuông thính lịu diên diều dại
Hé tú hìn chuông phiêm lậy kinh
Vấn lịu chía to quyên dùn phấu
Cán giếu thin po nhậy phấu chình
Chun hùng tịn chạng khoi kiêm khấu
Nằm chun nhiệu chắng diết btoongf hành
Cúa chạng nhiều to dạm día tú
Chiết chiệp nhậy vạn khú huông panh
Diết tím tông pung chạp diết mụa
Chinh chế chinh hộ hắng chìn hành
Nhậy tím nàm pung pềnh tênh húa
Chế chế chế hộ hắng chín hành
Gư tím chuông giăng mù khú thú
Vàng chế váng hộ hắng chín hành
Hành quýa chình sên sên băng lụi
Hành quýa còng hò chị súi gai
Chùn chùn vuồi chính chưu vần phấu
Phăm dằng phấy diệm dạm thông puông
Phấy chía muồn chín liệp nghin khắn
Chia chún panh tào dạm tá hoang
Diết diệm nàm panh nhạy diệm nhiệu
Khò liền thính mạnh dạm quây hăng
Chiệu pá kiềm cha chui khấy khí
Tại puông tại í phát thin ấu
Páo hắng phăm sinh kinh thin tậy
Nàm chun nhiệu chắng diết dòi pâu
Phấy chía hậu sinh lụa chấy mụi
Diết chầy vụi chún piếm thin diều
Diết có pến chiu chiu pến mạn
Chin chin mạn mạn nhiệu cha châu
Diết to buôi khiếu sết phạm có
Siêu tô nhậy mạnh diêm kiều
Phát chuất thịa puông lọ thịa í
Thui hóa chặm chìn dam cín say
Khò liền thin po pàng hú phấu
Pại lịu phăm quyên lụa tống chun
Diết chầy sết pó thin muồn chặm
Sết tú thin huân tậy dạ âu
Dạm día thin po hùng panh chuống
Niều vần pành nọi chậy dào diếu
Tái diết phăm quyên dằng vần quáng
Dằng cha tại chúng chắng chìu phin
Tài diết phăm quyên dằng vần quáng
Phăm chúng nần khằng dằng lụa lòng
Lìn chúng lìn panh chắng vấn lịu
Dạm pơi phính mạnh tú quây siăng
Liều giạ thin po lí sìn sáng
Liều pá vùi chíu duấn búa kinh
Sìn sáng phơi tài tong dạm khí
Song đằng giạ cuội pái sìn thống
Pung chuất nầu sá sìn sắng mạnh
Quây húa hìn chuông tú híu chinh
Hìn chông hùn chình tá tại cú
Kình động vần quyên ú chùng dòi
Nghìn búa có quyên dại chình tại
Dạm lớn nàm panh nhiệu chúng dòi
Cán cán hành panh kiếp giếu cúa
Liếp lệ tồng phiêm tá tháo goi
Quyên chạng cha quyên chế cha chế
Puông vầy cha chế chắng sùng toi
Phăm hù phấy kiếu mậu nhiền ếnh
Hìn chuông chậy dá chậy dào chình
Vuần quyên pấy nắng nài chêu pếu
Ú chúng động ghì mụa hóa chinh
Hùng tía phăm sinh mậu nhiền ếnh
Hùng tía còng sên kháo hái nhiều
Diết có dại chình thin dạng tại
Khí chui hìn chông mịn sết âu
Hìn chông phún tịnh pệt khía phấy
Phăn táo giạ nài pạn tậy pâu
Vui lậy có quyên mài phàm pé
Có chúng có quyên chắng lội liều
Mạn dai chìu tuông mài sín sáng
Pêu vần dại chắng chìn chiêu
Pín búa hìn chuông ý to mấn
Chía nọi quyền phiêm dạm día diêu
Khoản dạo pao vần phơi mộng khắn
Pháng chinh phấy phấu muộn con diều
Siếu thó chinh hăng mịu lọ pái
Mầy vần chóng chặng sứ diên diều
Tây phấu thin tòng chắng sứ chiện
Diều tháo lình siu pú tịn diều
Nhụt thùng tịn chạng khoi kiệm khấu
Chía muộn pao vần kiêm pú châu
Chìu tuông vậy diện hái puôn dại
Chí vậy diêm hò chạng chài diều
Pao vuần pái pín kiềm chai chạng
Lình siu tịn lậy sứ diêm diều
Phơi tài dạm diêm hái puân dại
Chí vậy pàm cin phán lụn chiêu
Dạm híu thin chuông hái phinh táo
Pàm cin phám lụt tú phàm chiêu
Nhụt hùng tá gọi thin mầy kính
Chính cín thin tòng phấy chía châu
Thin chuông chuộng mãi dân hín ché
Nần cô chế tại kiếp buôi diều
Hành chía thui buôi dùm tào nạo
Phấy chía khí hành kiếp duấn chiêu
Ói khú kiếp vùi thin chuông nọi
Dụa diền dạm duấn dại tài âu
Phấy chía thính vần phiêm tuông mậu
Chắng muồi hành chía giạ tài tầu
Kiềm cha chiếp tào nim khấu chiến
Pến pó hùa phinh buôi chạng diều
Hùa phinh động ghì luồi liếp lịnh
Hành chía pậy sì siu liu mầu
Mậu mịn vùi quậy thin chuông nọi
Phơi tài mậu chế nọi hò tầu
Diệt tài chai gia sân hín ché
Nhậy tài cha gia chuống thin châu
Chai giạ thin panh mậu chin mạn
Ừ luồi liếp lịnh giạ thin kiều
Phấy có thìn hùng cháng chai giạ
Dạm mài hái có nọi hò siêu
Nhụt hùng chậy pháng chậy phàn cháo
Mậu chế nọi hò phấy chía châu
Nhụt hùng tin chạng gọi kiên khấu
Hùng mậu thui kiêm chía thích nghìn
Nọi tú phấy chía quây thin chái
Miện chụ chin tìu siệu khâu sin
Dụa diền dạm tú phấy chía duấn
Mạn dại on bài hùng mậu sin
Hùng mậu thính phải vần bé dán
Phiêm tuông dào día lội lìn lìn
Nhậy chía goi nghìn tài phăng khuyến
Nèng nèng ý día quá phiêm pin
Chấy mụi lọ nhiều dồi vụi chế
Bài mềnh chao chế giếu nèng sin
Hùng mậu thích vần mài khú chế
Chiệp puân dào dĩa chiếp puân quyên
Chiết chế lạnh mềnh giạ pành khuyến
Thui dùn chá mậu giạ viền viền
Phấy chía chét mành dòi phăng vụi
Phái phiên thì chuất khú kiêm nghìn
Khuyến chía quyền phiêm quây chạng chái
Ý chói pàn cên nin quýa min
Càng vùa pin chiếp vừa tậy
Nọi vùa pin chiếp nọi vùa tìn
Phin nhiều pin chói phin chuông thin
Tấu nhiều chuông lậy khú quyền phiêm
Nhất diệm thái dáng phúi quýa phúi
Día biện diếm thái nin quýa nin
Phấy chía phàng phơi chin tìn mấn
Dạm duấn thin chuông dại dạm chinh
Chó phơi diện pháng nàn hò nọi
Bêu tụn chui vần chin mạn nin
Chia có luồng chuông chiền châu pú
Thui dùn chá mậu duán pui hoàn
Púi khí kinh chính thui dùn khiếu
Vùi chịa tồng kinh khoa kiếm chính
Siêu chiệp dòi chùn tùn lịu
Thui dùn chá mậu chạng thin vìn
Tấu nhiều phin chuông thin phin tịa
Phấy cóp thin muồn chắng chậy phin
Phấy quấy bài hòng nào nghịt hấy
Sìu dìu khoái lọ quýa tắng nin
Bên giạ chui vần pắm cên chặng
Diêu dáo đọ sáy quýa tàng nin
Chin nhất síu hòng chin nhất pái
Phấy tú vụi puồng phây chía phin
Chóng chặng chin chiêu mộng dạm kín
Chị chạng khên nhiều chịt lịu in
Chin nhiều nắng lịu chui vàng phộng
Hò khấn tố hàn khú quýa nin
Suối nhiều pấy tú chăng pấy chía
Sưới nhiền híu lịu cấu tuồng nghìn
Phấy chía câu nghìn chố chạm chiện
Hái nhiều híu chiện thíp sâu pin
Híu khấu chi nhiều ói chùn cấu
Nọi phàm chia chuất chói sâu pin
Sâu cấu chùn tài mài còn puấn
Không khấu chùm tài mài chó nghìn
Thán cấu chí nhiền mạnh tuông kháu
Pấu chóng dạm chuôi tấu tuông nghìn.
Dịch nghĩa:
Truyện kể người con gái thứ tư của Ngọc Hoàng
Truyện xưa kể rằng: Ngọc Hoàng thượng đế sinh hạ được bảy người con gái, hàng ngày bảy chị em luôn quấn quýt bên nhau chơi hoa chăm quả, lúc nào cũng ríu rít như đàn chim, họ nhảy múa hát ca suốt từ ngày này qua ngày khác, các cô càng lớn càng sinh tươi, mặt hoa da phấn. Trong một lần đi chơi cùng các chị em, cô con gái thứ tư đi lạc xuống trần gian. Nàng lang thang mãi rồi gặp gỡ một chàng trai mồ côi, không có bố chỉ có mẹ già. Mẹ già ở nhà, con đi kiếm củi, làm thuê kiếm tiền nuôi mẹ già. Nàng gặp chàng và nghĩ rằng đây là duyên phận nên muốn lấy chàng làm chồng. Chàng biết nàng là dòng dõi nhà tiên, xem lại thân phận của mình nên không dám nhận lời lấy nàng nhưng nàng cứ tha thiết muốn lấy chàng trai mồ côi làm chồng. Nàng đòi về nhà gặp mẹ già và xin làm dâu. Chàng không đồng ý vì sợ gia cảnh mình nghèo khó nhưng nang nằng nặc đòi về. Chàng đồng ý đưa về nhà, khi về đến nhà, thì thấy nhà chàng quả khó khăn thật. Nàng nhìn thấy mẹ già quần áo không có để mặc, cơm không có để ăn nhưng ý nàng đã quyết, nàng vào xin mạ già cho phép được lấy con trai mẹ làm chồng, giúp chàng nuôi mẹ già nhưng bà cũng giống con trai, thấy gia cảnh nhà mình túng thiếu, nghèo nàn, con trai mình mồ côi cha từ nhỏ, mẹ già lại ốm đau, yếu ớt trong khi nàng là giống tiên rồng, cao sang phú quý nên bà cũng một mực khăng khăng từ chối nhận nàng làm dâu. Nhưng nàng khuyên can mãi thì bà cũng đồng ý. Rồi một lễ cưới chỉ có ba người với nhau được chứng kiến và thế là họ nên vợ nên chồng. Từ khi cưới nhau xong, sau một đêm thức dậy, cả bà mẹ chồng và chàng trai mồ côi đã thấy mình được sống trong một ngôi nhà khang trang lộng lẫy như một tòa lâu đài, đồ dùng trong nhà không thiếu thứ gì, có kẻ hầu người hạ tận nơi.
Trong vùng có một ông quan tên Hùng Nhuần Hoái thấy chàng trai mồ côi tự nhiên lấy được vợ đẹp lại bỗng chốc trở nên giàu có cao sang bèn sai quan lính đến dò hỏi thì biết vợ chàng là con gái thứ tư của Ngọc Hoàng thượng đế nên lòng ghen ghét nổi lên. Quan sai 15 quân đến bắt nàng tiên về làm vợ. Khi đến nhà, được gia đình đón tiếp mời vào gian giữa, lấy nước chè mời uống đàng hoàng. Rồi sau đó, nàng cho 1 người về báo tin rằng nàng không đồng ý, còn lại 14 người kia bị nàng giữ lại. Quan tức giận khi thấy nàng đã không đồng ý về làm vợ mình lại còn giữ lại quân của mình mà không thả ra, ông giận giữ đem 150 quân đến không được mà cũng bị giữ lại, quan đem 1.500 quân đến cũng không lấy được nàng về làm vợ, quan huy động hàng vạn quân lính đến vây quanh ngôi nhà nhưng vẫn không mang lại kết quả gì mà quân cứ vào đến đâu là bị nhốt chặt đến đó. Quan tức giận vô cùng kiện lên Ngọc Hoàng vì đã để con gái xuống trần gây rối, bắt hết lính nhà quan. Lúc này, Ngọc Hoàng mới kiểm tra lại thì đúng là ngài có người con thứ tư đã xuống trần và kết duyên cùng chàng trai mồ côi. Ngọc Hoàng đã cho quân xuống bắt nàng về. Nàng van xin thế nào vua cha cũng không đồng ý một mực đưa con gái về hoàng cung. Cuộc chia tay giữa nàng và người chồng thật buồn thương, không nước mắt nào tả xiết, người mẹ già nhìn cảnh các con buồn thương lại càng lâm bệnh nặng hơn. Nàng bị quân lính nhà trời bắt đi xa dần xa dần rồi mất hút. Khi nàng ra đi, cảnh nghèo khổ ngày nào của mẹ con chàng mồ côi lại tiếp diễn.
Cũng giống như các vùng khác, xã Trung Tâm từ xưa vẫn truyền nhau câu truyện thơ truyện thơ có xuất xứ từ Trung Quốc "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài" nhưng nó thể hiện tâm tư, tình cảm của cộng đồng, được ghi chép cẩn thận và lưu truyền rất rộng rãi:
ÈNG TÒI CẤU GHÌN DUNG
(LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI)
Pham pé nìn cô hắng chìn khiếu
Èng tòi chói hố thó sâu ngìn
Khấu tháu họ tòng tộ sâu hỏng
Chiệp puân quyênhấy tộ sâu ngìn
Nhị nhân giòi chuộng chiệp họ quyện
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Phía dẳng nhị nhân chuổng péng pắt
Tòi thiên tộ sâu chuộng nhất pin
Nhị nhân chói lọ tòng lấy
Tộ sâu phía dẳng tú tam nin
Tộ chiến kinh sâu trin pé puấn
Èng tòi phấy pháng diếm cha vìn
Nhất tài phây chụ lòng día chía
Nhị mộc dàu día mẩu xong lìn
Chai tàu mái tú gằng dầu chấy
Èng tòi phía suất mạn sầu ngìn
Chệ pệ phìn sanh lòng quây khấu
Nhị nhân thau siếu sluất muồn chìn
Thau siếu nhệ miền pịn nàn sía
Làng tam phang púng kía chai pin
Phúng tráu lậu tàu dặm sía líu
Nhị thiên thau siếu tún kiêm ngìn
Èng tòi búa kiếu làng pham dé
Nin hô sin mạn tháu cha vìn
Phúng tháu lầu tàu có chấy khấu
Nhị nhân sau siếu có cha vìn
Pham pé kiệu quôi họ tòng lấy
Èng tòi quây duốn chậy muồn chìn
Día lấy dìa nhàng phiêm quyên hấy
Tú kín èng tòi tháu mịn chìn
Sin thiên ây xam kháng tút líu
Chuộng có nhâu nhân nin kía nin
Tam tứ quê tháu họ tòng lấy
Phiêm tuông dàu día dẫu khoi ngìn
Khấu pịn tộ sâu phiêm pị pháng
Pliêm tuông dã ói duấn cha vìn
Tam tứ phây làng phiêm phây duốn
Sâu phang siêu khí thuất mần chìn
Quê tháu èng tòi nhuần chìn chói
Huống chìn khói khấu muộn pao ngìn
Èng tòi thính chụ làng tam tứ
Nhân sin chong có thính chai pin
Tam tứ tháu siêu dặm phang chía
Èng tòi thau siếu thính khoi ngìn
Tòi thiên tộ sâu pin tử mui
Tam tứ phiêm tuoonng dặm siến ngìn
Dặn siến khoi phang tiệp sâu tói
Làng tam thính siến mui chiên ngìn
Tòi thiên nhị nhân tòi sâu dặng
Làng tam thính siến mụi chiên ngìn
Pin muộn hái chiêu hái quyện khé
Diền hò tài tháu ố vìn pin
Pịn chấy chuộng chiêu làng tam tứ
Èng tòi tú chuộng chói tam nin
Èng tòi búa chiêm mụi dìa chía
Dìa chía thính nhàng suất diết sing
Nhị nhân chuộng chói họ tòng lấy
Chuộng hèng chuộng chuội sâu pìn
Tam tứ thục sinh sính chiên mụi
Nhị nhân thính híu mụi chiên ngìn
Dìa nhàng thính chụ dìa chía vủa
Cha tưng siu khí phộng chà chìn
Èng tòi thó chà tam tứ diếm
Họp pùm tò chịa thó tòi pìn
Dặm siến pòng chìn tam tứ khiếu
Èng tòi phang pháng suất mần chìn
Èng tòi pín búa làng tam tứ
Búa lòng pháy thính mụi kiêm ngìn
Dàng sấy lậu tàu mạn tú lìn
Èng tói búa chiên làng tam tứ
Quôi cha ý día quá phiêm pìn
Chói dụa kiêm phây chính lìn khấu
Dặm pây mạn púi chía tàng nin
Làng tam phiem tuông tồ dàu día
Khấu tuông gom luổi lạ lìn lìn
Dìa día tủ kín làng tam tứ
Dìa nhàng tú kín luổi lìn lìn lo
Cha lấy dìa nhàng muộn tam tứ
Tuông vẩy hái día dàu phiêm pin
Dầu hò lọ líu mịn khé khiếu
Vuẩy hò dàu día hái pin pin ngìn
Chói lọ họ tòng vuẩy hái chảy
Vuẩy hái diền dầu dàu día pin
Tam tứ thính chụ dìa chía vủa
Khấu dẻ khoi ngìn luổi dả lìn
Piên tuoonng tồ dàu dẳm vuẩy hái
Dìa chía mịn chìn thính pháy ngìn
Chuộng chói cha tuông khiếu họ quyện
Vuẩy chụ èng tòi tháu lẩu pin
Nhị nhân lẩu ngũ phang tún tỉnh
Khống chú tộ sâu chuộng nhất pin
Sín puống nhị nhân chuộng pá sin
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Tộ sâu tam min dẳm phang chía
Duối nhất thính pấy chiên quá ngìn
Dìa nhàng thính híu dàu phiểm líu
Dặm tú èng tòi tháu siếu lìn
Dìa nhàng thính chụ tam tứ chủa
Ý dụa tồ dàu hái dặng ngìn
Hố nhất dìa nhàng khiếu phang muận
Hố nhất mài tin chổng tú lìn
Tam từ dìa nhàng hắng khấu muộn
Pin muổn àng tòi dìa chía ngìn
Èng tòi dìa chía vủa khò phí
Tăm tứ mẩu dùn khùng quá ngìn
Léng líu mái cha thình chà phiến
Tam tứ mạu dùn khùng hẳn sin
Tam tứ ói lìn dẳm điểu vủa
Dùn thín mái chạ tỉnh líu chìn
Mai chạ diếu mộc tú lìn khiếu
Khò phí hàng mùi khung hặm pin
Tam tứ mài chìn pết sấu muổn
Dẳm hẳn èng tòi dặm tú lìn
Èng tòi thính chụ hèng mùi pin
Búa riếu hèng mùi thính mụi ngìn
Quây cha búa kiếu làng tam tứ
Ý hẳn èng tòi quá tậu ngìn
Diếu tài tam mộc tú lìn mùi
Dìa chía sẩy kiêm leng nữ chìn
Nhị nhân chụ mẩu tài puẩn
Liều gia chiền phiêm hố sấy lìn
Bèng mùi thính chụ èng tòi vả
Khấu tuông vậy vả pin nàn lìn
Hanh mình búa chiếu dặm tú púi
Diếu tài than siếu suất muần chìn
Èng tòi mài ngìn dặm khú vả
Sin ngũ ấy xam thút dết pin
Ây xam phía chàng siền siếu phiến
Chúy búa hàng thôi quây duấn vìn
Quê cha pin pá tam tứ tộ
Pháy khoi tộ khán mủi tam ngìn
Mái cha dàng thủ tú lín khiếu
Nhị nhân diêm thôi mạn mộc lìn
Tam tứ kín sâu thán siếu lây
Dẳm pây diêm sấy siếu cha vìn
Pin pá ầy xam tham cếnh phấy
Chà tuông dàu día dẳm pây thiên
Dìa nhàng tú kín tam tứ phẩy
Chiệp puân khò phí dẩu khò liền
Lòng chía phiêm phây liều dẳm duẩn
Động dỳ tô cháy tủm con xin
Khấu chính phin sanh tài tạp tậy
Cháng chói tồm chiêu tại lẩu pin
Cháng trói tồm chiêu tại lẩu phấu
Pin pá èng tòi hặm siếu lin
Èng tòi hàng chá tại lậu kía
Tú kín làng tam châu cháng in
Hèng kía mỉn chìn khoi chía kiếu
Tam tứ mài dình khoi chấu lìn
Tứ lình tứ sín phân mú khai
Ử lìn ư sín má kha thai
Ỷ pín tân kho pài lồng huấy
Ỷ pín cao quan siếu páo thài
Tam tứ mài lình pịn khoi chấu
Díp tú èng tòi tháu siếu lìn
Tồng tho nhị nhân vả kín
Khiếu nhân tự mộc pịn tú lìn
Tam tứ tú lìn èng tòi khiếu
Pêu giạ mái cha chói sấy min
Nhị nhân oeens chằng in dang tử
Buôi ngũ thiên tông dòi tú lin
Mã cha piên tú nhàng chin chúa
Thập hẳn èng tòi dăm thôi lìn
Pịa chây èng tòi làng tam tứ
Buôi ngũ thiên tòng hắng họp chìn
Mái cha dẳm siến đam thiu vết
Pến tòi in dang buôi ngũ thiên
Seng chấy nhị nhân chuổng pếnh pắt
Phấy chấy nhị nhân chuổng họp chìn
Siếu thôi diêm phây thính tú púi
Chố chấy cấu ngìn chùn thôi min
Tam tứ thôi cúi tú lìn khiếu
Nhị nhân dau siêu ngũ chinh thiên
Buôi kía mái cha muồn chìn nhịa
Mái cha tư kín luổi lìn lìn
Dịch nghĩa:
LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI
Sơn Bá niên cao hướng tiến khổ
Anh Đài đi sau tiền học đường
Đi đến học đường đọc thư viện
Cảm thấy vui vẻ được đến trường
Người cùng trường học chung một lớp
Ngày thì chung đọc ngủ cùng giường
Viết chữ hai người chung chiếc bút
Cùng bàn đọc sách cùng một trang
Hai người cùng học ở trường đấy
Đọc sách viết chữ được ba năm
Dùi mài kinh thư trăm nghìn quyển
Anh Đài suy nghĩ muốn về nhà
Thứ nhất nhớ mẹ hai nhớ bố
Lại lo sau này không có duyên
Đoạn đầu mua được quang dầu đấy
Anh Đài viết ra ý rất nhiều
Tạm biệt tiên sinh còn phải về
Hai người chào chúc cùng chia tay
Hai người chia tay khó mà được
Sơn Bá tiễn đưa một đoạn đường
Tiễn đến đầu đường nói khó hết
Bắt tay hứa hẹn rất rất nhiều
Anh Đài khẽ bảo Lương Sơn Bá
Sau này Sơn Bá phải đến nhà
Tiễn đến đầu đường chia hai ngả
Hai người tay vẫy cùng chào nhau
Sơn Bá quay lại về trường học
Anh Đài về đến bố mẹ nhà
Bố mẹ Anh Đài rất mừng vui
Được thấy con mình đã tới nhà
Thay hết nam nhi bộ trang phục
Trang phục con gái thật là xinh
Sơn bá về đến nơi trường học
Tâm tư buồn chán khó học bài
Buổi sáng buồn không muốn rửa mặt
Trong lòng buồn chán muốn về nhà
Miệng thì đọc sách tâm suy nghĩ
Tại sao mình cứ muốn về nhà
Sơn Bá tâm tư càng nhung nhớ
Thu xếp sách vở rồi lên đường
Về đến gia đình Anh Đài thấy
Trước mặt Anh Đài hỏi mấy lời
Anh Đài nghe chuyện Sơn Bá nói
Hai người khẽ bước chân ra ngoài
Sơn Bá giơ dơ tay xin phét hỏi
Anh Đài giơ tay xin trả lời
Cùng trường đọc tính là muội
Sơn Bá trong lòng chưa dám tin
Nếu như không tin cho xem sách
Sơn Bá thấy thế thì đúng rồi
Đối chữ trên bài giống nhau hết
Lương Sơn mới biết muội là em
Cho hỏi ở đâu khách xa lạ
Vì sao lại đến trước cửa nhà
Anh Đài bảo thật mẹ của muội
Bố mẹ của nàng hỏi nàng một câu
Chắc rằng đây là Lương Sơn Bá
Anh Đài cùng ở cùng học ba năm
Chúng cháu học cùng ở trường đấy
Cùng đi cùng ngủ sách cùng trang
Bây giờ Sơn Bá mới thấy muội
Hai người mới biết muội chân tình
Mẹ nàng nghĩ thấy chuyện của bố
Gia đình đun nước pha ấm trà
Anh Đài mời trà Lương Sơn Bá
Trà khay đặt xuống để ở bàn
Cảm tạ trà thơm chàng được uống
Anh Đài tiễn đưa Sơn Bá về
Anh Đài bảo cậu Lương Sơn Bá
Bảo chàng hãy nghe muội nói vài lời
Trần gian vô duyên không lấy được
Hai người về âm sẽ thành duyên
Anh Đài bảo thật Lương Sơn Bá
Về nhà chàng đừng quá buồn sầu
Chắc chắn về âm có duyên phận
Âm duyên mãi mãi sẽ không già
Lương Sơn tâm tư buồn đau khổ
Giọt lệ lúc nào cũng trào tuôn
Bố mẹ Sơn Bá nhìn chàng khóc
Mẹ mà nhìn thấy nhỏ lệ tuôn
Bố mẹ gia đình hỏi Sơn Bá
Vì sao lại thấy con buồn sầu
Vì sao nét mặt luôn đổi sắc
Buồn sầu như vậy là vì sao?
Đi học ở trường có gì vậy?
Vì sao nguyên nhân vì cái gì?
Sơn Bá nghe thấy bố mẹ hỏi
Miệng cũng trả lời lệ cũng tuôn
Trong tâm buồn sầu con suy nghĩ
Vì con đã mất Trúc Anh Đài
Đã cùng Anh Đài một trường học
Mẹ thầy bảo Sơn Bá không lo
Chúng con hai người đã hẹn ước
Khổng Tử đọc sách chung một trang
Quạt mát hai người chung một quạt
Cùng học ba năm cũng sống ba năm
Bây giờ mới biết thấy xuyến xao
Mới biết Anh Đài là con gái
Không được cùng nàng thành vợ con
Bố mẹ nghe thấy Sơn Bá kể
Không phải nghĩ về chuyện này
Vài hôm bố sẽ đi dạm hỏi
Sẽ cưới Anh Đài thành vợ con
Bố mẹ Anh Đài nói rất tiếc
Nhưng vì đã có Mã Văn Tài
Sơn Bá đến sau không còn phận
Đành để chỗ khác hỏi nàng xuân
Anh Đài nghe thấy thật tội nghiệp
Rất thương Sơn Bá đáng tủi thân
Sơn Bá có lòng không đến sớm
Bây giờ đến muộn rất là buồn
Bố mẹ Anh Đài đã nhận lễ
Sơn Bá vô duyên bị đến sau
Văn Tài sơn đến được duyên phận
Bỏ lại Sơn Bá sống đơn côi
Sơn Bá có tiền hỏi phương khác
Đừng trách Anh Đài không nhận hôn
Anh Đài nghe chuyện người làm mối
Gửi lời bà mối về đến nhà
Về nhà bảo cậu Lương Sơn Bá
Đừng mà nhớ quá Trúc Anh Đài
Sớm đến ba hôm chàng sẽ được
Nhận lễ Văn Tài rồi khó thoát
Ngậm đắng nuốt cay đành chịu thua
Hai người trần không lấy được nhau
Để lại trân tâm âm thế liền
Anh Đài có lời nói không hết
Xé áo thân thể viết thành thơ
Viết thành ý thơ gửi bà mối
Gửi dặn bà mối mang đến nhà
Đến nhà đưa cho Sơn Bá đọc
Sẽ mở ra đọc ý của nàng
Văn Tài dương thế được lấy muội
Nhị nhân âm thế sẽ thành duyên
Sơn Bá đọc thơ rồi suy nghĩ
Chắc gì âm thế đã thành duyên
Chàng đọc thơ nàng khóc muốn chết
Cả nhà buồn bã không hiểu sao
Mẹ chàng nhìn thấy con mình chết
Thế bà vừa tiếc lại vừa buồn
Bố chàng suy nghĩ không thiết sống
Như dao cắt ruột rất là thương
Đi đón tiên sinh để xem địa
Táng tại đại châu đại lộ biên
Táng tại đại châu đại bộ phủ
Còn để Anh Đài đến đấy biết
Anh Đài xuất đi đến đấy
Được thấy ngôi mộ thật đau thương
Đi đến trước mộ rồi khẽ gọi
Đón được Anh Đài đến kết duyên
Hữu binh hữu thiêng khai phần mộ
Không binh không thiêng vợ Văn Tài
Nhật điểm tân kho bầy long vị
Nhất cao quan hưởng ngọc đài
Sơn Bá hữu binh khai phần mộ
Đón được người tình đến tận tay
Trần gian hai người đã hẹn ước
Bây giờ về âm ta cùng duyên
Sơn Bá được chung Anh Đài nữ
Thừa bại Văn Tài ở thế gian
Văn tài đón được nàng chân váy
Không được Anh Đài đến tận tay
Thành đôi uyên ương Anh Đài Lương Sơn Bá
Bay tận trên trời háo thành tiên
Sống ở trên trời chung chiếc bút
Thành tiên hai người giống hộp tiền
Văn tài tức giận vác thuổng đao
Liền đôi uyên ương bay lên trời
Trong rất nhiều nội dung của "Pá dung", phần phản ánh thực tế lịch sử xã hội tộc người luôn chiếm vị trí quan trọng. Trong cái muôn màu của thực tế đó, có một nội dung luôn được đề cập đó là thân phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ, họ lên án cái khổ, cái lễ giáo phong kiến, khát khao tự do. "Nhị nhàng dung" (Khúc hát người làm dâu) là một trong số rất nhiều tác phẩm như thế đến nay vẫn được cộng đồng nơi đây truyền nhau ca hát:
NHỊ NHÀNG DUNG
(KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU)
Diên chói tấu tuông nhân tài muộn
Lọ dịa pham chiu nhân tinh chùa
Nhất canh tịnh híu chằng long ngó
Dia chía sấy kên lánh híu chùn
Chiệp nhất chiệp nhị nhân tài muộn
Chiệp tam chiệp tứ chính mủi chiển
Chiệp pham chiệp phấy chắng lụa ngó
Chiệp hứu chiệp của cháu miền ca
Chiệp chua nhị chiệp chằng tháu tạy
Pùa tàu đam đám siếu khên chày
Tai cha vuột co say chía kiếm
Tai phấy vuội co say piếm phiệm
Siếu nhun dâng cán siếu lìm ố
Dây cám pụa dằng dổ pụa dằng
Nhất canh tại chén ô vìn lầy
Nhị canh tại chói ô vìm pin
Tam canh thác mãi giả hò cắp
Tứ canh giả cắp mản liều chang
Hứng canh pụa vìm cắp chiếu tsói
Thinh găng trong pệm tại pé diếm
Tại pé sam pùng dân nhụn nhì
Thình gắng chong pệm phiu pế diếm
Dầu sấu sách nhàng lầy sách chấy
Thin gắng chang pện pam pé diêm
Pam pé chíp tài bêu ghịa lầy
Chây phiu phang in dịa lầy chíp
Chíp tài tò duấn pá mụ chầy
Tài nhất co câu chuộng lầy sồ
Tài nhị co câu bình ên phiêm
Tài tam co câu dên hai phấu
Tài tứ co câu diên phâu phiêm
Tài ngũ co câu dùn nhà ấy
Mâu dang man day siếu câu quê
Dặm chấy chiu muốn día lấy tắng
Tài pé vùi tài giả mà quê
Nhị nhấn dịa má pái pham pái
Pái thém nhụt chìa nhàng dằm quê
Chong tàu mái tói kiêm khoa chậu
Kiêu pá lụa lòng tịnh hố tsong
Tình tú hớ t sang hắng nhằng dắng
Phộng trìu cong súi tố liệu phay
Cong súi tố mình dắm tổ duần
Ké mụa biên sành nhàng dằm cuôi
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU
Còn ở trong bụng người đến hỏi
Lọt lòng ba hôm người định trà
Canh một người đã định hôn lễ
Bố mẹ lúc ấy nhận đủ tiền
Mười một mười hai người ăn hỏi
Mười ba mười bốn mới thành niên
Mười lăm mười sáu nhận hẹn ước
Mười bảy mười tám đến nhà chồng
Mười chín hai mươi sống cực khổ
Tay cầm chiếc chổi quét rác nhà
Trong nhà rác rưởi quét rất nhiều
Quét nhà xong hết lại quét sân
Canh một trong nhà phải giã gạo
Canh hai giã gạo ở ngoài hè
Canh ba vo gạo ở ngoài suối
Canh bốn bên trõ bắc nồi xôi
Canh năm vào vườn hái rau rượu
Đến khi trời sáng chín nồi canh
Trời sáng sắp cơm xong mời bác
Bác cả lấy mâm ném xuống vườn
Em thím nhanh tay đến đỡ lấy
Không để xóm làng nghe tiếng kêu
Sắp mâm thứ hai cho bác hai
Bác hai lại chê nước canh đục
Lại bị bác hai mắng chửi nhiều
Bà cô thứ nhất chê cơm sống
Bà cô thứ hai chê gạo đen
Bà cô thứ ba chê nàng chậm
Bà cô thứ tư chê nàng lười
Bà cô thứ năm được nàng ý
Dù hay dù dở chờ anh về
Em có trong hòm mấy bộ áo
Giao cho bà thứ năm dùng
Đầu giường có đôi vàng ta dũa
Để cho anh chàng hỏi vợ hai
Hỏi được vợ hai như nàng ý
Mấy dòng suối chảy về nguồn
Dòng nước chảy đi quay lại được
Lúc đấy thì nàng mới trở về
Một nội dung rất quan trọng và chiếm nhiều bài ca trong "Pá dung" của người Dao là những khúc hát giao duyên, hát tâm tình, hát trai gái tìm hiểu nhau, hát mừng hạnh phúc lứa đôi trong các đám cưới. Dưới đây là một số bài hát tiêu biểu:
Bài 1: THÁN MIẾN TÒNG DUNG
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Piền câu khói thin tsấy liệp tậy
Chấy dòi thin đía mạn dằng phiêu
Liêu pham dậu chấy diềm dùn puận
Năm tai tòng ka nhấu ká phiêu
Nặm nhân nìm tong chiệp pết chiếm dàu dùn
Kiềm min hênh mình muộn quế dặng
Ý khếnh sầu tuông dặm khá nhầu
Chảng dẳm khá dìa dìa dặm khá chía
Nằm tsống nhấu nhụn khú dùn phiêu
Năm kha lọ dàng min khắng pịa
Sềnh tếnh hồng dìa thái chấu lầu
Nhân khoa lọ dàng mịn nhằng nhịa
Mệnh ka đàu dùn cuổi sấy phiêu
Dăm chấy hái miền tài phang áp
Diềm dùn tháu phú cắp chàng song
Ông cuốn liềm pham hành chìn thác
Bì bện chíp tsiên quê duấn tòng
Phàn lụi mùi nhân phúng tsiên thác
Phúng to kiêm khoa thán miến tòng
Mùi miền tsinh súi cắp huân hí
Cháng tsay pến tói phú dùm phiêu
Pú phú ìm dang chàng tsay tói
Chía hồ đàm dùn chậy nhất tòng
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Tổ Bàn Vương khai thiên lập địa
Thành thiên hạ trời đất con người
Cuộc sống sung sướng có ăn có ở
Sinh sôi nảy nở được hạnh phúc
Trai mười tám thì phải lấy vợ
Gái mười tám thì phải lấy chồng
Đặt trầu cau dạm ngõ ăn hỏi
Kế xem sách có hợp nhau không
Bố mẹ hai bên cùng hòa hợp
Lấy nhau mới nên vợ nên chồng
Trai sinh ra thờ cúng tổ tiên
Luôn hướng mặt về phía nhà mình
Gái sinh ra mặt hướng ra cửa
Đi lấy chồng thành con người ta
Không ép hai người phải lấy nhau
Đến duyên phận phải thành vợ chồng
Nhà trai làm bữa cơm tại nhà gái
Rồi đón dâu về làm lễ kết hôn
Thầy mờ lễ chúc vợ chồng trăm năm hạnh phúc
Làm phép cảm ơn nhà gái đã đưa dâu về đến nhà trai
Chúc hai vợ chồng hạnh phúc nên đôi
Mãi mãi chỉ chung một đường đi
Bài 2: TSUI DUOÁN
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Tsui tsắng kho toòng thin hồng phú
Vuồi huân kít cúa tú quyên dầu
In dang kít phúi chiằng lộng phộng
Gọi khoa kít cháy hịn kiều kiều
Dắt soong hín cháy soong soong hin
Tồông phiêm tồông ấy tsay cha kiều
Mài mại trọn chùn dã dồng hậy
Mạn dặng tsin dằng trắn miến phầu
Pụa triền kếnh síng tếnh cha dạy
Hồ nhất triền tsui mạn dặng phâu
Tríp tsiên kho toòng soong quyên hấy
Vuồi mộng tría to tsá yền dầu
Dậu día tím khóe dẳm tsing tsố
Tsá á líu nghìn vuồn dẳm tói tầu
Trộng kháu choáng tsiên dòi tsăn ấy
Siam siệu púng tàng ý súy âu
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Được chàng chung sống thật là vui
Được chàng chung sống thật hạnh phúc
Cũng bõ công nàng cầu thần khấn phật
Cũng bõ công nàng bấy lâu nay
Cầu được quý chàng thật như ý
Đưa nàng cùng chung hưởng vinh hoa
Hai bên giao duyên cùng hẹn ước
Hẹn thề giao ước nguyện thành đôi
Ta thề ta sẽ không chuyển hướng
Đời đời chung sống mãi bên nhau
Buồn sầu hoạn nạn cùng nhau chịu
Vui sướng bên nhau cũng đủ đầy
Sinh con nhiều cháu bề gia thất
Không nỡ lòng nào để phôi phai
Hát giao duyên là một nội dung rất phong phú của “Pá dung”, một số bài hát điển hình được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng tộc người được ghi chép lại là:
CHIÊN HIANG DUNG
Pháy khán tồng thin trầy mấy ngạn
Thài dàng so chíu kiắng chiên hiang
Páy píu phiêm tuông khiắng phây bặm
Nàn nỏi lình chiền tsấy phú phang
Muồng hín phiêm tuông chúa phây hặn
Trị día kìng phin khùng hoắng tan
Kình luồng phún siếu lìn trừng puận
Tú phiêu phúi mấy dẳm dàu hoang
Thính trụ quấy phin kiềm ngin nhấu
Tóng thin tsấy phú trịn hoàng than
Mộng phim trún tịng kiêm ngin vỏa
Mộng hắng coong hò súi pậu tàng
Trịn píu mộng phiêu chuộng bày vuội
Chuộng có hiàng bầu pụa ón hiang
Hùng mấu bò quân chuộng piến diến
Dàng kế chuộng đồng diễn chuộng phang
Dịch nghĩa:
HÁT GIAO DUYÊN
Thần không phù hộ nàng tự nguyện
Tự có nhiều nàng nguyện kết duyên
Không chê nàng xấu cùng vun đắp
Đừng như trăng tỏ trăng lại mờ
Miễn làm sao chàng không đổi ý
Nàng đây giữ lấy tấm lòng son
Được trời phù hộ chung duyên phận
Sung sướng vui vẻ biết bao nhiêu
Nàng tự giữ nguyên như đông hải
Trường lưu mãi mãi sẽ không phai
Được thần phù hộ chung vị trí
Không muốn cách ly một hướng nào
Chỉ sợ người tình không giữ ý
Để nàng đợi mãi trở thành không
Lừa nàng lang thang buồn biết mấy
Không được cùng chàng xây đắp chung
DÙNG CHẬU MÀI CON, CHÌNH MÀI LẬU
Chìu chiu chin mụi phiêm phẩy thảu
Mậy híu mìu phiêm phảng hải pin
Dùng chậu mài con, chình mài lậu
Thúi xuất mài nhuần cắp khói liều
Ên dùn mây goi chỏi phiêu khí
Ỷ phiên piển lậu bêu lọ pin
Tấu lây phỏng phây nàn thảu chiếm
Quả hoi phiêm tuang nin quyả nin
Tú thin xẩy dịa hòng ên phú
Diệm vắng phin ên mui chiếm tú puồng liều
Dịch nghĩa:
CÂY ĐA CÓ GỐC, TÌNH CÓ LỐI
Ngày ngày lòng em nhớ đến anh
Chảng biết lòng anh nhớ phương nào
Cây đa có gốc tình có lối
Nước hợp dòng chảy về biển khơi
Số phận không mở tự mình mở
Đừng có sử đến giữa chừng thôi
Không thể không đến bởi lòng quá nhớ
Chẳng lẽ để trong lòng năm qua năm
Được trời ban xuống hồng ơn phúc
Không uổng nghĩa tình anh đã gặp em
Người Dao nói chung là một cộng đồng rất mến khách, khách đến nhà bao giờ gia chủ cũng tìm mọi lý do để giữ khách lại nhà ăn bữa cơm rau, thay vì nói lời giữ khách, người ta hát để giữ khách:
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Liều phàm ca ngìn liều trìng chậu
Kiếm xúi thân tàu liễu quấy dang
Liều tú quấy giang trậu hiang hoong
Mộng hắng thái dâm biến thái dàng
Liệp líu phiềm kê liều trìng trậu
Liều trìng mậy trậu trịn hoàng hiang
Trình hiền dâm trậu phúng trình kiếu
Mán mạn thìu tsia quây duán hiang
Bậu tàu tsing tsing duán hòng vọong
Pị táu tsiết phinh dia chíu dang
Búa trìng liều ên quá phiên thán
Ý bêu kiêm trậu tún lầy hoang
Hái nhất cồng pau hiêu siếu bấy
Thìa tsia tài vụi thán duyên bàng
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Lời cổ anh hỏi em
Giữ em ở lại chơi vui với anh
Muốn giữ anh ở lại với gia đình
Mong được tình cảm đẹp như vầng thái dương
Giữ mãi anh cũng không thể được rồi
Anh phải về mọi thứ đã chuẩn bị rồi
Anh từ từ đi cho an toàn may mắn
Anh cảm ơn gia đình có lời mời tốt
Anh biết chỉ để trong lòng
Nhưng anh không thể ở lại được
Không phải do anh không ở lại được
Mà lần sau gặp lại không chấp nhận anh
Sau gặp lại em tình vẫn như cũ
Khi nào có được thời gian quý
Mời em sang gia đình anh chơi
Tạm biệt em anh phải về rồi
Bài ca lao động là một nội dung không thể thiếu của "Pá dung", người ta có thể ca khi đang làm trên nương, cũng có thể ca khi đang trên đường lên nương hoặc ca khi cảm thấy mệt ngồi nghỉ dưới gốc cây, bên lán nương, ... Hình thức thường là hát đối đáp, nói chuyện giữa hai bên. Nội dung xoay quanh hỏi đáp chuyện làm nương của mỗi gia đình như lúa có tốt không, có bị sâu bệnh không, năm nay có được mùa không, được bao nhiêu?, ...
MUỘN KIẾM
(ĐI NƯƠNG)
Liều pham tsêu vần sấy muộn kiếm
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín dang
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín trậu
Khoi tài pín búa pháy mìu tan
Người đáp ca:
Liều pham ca ngìn chùn búa kiếm
Búa kiếm phiếu tsun pham hín tan
Búa kiếm phiếu tsun tan hín píu
Phay khoi trùn búa quổi king dang
Người hỏi ca tiếp:
Liều pham ca ngìn trói phang muộn
Muộn kiếm siêu vùa tú tría tsin
Muộn kiếm siêu vùa tú tría pé
Pháy píu mộng phin pín búa lìn
Người đáp ca:
Quối píu mậy liền mìu pín búa
Pháy phíu vùa mìu mậu tría tsin
Triên ngìn vùa búa tú tría triệp
Ý tú goi mầy tàn xíu lìm
Dịch nghĩa:
ĐI NƯƠNG
Cổ xưa hỏi người đang lao động
Hỏi thăm bên ấy có mấy người
Hỏi người bên đấy cho xin biết
Khai ngôn biến báo tiểu nhân đơn
Người đáp lời ca:
Cổ nhân chuyền báo cho cùng biết
Bên này lao động có ba người
Báo chàng lao động ba người đấy
Khai ngôn biến báo quý anh chàng
Người hỏi tiếp gặt lúa được bao nhiêu
Cổ xưa có câu lại hỏi tiếp:
Hỏi rằng gặt hái được bao nhiêu
Hôm nay gặt lúa được mấy chục
Khẽ bảo cho anh được biết cùng
Người đáp tiếp bài hai:
Quý chàng không chê nàng xin đáp
Lúa nàng bị kém chẳng được là bao
Chân tình bảo chàng chẳng mấy chục
Xin chàng được biết đừng có cười.
Lời hát mừng nhà mới là những lời ca vui tươi, đằm thắm nhằm chúc mừng cho gia đình nhà chủ đã cố gắng, giỏi giang, biết làm ăn phát triển kinh tế. Nội dung lời hát cũng chúc tụng cho gia đình, họ hàng, làng bản mọi người đều mạnh khỏe, yên vui và làm ăn phát đạt:
Bài 1: NHÓM BỆP CẤY PÁ DUNG TOÒNG
(NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG)
Dất chá tồng pung thái dàng hịn
Nhị chá nàm hò xiêm xúi than
Pham chá phàm pung quyên dâm tậu
Phây pung nhầm quấy xúi vui voan
Pịa sên tróm túa kìng tồng tậy
Gyịa xúi nghìu chìm kíng tống nhan
Pịa hiang tróo síu kìng bố
Kìng tồng bồ nhần phiêm lấy hoang
Liều pham tsều vuần sấy dụa kiếm
Bêu tín gyạ hò sấy dụa nhần
Dụa tú bầy nhầu tài khí tíu
Sấy dụa ìn dang tầu mậy tầu
Dịch nghĩa :
NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG
Một gép phương đông thái dương hiện
Nhị gép nam hà thâm thủy thâm
Tam ghép tam phương quoan am đẩu
Tứ phương nhâm quý thủy chào lưu
Vào gò trém cây kinh động địa
Xuống nước bơi đò kinh động giang
Vào làng tán tỉnh kinh động báo
Kinh động người đã ngủ không yên
Lưu tam sao văn thử mời gọi
Nhử được con cá cắn đến câu
Thấy được cá cắn câu mới dám gọi
Không thì lại sợ không dám mời
Bài 2: VUẦY PHÚ TÍU NHI DUNG
(HÁT VÀO NHÀ MỚI)
Cá chông hiang húa chì trống sềng
Ký mềnh tồng trí chống sì côông
Dán phú mi tráo duồn muồn biểu
Phàn pêng phàn triáng có quây tông
Kiêm buần thó tsắt sòng puôi tráo
Tại cha p sống phú hú ca trông
Sông quôi phụ lụ trí ca côông
Nòm nhần sạp pát phống quân trế
Ní nhần sáp t pát sái kiềm đòng
Sống phú tráo sống phú chiàng
Sống quây phụ lụ chi ca miàng
Diáng chi muốn làn cú muôn khủ
Kiềm ngàn tròi pạ muốn lòng phang
Siếu yềm yếm siếu yềm yếm
Nàm nhần đắp phó thiêm quản chế
Ný nhần đắp phó sống dàng kiêm
Siếu òi ói siếu òi òi
Tsắt trai pát nạn duồi thiên hí
Kiềm ngàn dòi pạ sí phang bói
Dịch nghĩa:
HÁT VÀO NHÀ MỚI
Gia đình tổ tông cũng phù hộ
Các thầy song việc hồi phúc về
Đình đám gia đình đã bế mạc
Phân binh phân tướng trở về hương
Khay vàng giót ra đôi chén rượu
Để hồi phúc lộc về gia đình
Hồi phúc hồi lộc về gia chủ
Hồng phúc hồng lộc đầy gia đình
Nam nhân mười tám được quan trức
Nữ nhân mười tám đẹp như tiên
Rượu này hồi lộc cho bà chủ
Hồi cho phúc lộc gia chủ nàng
Chăn nuôi lợn gà đầy chuồng trại
Ngũ cốc lúa gạo ắp đầy kho
Sức khỏe dồi đao được thịnh vượng
Tiền tài vàng bạc sếp đầy hòm
Nam nhân xông nhà thăng quan trức
Nữ nhân xông nhà cho bạc vàng
Ốm đau thay cho đã mạnh khỏe
Tiền tài vàng bạc tứ phương về
Uống rượu là một nét văn hóa độc đáo của người Dao, nếu như người Kinh mời nhau chén rượu bằng những lời nói hay, người Thái mời nhau bằng những điệu xòe “nâng khăn mời rượu” thì người Dao lại ca “bài hát uống rượu” để ai nghe cũng không thể chối từ:
CẤY HỐP TIU
(MỜI UỐNG RƯỢU)
Cà chí côống cà chí côống
Dật nhất si liàng san pạ thồng
Tsếng tá siếu xi tố đằn voàn nhụt liểu
Dật niên sí ký tá xồng dồng
Cà chí miáng cà chí miàng
Dật nhất si liàng san li hoang
Kiên nhất tsếng tá siếu si tố đằn voàn nhụt liếu
Dật niên sí kí tá phồng quoang
Dịch nghĩ
MỜI UỐNG RƯ
Gia chủ ông gia chủ ông
Một ngày bận rộn rất nhiều việc
Suy nghĩ chưa thông suốt cái gì
Hôm nay mời được các thầy tới
Hoàn ơn song hết cầu chúc may
Một năm bốn quý được dồi dào
Gia chủ bà ơi gia chủ bà
Một năm bốn quý được đàng hoàng
Bài hát giáo huấn trong "Pá dung" không nhiều như những nội dung khác nhưng được lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác, nội dung cô đọng, xúc tích, mang tính giáo dục cao:
BUA TRỤ HÍU TÍA MẢ GIÁO
(BÀI HÁT GIÁO HUẤN)
Vuậy nhần ói trụ ý hộ nhần luộn bán
Trụ trấu kèng tsum trụ hộ chiền
Puồng trụ ó nhần ý tú tsáu
Día ý mài nhất tụ tìn pùi
Kín nhần tìn tậy ý deng máo
Phụ quấy yồng vòa dẩm tú tàng
Mai công mài tá nhần thán khú
Pun mềnh phun phá tú nin tàng
Nụn nhần ý síu nhần líu bồ líu
Puồng tsui khoa bọ ýa siêm tòng
Kiêm nhất dẩm pây mềnh nhất dạy
Mậy chiằng nhụt tríu tsíng tài pây
Sấy nhần tụ híu dằng kia pẹ
Ý tú pàm lùng dậu pàm đau
Ý tú phì deng cíu tía mả
Ý tú hoắng nhần loòng toọng than
Ý tú sết seng mạn hoòng dặng
Ý tú phàng thao trấu hỏi nhần
Ý tú thàm khoa thàm tầu nhần cha của
Ý tú khyú pế hỏi nhần triên
Ý quoẳng cuồng nhần căn phú quấy
Ý tú día phẩy máo mặng tàng
Ý tú píng chiến nhần giáo búa
Hỏi trụ quần cằn hỏi cằn
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIÁO HUẤN
Vì người không ai được ở không
Phải cầy phải cấy phải đi làm
Gặp người nhũng nhiễu chớ dòm ngó
Chẳng may tới lại phải đền
Thấy ruộng đất của người chớ tranh chấp
Phú quý vinh hoa chẳng vững bền
Trẻ con chớ cười người tóc bạc
Hoa rơi đầu vực bị gió đêm
Hôm nay chưa biết việc ngày mai
Giờ ngọ nắng tới mới biết khổ
Đời người phải biết trắng đen
Không phạm trên trời không phạm đất
Không cãi lời lẽ với mẹ cha
Không được lừa gạt với bạn bè
Không được sát sinh các thú vật
Không được lấy trộm của mọi người
Không được tham tài và tham sắc
Không được tức giận xúc phạm người
Không được tham giầu quên nghèo khổ
Không được ham sống sợ chết
Không được quên đi lời dạy bảo
Luôn ghi luôn nhớ để trong lòng
Hát ru (Háo ton dung) là những lời ca mượt mà, êm ái nhằm kích thích cho trẻ mau đắm mình trong giấc ngủ. Trong các điệu hát ru, nội dung thường được các bà mẹ sáng tác nhằm giáo dục cho con cái về đạo lý làm người; về tình yêu thương quê hương, hướng cho con ý chí phấn đấu về sau:
HÁT BẮU NGÀ PÍ DÒM
(HÁT RU CON NGỦ)
Ôí àn an ngà bế ói dàm cằn pí chiến mà ôi dòm
Te ma trấu công trấu mắn nhặn
Ngà xê ói cằn pi chiến dòm, dòm cáu ố ồ ôi
Ngà dả tài híu hắm te ma trấu công khấu
Ngà trụ cằn quay pi chiến ý dà ôi dàn ôi
An án túng tsún ma te oi ối àn an
Ngà xê bế ói dòm chiến nà ôi dòm ôi án
Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng
Chẳm châu lí lút theng tăng đi
Miéo tẳn tung noòng txeng tẳng veng
Nả là quăng quăng slải thìn gầy
Mạy đẳm ơn lò khẳn gẩy cổ
Bản dịch:
HÁT RU CON NGỦ
Hát ru là những lời trầm bổng
Thướt tha mượt mà êm ái nhằm kích thích
Cho bé ngủ đắm mình giấc ngủ dịu hiền
Và có cả lời ca thương yêu dạy dỗ cho
Trẻ sau này biết làm người hiếu thảo
Cha mẹ biết lễ phép ra vào
Ối í a, ngủ ngon, ngủ ngoan đi
Con cóc kêu ở gầm chạn bát
Mèo con khều thức ăn trên chạn
Mặt trăng còn khuyết ở trên trời
Ta nằm nhìn thấy trăng ở xa
Gần đây, là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới được sáng tác rất nhiều. Những bài hát này thường không được ghi lại mà chỉ truyền miệng, hát cho nhau nghe, học nhau để hát. Nội dung của những bài hát này rất phong phú, dưới đây là một số bài hát tiêu biểu cho những sáng tác mới này:
YÊN BÁI ÊN ĐẢNG ÊN PÉ HỒ
Yên Bái ên Đảng sâu vuôn chính
Ên tú Pé Hồ chìu chiếu nhiền
Diếu tú chìu tuông chịn tìu mấy
Diếu tú nhiền màn chin mạn nìn
Nhiều man diết ấy chấy hang vìn
Háy chấu mài tìn mậu súi thái
Quốc ríu chàng làng khoi súi tài
Khoi tú tìn tậy lạng canh chuống
Vìa dang an puốn tịnh siêu sềnh
Tập vàng dạ mài ràng yiu chuống
Viàng kinh chố mẹ chuống mài dòi
Dùng húa senh tào dung pé dạng
Dang dạng hênh vạng quýa vui siêu
Túa mụa chuống tài dung mạn nhiều
Mại suốt chìu tuông mài chín sái
Quố chạng tỉnh chá diệm pun khuổi
Yên Bái hấy làng to pẹ mai
Sénh chình chinh súi quýa nin tàng
Lục on chiêu muồn chị pú pấy
Nhiền màn diết ấy chấy hang vìn
Xiên puộng sía muồn xiên cói viện
Trạn xá họ tòng chấy vuốn mài
Họ senh sâu vuồn hộ tú híu
Hô tài chính tú cún chiu tuồng
Tại lậu dạ mài chố tài tháo
Điệu lưới dòi tài gang quýa nìn
Hành mình hẵy hang cô lậu vin
Chẳng duốn hang vìn khéc tậy tuổng
Hang vìn pụ quối chìu tuông mấy
Quố chẳng dồng và chin mạn nin.
Dịch nghĩa:
YÊN BÁI ƠN ĐẢNG ƠN BÁC HỒ
Quê hương Yên Bái ơn Đảng
Ơn Bác Hồ kính yêu muôn vàn
Nhờ Đảng, nhờ Bác Hồ vĩ đại
Yên Bái chuyển mình nhanh chóng
Kinh tế ngày càng phát triển
Yên Bái gạo trắng nước trong
Ai mà đến đó thì không muốn về
Đất ngọc Lục Yên giàu đẹp
Với nhiều đá quý ngọc vàng
Toàn dân thống nhất một lòng
Xây dựng quê hương đất nước
Ngày càng giàu mạnh muôn phần
Cuộc sống nhân dân ngày càng no đủ
Bản làng đổi mới muôn màu
Nhà nước xây dựng cơ sở vật chất
Trạm xá, nhà trường được xây mới
Ngày càng khang trang sạch đẹp
Điện lưới được mắc đến từng nhà
Đường làng được bê tông hóa
Phương tiện giao thông đến tận làng
Thôn bản điện, đường, trường trạm
Ngày càng đầy đủ đẹp bền
Lòng vẫn nhớ quê hương yêu dấ
"Pá dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú, đó là những vần thơ dân gian được ghép với các tiết tấu, các giai điệu và sử dụng như những tác phẩm âm nhạc.
"Pá dung" phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, bênh vực người yếu, ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
"Pá dung" được lưu truyền lâu đời trong cộng đồng, có ý nghĩa trao truyền, giáo dục các thế hệ tộc người, ôn lại quá trình lịch sử tộc người, đề cao đạo lý, tình yêu con người, yêu thiên nhiên, cỏ cây hoa lá.
"Pá dung" thể hiện nghệ thuật dân ca, ngôn ngữ của tộc người. Nghệ thuật chuyển tải hiện thực đời sống xã hội vào thơ ca vô cùng đặc sắc, thể hiện trình độ văn học, ý nghĩa khái quát cao của tộc người.
Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Pá dung" xứng đáng được nghiên cứu và bảo tồn nhằm phát huy giá trị của nó trong cộng đồng cũng như tới các tộc người khác và bạn bè quốc tế.
(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)
Ban Biên tập Cổng TTĐT
6700 lượt xem
Cổng thông tin điện tử tỉnh - "Pá dung" là một hình thức nghệ thuật giải trí không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao. Đó là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình, ôn lại quá trình lịch sử, làm cho con người gần nhau hơn, củng cố tình đoàn kết cộng đồng. Người ta hát khi kết thúc một năm lao động vất vả, mệt nhọc, hát để lấy lại tinh thần bước vào một năm mới với mong ước sức khỏe, mọi điều may mắn, hạnh phúc. * Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái
I. Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái.
Người Dao là một trong 12 tộc người có dân số tương đối đông sinh sống ở Yên Bái, hiện nay có khoảng 64.000 người, chiếm 9,1% dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa – nơi tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Đồng bào sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên, chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên.
Người Dao ở Yên Bái có nhiều tên gọi khác nhau như: người Động, người Xá, người Mán, ... Người Dao tự gọi mình là “Kiềm miền” (tức là người ở rừng).
Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Để phân biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.
Các nhóm Dao cũng có sự khác nhau ít nhiều về tiếng nói song đều thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (nằm trong ngữ hệ Nam Á).
Hình thái kinh tế chủ yếu của người Dao ở Yên Bái là sản xuất nông nghiệp với hai loại hình: lúa nương và lúa nước. Trong đó lúa nước chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra, đồng bào còn trồng một số loại cây hoa màu như ngô, sắn, ... Rau của người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, các cây họ đậu, khoai, củ từ, dưa gang, .... Đặc biệt ở người Dao Yên Bái phát triển mạnh 2 loại cây công nghiệp đó là cây quế và cây chè. Ngoài cây lúa, hoa màu, quế và chè đồng bào còn có thu nhập thêm từ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà...
Người Dao có các nghề thủ công truyền thống phong phú, đa dạng và phát triển rất sớm, trong đó nổi bật là làm giấy dó, dệt vải, nhuộm chăn, in và thêu hoa văn trên vải, đan lát các đồ đựng bằng tre, nứa, giang, mây song, nghề rèn. Nghề rèn của đồng bào Dao cũng phát triển, chủ yếu là các nông cụ như: dao, cuốc, cào cỏ, lưỡi cày. Nghề làm đồ trang sức bằng bạc, sanh căng và bằng đồng làm thành vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn, xà tích.
Đồng bào Dao thường dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng bản riêng biệt hoặc xen cư với các tộc người khác. Ở người Dao Yên Bái hội tụ đầy đủ 3 loại hình nhà ở đó là: nhà sàn của nhóm Dao quần trắng, nhà đất của nhóm Dao Đỏ và nhà nửa sàn nửa đất của nhóm Dao Quần Chẹt và Dao Tuyển. Hiện nay, những gia đình người Dao có cuộc sống khá giả đã xây nhà theo kiểu mới.
Trang phục truyền thống của người Dao Yên Bái đặc sắc và nổi bật ở nghệ thuật trang trí trên quần áo với mô típ hoa văn cây cỏ, động vật, hình người, hình chim, kết chữ Hán được cách điệu rất sinh động. Trang phục đàn ông thường có hai loại: áo ngắn mặc hàng ngày và áo dài mặc trong lễ hội, lễ cấp sắc hay đám cưới. Trang phục nữ phong phú hơn với những trang trí hoa văn truyền thống, đầu đội khăn.
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản, thức ăn chính của người Dao là cơm tẻ, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ và các loại thảo mộc khác. Ngày nay, đồng bào đã trồng nhiều loại rau khác nhau ngay tại vườn nhà để phục vụ nhu cầu hàng ngày khi không vào rừng hái rau. Các loại gia súc, gia cầm được nuôi chủ yếu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình cũng như những tín ngưỡng dân gian của đồng bào. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam.
Các hoạt động sinh hoạt xã hội – gia đình của người Dao ở Yên Bái cũng rất phong phú và đa dạng. Các nhóm Dao đều thờ cúng tổ tiên và thờ Bàn Vương. Thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình. Bàn Vương được coi như thủy tổ của các dòng họ nên cũng cúng bái chung với tổ tiên. Cùng với phong tục cúng Bàn Vương thì người Dao còn có nghi thức “cấp sắc”. Đây là một tục lệ phổ biến và bắt buộc đối với tất cả đàn ông Dao. Một trong những nghi lễ rất quan trọng phải nhắc đến đó là "Tết nhảy” (Nhiàng chầm đao). Nghi lễ này nhằm mục đích cúng Bàn Vương và luyện binh tướng (âm binh) để bảo vệ cuộc sống và sinh hoạt gia đình.
Hôn nhân của người Dao Yên Bái có nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt truyền thống được thực hiện trong đám cưới đặc biệt là hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Đây là một nghi thức sinh hoạt truyền thống vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Tục cưới xin của người Dao phải trải qua nhiều nghi lễ khá phức tạp, mỗi nhóm có những nghi lễ riêng. Thường thì hôn lễ của người Dao được tiến hành qua các bước sau: nhà trai đến nhà gái xin so tuổi đôi nam nữ; nhà trai báo cho nhà gái biết kết quả so tuổi của đôi nam nữ; định ngày cưới và dâng lễ; lễ cưới và lại mặt. Người Dao thường có tục ở rể 3 năm, sau đó mới được ở riêng hoặc về nhà trai ở hẳn.
Tang ma là một trong những nghi lễ rất quan trọng của vòng đời người Dao phản ánh nhiều tục lệ từ xa xưa. Đồng bào Dao quan niệm rằng con người có phần hồn và phần xác, khi nào phần xác bị hại nặng quá thì người bị chết. Một đám tang của người Dao thường có các các nghi lễ sau: Lễ khâm niệm, lễ xôi gà và lập bàn thờ (lễ cấp thủy và dâng rượu, gia súc); lễ làm chay, lễ nhập quan yểm bùa, lễ đưa đám, lễ hạ huyệt và lễ cúng cơm. Hầu hết các nhóm người Dao ở Yên Bái không có tục cải táng người chết. Đồng bào rất kiêng kỵ việc dựng vợ gả chồng cho con hay làm nhà mới, trồng cấy, gieo hạt giống trùng với ngày mất của người thân. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình.
Người Dao Yên Bái đều có vốn thơ ca dân gian rất phong phú, đồng bào hát "Páo dung" (Pá dung, Pả dung) gợi nhớ lịch sử, xã hội tộc người, ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, thế giới động vật, ca ngợi sản xuất dưới nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và còn gắn vào những bài hát giáo lý, xã hội, gia đình. Người Dao có rất nhiều chuyện cổ tích kể về mọi hiện tượng xảy ra trong xã hội, thiên nhiên. Các câu chuyện đều mang tính giáo dục sâu sắc, anh em phải sống hòa thuận, yêu thương nhau.
Ngày nay truyền thống văn hóa dân gian luôn được bảo tồn, khai thác, phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh tộc người Dao cũng đang góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái ngày càng giàu đẹp hơn.
II. Khái quát về người Dao ở huyện Lục Yên.
1. Khái quát chung về huyện Lục Yên.
Huyện Lục Yên là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Yên Bái. Huyện Lục Yên nằm trên toạ độ địa lý: từ 21055’30’’ đến 22003’30’’ vĩ độ Bắc; từ 104030’ đến 104053’30’’ kinh độ Đông, Phía Bắc và phía Đông giáp huyện Hàm Yên (Tuyên Quang), huyện Quang Bình, huyện Bắc Quang (Hà Giang), phía Tây Bắc giáp huyện Bảo Yên (Lào Cai); phía Tây và phía Nam giáp huyện Văn Yên, huyện Yên Bình. Lục Yên nằm trong tiểu vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thích hợp với sự phát triển nông, lâm nghiệp. Theo thống kê năm 2008 thì tổng diện tích tự nhiên của huyện là 80.870 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp là 9.826,35 ha, đất lâm nghiệp là 59.417,33 ha còn lại là các loại đất khác. Toàn huyện có 23 xã và 1 thị trấn, bao gồm: An Lạc, An Phú, Động Quan, Lâm Thượng, Liễu Đô, Khai Trung, Khánh Hòa, Khánh Thiện, Mai Sơn, Minh Chuẩn, Minh Tiến, Minh Xuân, Mường Lai, Phan Thanh, Phúc Lợi, Tân Phượng, Tân Lập, Tân Lĩnh, Tô Mậu, Trúc Lâu, Trung Tâm, Vĩnh Lạc, Yên Thắng, thị trấn Yên Thế.
Dân số của toàn huyện Lục Yên năm 2008 là 105.104 người. Mật độ dân số bình quân là 1130 người/km2năm. Toàn huyện có 16 dân tộc anh em cùng chung sống gồm: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Mường, Thái, Cao Lan, Dáy, Ngái, Pa Cô, Pa Dí, Xá, Tu Dí, Lô Lô, Mông...
Địa hình của huyện bị chia cắt bởi 2 dãy núi chính chạy dọc theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, tạo ra các thung lũng, bồn địa bằng phẳng là nơi dân cư tập trung sản xuất và sinh sống từ lâu đời. Phía hữu ngạn sông Chảy là dãy núi Con Voi chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, có độ cao trung bình 300 – 400m, đỉnh cao nhất 1,148m, đỉnh tròn, sườn thoải, độ dốc trung bình 400. Phía tả ngạn sông Chảy là dãy núi đá lớn chạy dọc theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, đỉnh cao nhất 1.035m, có độ dốc lớn, đỉnh nhọn, sườn núi bị cắt xẻ. Vùng đất thấp bằng phẳng được xen kẽ giữa 2 dãy núi và triền sông Chảy đất đai phì nhiêu màu mỡ. Đất ở đây có thể phân ra thành hai hệ đất chính: đất phù xa do sông chảy bồi đắp và hệ đất Feralit phát triển trên nền địa chất đa dạng của địa hình đồi núi.Với địa hình và đất đai như trên rất thuận lợi cho phát triển cây lâm nghiệp, cây công nghiệp và nông nghiệp. Cùng với đó Lục yên còn có tài nguyên khoáng sản rất lớn với các loại khoáng sản quý hiếm như: phôtphorit, pirit, đá quý, đá bán quý, đá hoa trắng, đá xây dựng, than, sỏi, cát…
2. Người Dao ở huyện Lục Yên
Tính đến năm 2008 người Dao ở huyện Lục Yên là 15.240 người chiếm 14.5% dân số toàn huyện. Huyện Lục Yên hiện có 2 nhóm Dao chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản); Dao Quần Trắng. Phần lớn người Dao ở đây sống tập trung ở các xã Trung Tâm, Phúc Lợi, Trúc Lâu, Động Quan, Khánh Hòa, An Lạc, Khai Trung, Tân Phượng và rải rác ở Tô Mậu, Tân Lĩnh và Tân. Họ cư trú thành các bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Họ có hai loại hình cư trú phân tán và tập trung tương ứng với nhóm du canh hoặc định canh sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nguồn sống chính của họ là lúa nước và lúa nương, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, cây đặc sản. Nhìn chung đời sống của người Dao còn nhiều khó khăn. Người Dao ở đây vẫn còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc truyền thống như cấp sắc, đám cưới, tang ma, ...
III. Khái quát về người Dao Đỏ ở xã Trung Tâm, huyện Lục Yên.
1. Khái quát về xã Trung Tâm, huyện Lục Yên.
Xã Trung Tâm là một xã vùng 3 cửa ngõ phía Nam của huyện Lục Yên, nằm ở tọa độ địa lý là 21°58′19″B 104°45′6″Đ, phía Bắc giáp xã Phúc Lợi, phía Nam giáp xã Tân Nguyên ( huyện Yên Bình), phía Đông Nam giáp xã Phan Thanh, phía Tây nam giáp xã Ngòi A (huyện Văn Yên). Xã Trung Tâm cách thành phố Yên Bái hơn 40km về phía Bắc, nằm trên tuyến đường Quốc lộ 70 nối Hà Nội – Việt Trì – Yên Bái – Lào Cai.
Theo thống kê năm 1999, Xã Trung tâm có diện tích 4.228,5 ha trong đó có 62 hq ruộng lúa nước 2 vụ, dân số là 3.135 người, mật độ dân số đạt 75 người/km². Đây là nơi tập trung sinh sống của rất nhiều anh em dân tộc, chủ yếu là dân tộc Dao, Kinh, Tày, Nùng.... Xã Trung Tâm hiện nay có 13 thôn là: Thôn Làng Thìu, Thôn Làng Đát, Thôn Lũng Cọ, Thôn Khe Lạnh, Thôn Khe Vầu, Thôn Khe Hùm, Thôn Sài Trên, Thôn Sài dưới, Thôn Sài Lớn, Thôn Sâm Trên, Thôn Sâm Dưới, Thôn Ngòi Thìu, Thôn Vạn Thìu.
Xã Trung Tâm có điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nên sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của xã Trung Tâm. Đồng bào ở đây thường trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn, khoai sọ... và trồng các loại cây công nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao như keo, bồ đề mỡ.
Điều kiện xã hội xã Trung Tâm đang ngày một thay đổi, đời sống của nhân dân ngày một được cải thiện và nâng cao, GDP đầu người tăng, tình hình an ninh chính trị ổn định, cơ sở hạ tầng đang từng bước được đầu tư hoàn thiện và khang trang.
2. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội của người Dao xã Trung Tâm, huyện Lục Yên.
Lịch sử di cư của người Dao ở Trung Tâm, huyện Lục Yên.
Theo khảo sát ở những địa phương có người Dao sinh sống thì người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17), với hai hướng chính là đường bộ và đường biển. Người Dao di cư vào Việt Nam theo nhiều đợt sớm nhất từ thế kỷ XIII, các nhóm Dao ở tỉnh Yên Bái chủ yếu di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng sang.
Ở xã Trung Tâm tộc Dao có 2465 khẩu chiếm 70 % dân số toàn xã. Họ thường sống thành bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Nguồn sống chính của người Dao ở Trung Tâm là trồng lúa nước, lúa nương, các loại hoa mầu thiết yếu phục vụ cho cuộc sống như khoai sọ, vừng, bí, rau, đậu. Những năm gần đây, người Dao ở xã Trung Tâm rất phát triển chăn nuôi bò, lợn, gà ... Ngoài ra, còn phát triển trồng cây ăn quả, cây đặc sản .... Ở đây còn có các nghề thủ công như đan lát, rèn đúc, nghề dệt nhưng những nghề này chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp của các gia đình.
Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Dao ở Trung Tâm.
Trung Tâm là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Dao Đỏ, vậy nên nhà đất là loại hình nhà ở chủ yếu của đồng bào. Đó là loại nhà hình chữ nhật, nhà thường được xây dựng 2 gian, 2 cháI, cột bằng các loại gỗ chắc ít mối, mọt lợp bằng cọ vách nhà thường làm bằng các tấm dát vầu, hốc gắn kết bằng các thanh ngang, bộ sườn nhà được chế tạo khá đơn giản. Nguyên vật liệu làm nhà thường kiếm ngay tại chỗ, chủ yếu là cây rừng. Phần gian nhà bên phải dành đặt giường ngủ của khách, buồng ngủ của chủ nhà đặt ở phía bên phải bàn thờ, giường ngủ của con trai thường đặt sau giường của khách, còn phòng ngủ của con gái thường đặt phía trong gần bếp. Bàn thờ được đặt ở gian giữa, nhà thường có hai bếp (một bếp ở gian ngoài để sưởi ấm vào mùa đông dành cho đàn ông và khi có khách đến). Nhà của người Dao thường được bố trí: bếp là nơi tập trung của cả gia đình vào mùa đông, là nơi rộng nhất trong nhà. Nhà ở của người Dao có ít cửa ra vào, đặc biệt là ít của sổ, đa số chỉ có một cửa sổ đặt ở giường nằm ngủ. Đây là loại nhà tổng hợp bếp, chuồng gia súc, các công cụ sản xuất và sinh hoạt đều thuộc phạm vi nhà ở.
Trang phục của người Dao đỏ: Trong các nhóm Dao thì trang phục của người dao Đỏ thường được làm cầu kỳ và sử dụng nhiều màu sắc hơn cả. Đối với trang phục nam giới không có gì khác biệt lắm so với trang phục nam giới trong các ngành Dao. Đàn ông Dao đỏ thường đội mũ nồi hoặc vấn khăn dài, áo chàm được may theo lối cổ khoanh bí, áo dài gần trùm mông, vạt áo may thẳng có cài khuy lộn dọc từ ngực xuống bụng, sau lưng áo có miếng vải hoa văn hình bùa chú. Quần của đàn ông là quần thụng vải đen, may kiểu chân què bổ đũng dài gần chạm cổ chân và cạp quần luồn dây rút bằng sợi vải hoặc sợi gai. Trang phục của nữ giới Dao Đỏ được tạo điểm nhấn bằng những gam màu đỏ của vải hoặc sợi trên nền vải đen và thường được may công phu hơn, gồm có các bộ phận: khăn, áo, thắt lưng, quần, xà cạp cùng đồ trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay….. Để tạo thành bộ y phục đẹp phải có vải đen làm nền để thêu hoa văn, chỉ thêu gồm 5 màu cơ bản: đỏ, trắng, đen, xanh, vàng, nhưng chủ yêu là màu đỏ. Người Dao đỏ thích dùng mầu đỏ tươi rực rỡ để trang trí: khăn đỏ, ngực áo, cổ áo đỏ, khăn đỏ, tua đỏ, yếm đỏ, nẹp ngực áo đỏ, yếm lưng đỏ...
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản thức ăn chính của người Dao là lúa nước và lúa nương, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ, các loại rau trồng trong vườn nhà và các loại thảo mộc khác. Cùng với đó là các thức ăn từ gia súc gia cầm. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam. Người Dao rất thích ăn ớt, gừng, riềng, lá sả, hạt dổi, lá chanh, các thứ rau thơm và các thứ nước chua. Hàng ngày đồng bào uống nước chè, nước vối, nước từ các loại cây thuốc... Người Dao cũng uống các loại rượu cất từ gạo, ngô, khoai, sắn và các loại cây có bột như: báng, móc. Men rượu đều chế biến bằng các thứ lá và rễ cây rừng.
Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Dao ở Trung Tâm.
Tiếng nói - chữ viết: Tiếng Dao nói chung và Dao Đỏ nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, nằm trong ngữ hệ Nam Á
Chữ viết của người Dao còn trong một số tài liệu lưu giữ được là chữ Hán và chữ Nôm Dao.
Một số nghi lễ truyền thống
+ Lễ Cấp Sắc: Đây là một nghi lễ truyền thống độc đáo có tính lịch sử lâu đời trong đời sống sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao công nhận sự trưởng thành cả về vật chất lẫn tinh thần của người đàn ông. Theo quan niệm của người Dao thì cấp sắc là để được thánh thần công nhận, được âm binh và có thể làm nghề cúng bái. Nghi lễ của lễ cấp sắc rất mở, có thể là một, hay nhiều cá nhân của một gia đình, dòng họ hay cả một tập thể của nhiều gia đình, nhiều dòng họ, nhiều bàn làng khác nhau tổ chức. Lễ cấp sắc có rất nhiều bậc, bậc đầu tiên họ được cấp 3 đèn và 36 binh mã, bậc hai được cấp 7 đèn và 72 binh mã, bậc ba được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Lễ cấp sắc 3 đèn và 7 đèn được tổ chức thường xuyên trong cộng đồng tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện của các gia đình, dòng họ. Riêng nghi lễ cấp sắc 12 đèn có quy mô lớn hơn hai nghi lễ trên nên phải hai, ba mươi năm mới có một lần. Nội dung chính của lễ cấp sắc tiến hành theo trình tự sau: lễ lên đèn, lễ ban mũ thầy cúng, Lễ trình diện Ngọc hoàng, Lễ cấp tinh, Lễ hạ đèn và giao quân, lễ qua cầu, lễ đặt tên. Các nghi thức trong lễ cấp sắc đều nhằm mục đích hướng thiện, giúp con người trưởng thành hơn, đạo đức hơn, sống tốt hơn và quan trọng là những lời giáo huấn này được thực hiện bằng những lời thề trước sự giám sát của tổ tiên và nhiều quan binh nên càng làm tăng tính giáo dục. Đây là một nghi lễ giao tiếp có tính kế thừa, kết nối các giá trị văn hóa giữa các thế hệ chứa đựng nhiều thành tố quan trọng của bản sắc văn hóa Dao. Đồng thời lễ cấp sắc cũng là dịp để cộng đồng cùng thưởng thức các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhảy múa hết sức hấp dẫn. Các điệu múa trong lễ cấp sắc rất đặc sắc. Múa ở đây có sự đan xen hòa quyện giữa yếu tố lao động trần thế và tôn giáo thể hiện sự giao hòa giữa hai thế giới, điệu múa đặc trưng, đặc sắc, vui nhộn nhất là Múa Rùa. Múa Rùa diễn ra trong không khí vui tươi, những động tác múa nhịp nhàng, khỏe khoắn của các chàng trai miêu tả lại việc đuổi rùa, tìm rùa, bắt rùa, giết rùa. Múa Rùa là một nét đẹp, thể hiện tính phồn thực và mối giao hòa trong cộng đồng dân tộc.
+ Tết nhảy: Đây là tết riêng của mỗi gia đình, cũng mang tính dòng họ. Tết này này nhằm mục đích luyện âm binh cho bộ tranh Đại đường để thờ phụng các thần linh, bảo vệ cuộc sống gia đình. Vì vậy nó mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo rất rõ rệt. Tết nhảy được tiến hành vào tháng chạp, năm nào cũng tổ chức nghi lễ này cứ ba năm làm thành một chu kỳ. Chỉ có gia đình nào có bàn thờ tổ và đã sắm tranh Đại đường thì mới có tết nhảy. Tết nhảy đòi hỏi một quá trình chuẩn bị khá lâu, phải nấu rượu, nuôi lợn, thanh niên luyện tập các điệu múa, chuẩn bị dao, gươm bằng gỗ.
Quá trình của tết nhảy trải qua các bước sau: lập đàn tẩy uế, làm lễ khấn các thần thánh. Nội dung chính của nghi lễ là nhảy múa và khấn tụng được tổ chức liên tục trong suốt những ngày đêm làm tết. Mỗi người múa tay đều cầm cờ, trống chiêng, sập sèng... múa theo điệu quay vòng. Rồi sau đó là nhiều điệu múa truyền thống được trình diễn như: múa kiếm, múa dạo (lạp miên a dạo), múa nhảy rùa (Pẻo tộ)... Tất cả những động tác của các điệu múa này đều được thực hiện một cách liên tục với sự khéo léo và tinh tế của người trình diễn. Những điệu múa, lời hát trong Tết nhảy thường hướng đến những điều tốt lành, hạnh phúc. Lễ "nhìang chầm đao" chủ yếu phục vụ cho tôn giáo tín ngưỡng, nhưng ít nhiều có mầu sắc văn nghệ, toát lên ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao sống đoàn kết, thủy chung, tình nghĩa.
Một số lễ tết khác của tộc người trong năm:
+ Tết Nguyên Đán: Khác với dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa dân tộc mình. Với người Dao cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Đồng bào Dao đón tết đơn giản nhưng lễ nghi lại cầu kỳ và độc đáo. Với người Dao, tết nguyên Đán là mở đầu cho một năm mới đã bận rộn chuẩn bị từ 27, 28 tháng chạp. Từ 27/12 nhân dân đã chuẩn bị mọi thứ cho việc đón tết như: gạo, bột, lá gai, củi, rau, bò, lợn, trang trí nhà của và đặc biệt sắp đặt quần áo.
Ngày 30 tết nhà nào cũng phải nấu một nồi nước thơm thật to để ai cũng phải tắm. Theo quan niệm của người Dao thì tất cả mọi người phải tắm rửa sạch sẽ để rũ bỏ mọi xấu xa, bẩn thỉu của năm cũ bước vào năm mới sạch sẽ, trong lành. Chiều 30 tết nhà nào cũng lập đàn cúng để mời gia tiên và các thần linh về ăn tết với con cháu. Bao giờ cũng vậy tối 30 tết mọi người trong gia đình quây quần bên nồi bánh trưng để trò truyện về năm đã qua. Các thứ bánh được người Dao cúng trong ngày tết ngoài bánh trưng còn có các thứ bánh khác như bánh dầy, bánh gai, bánh bột nếp....Cũng giống người kinh trên bàn thờ của mỗi gia đình người Dao có thêm cành đào, trong chén lúc nào cũng có rượi và nước, hương được đốt liên tục. Ngoài ra người Dao còn quan niệm kiêng không mở hòm trong 3 ngày tết nên phải lấy sẵn quần áo và đồ dùng trước giao thừa. Trong 3 ngày tết cũng không được san sẻ hay cho ai bất cứ thứ gì. Đêm giao thừa người Dao có tục thay nước đầu năm mới trên bàn thờ. Từ đêm giao thừa đến mùng một, họ kiêng không ăn rau chỉ ăn cơm, các loại bánh và thịt động vật. Sau khi cúng giao thừa song mọi người trong gia đình quây quần vui vẻ, ăn uống, ca hát và chúc tụng nhau những lời chúc tốt lành cho năm mới. Sáng mùng một sau khi song xuôi mọi thủ tục ở gia đình, mỗi nhà một người nam giới mặc trang phục truyền thống tạo thành một đoàn đi chúc tết tất cả các nhà.Tết cũng là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi hội ngày xuân.
+ Tết cùng năm: Đây là tết của gia đình, dòng họ. Dòng họ nào cũng tổ chức tết này vào tháng 12 âm lịch, nhưng tập chung nhất vào các ngày 15 đến 25 tết. Các gia đình luân phiên nhau tổ chức tết, luân phiên mời nhau.Mục đích của tết này trước là để lập đàn cúng tạ ơn gia tiên, các thần linh đã phù hộ cho gia cho, dòng tộc một năm may mắn thành công... Sau là ngày xum họp của anh em ruột thịt, họ tộc, bạn bè thân thiết để trò chuyện thông báo cho nhau về một năm qua. Lễ vật chuẩn bị cho tết năm cùng khá đầy đủ với thịt lợn, gà, bánh dầy. Bánh dầy là một trong những lễ vật không thể thiếu được trong tết năm cùng.
+ Tết cơm mới: Đây là một trong những lễ cúng quan trọng của mỗi gia đình Dao được tổ chức tại nhà.Cúng cơm mới là để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tốt tươi, lúa ngô có thể thu hoạch được. Lễ cúng được tổ chức trong nhà. Khi lúa sắp được thu hoạch, người ta chọn ngày tốt, gặt lấy ít thóc đầu mùa đem phơi khô, lấy gạo nấu cơm cúng. Nếu lúa chưa chín họ lấy gạo cũ về thổi cơm, ngắt lấy vài bông bỏ vào nồi cơm để có hương vị cơm mới và coi đó là cơm mới. Đàn cúng gồm: 5 bát cơm, 5 chén rượi, 1 chén nước, 1con gà luộc, một ít tiền ma, một bát hương. Chủ nhà đứng trang nghiêm trước bà thờ kế công ơn cử tổ tiên và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ mãi mãi về sau để công việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Sau lễ này, đồng bào chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để thu hoạch lúa mới.
Các tập quán theo chu kỳ đời người
+ Sinh đẻ: Người Dao đẻ ngồi và đẻ ngay trong buồng ngủ, không được đẻ ở nơi khác, do mẹ chồng, mẹ đẻ hoặc chồng đỡ cho. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế mới bế lên, tắm rửa bằng nước nóng. Người ta cắt rốn bằng dao nứa. Ngay từ khi đẻ sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng và rượi. Trẻ sinh được ba ngày thì gia đình lập giàn cúng mụ gọi là làm lễ "nam khan". Sau khi sinh khoảng từ 3 đến 7 ngày, họ chọn ngày tốt để làm lễ để đặt tên cho trẻ. Tên của bé cũng được chọn rất kỹ, không được trùng với tên của gia tiên, ông bà, chú bác, anh em nội ngoại gần xa. Người Dao Đỏ thường đặt tên con đầu là: Cấu, San, Lộ... Con trai út lại thường đặt tên là: Lai, Lĩu...
+ Cưới hỏi: Lễ cưới của người Dao Đỏ có nhiều nét đọc đáo, trước ngày cưới khoảng một năm bên nhà trai phải trao các khoản thách cưới bằng tiền để cô dâu chuẩn bị cho ngày cưới. Suốt thời gian một năm ấy, cô gái phải dành thời gian để thiêu thùa, sắm sửa trang phục, chuẩn bị của hồi môn.Đến ngày cưới nhà trai cử người đến đón dâu, tùy theo giờ tốt, người ta đưa cô dâu vào nhà chồng theo các hướng theo quy định. Khi ăn cỗ, họ nhà trai ngồi riêng, nhà gái ngồi riêng. Người Dao Đỏ còn có tục bất kỳ ai trong họ nhà trai cũng như nhà gái đến dự đám cưới đều có phần thịt, bánh mang về.
+ Tang ma: Ngay sau khi người chết tắt thở, người ta bắn ba phát súng, nếu là người trưởng tộc hoặc được cấp sắc 7 đèn trở lên thì chọc thủng nóc nhà bắn chỉ thiên báo cho Ngọc Hoàng và báo cho dân làng biết. Đám ma cử người Dao Đỏ cũng tiến hành tất cả các thủ tục như các nhóm Dao khác. Mồ mả người chết được chôn vĩnh viễn. Đồng bào quan niệm đám ma chỉ là bước đem người chết đi cất giấu để không cho ma xấu bắt hồn và làm nhục thể xác.
+ Làm nhà mới: Việc làm nhà mới với người Dao Đỏ là rất quan trọng. Việc chọn địa điểm làm nhà là quan trọng hơn cả. Đồng bào thường làm ở nơi khuất gió, cao ráo, gần khe suối, gần ruộng nương thuận tiện cho việc lấy củi, hái rau.Nghi lễ chon đất cũng rất được coi trọng, đồng bào quan niệm nếu gặp được điền lành khi chọn đất làm nhà thì sẽ gặp nhiều may mắn làm ăn gặp nhiều thuận lợi. Sau khi dựng nhà song, theo giờ tốt đã chọn, đồng bào sẽ làm lễ vào nhà mới như sau: một cụ già cầm đuốc đi trước, theo sau là chủ nhà và những người trong gia đình đem theo bàn thờ tổ tiên và một số đồ vật tượng trưng. Sau đó họ làm cơm để kính báo và mời tổ tiên về nhà mới cùng con cháu.
Một số tín ngưỡng thờ cúng dân gian
+ Thờ cúng tổ tiên:
Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình đồng bào người Dao, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ.
Theo quan niệm của người Dao tổ tiên là loại ma lành phù hộ con cháu, tuy nhiên nếu không thờ cúng cận thận tổ tiên cũng có thể bắt tội làm con cháu ốm đau bệnh tật. Thường người Dao thờ tổ tiên chín đời. Điều này thể hiện rõ trong các nghi lễ lớn như cấp sắc, tảo mộ hoặc trong các dịp tết của gia đình.
Việc lập bàn thờ tổ phải tuân thủ theo quy định rất nghiêm ngặt. Bởi vậy nó thể hiện bề dày truyền thống gia đình và cũng là niềm tự hào của truyền thống gia đình. Bàn thờ tổ luôn được đặt ở gian giữa nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đằng trước hay bên cạnh bàn thờ người ta treo một cái trống bằng dây thừng hay da thú, dây này buộc lên thượng lương của nhà. Ngay trên vách cạnh bàn thờ người ta treo hai ống nứa hay hai túi vải đựng hai bộ tranh "Tam thanh lớn" và "Tam thanh nhỏ". Vì bàn thờ tổ là nơi tôn nghiêm nên phụ nữ đặc biệt là các cô dâu ít được gần nhà thờ, đặc biệt là không bao giờ được thắp hương hoặc bê lễ vật lên bàn thờ cúng. Ngay từ khi quét nhà người ta luôn luôn chú ý quay mặt về phía bàn thờ mà quét quay lui trở ra, quay lưng về phía bàn thờ bị coi như là một thái độ thiếu tôn kính đối với tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên thường là do chủ gia đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Nếu nhà không có đàn ông thì đến ngày lễ tết, đốt hương ở phen thờ, cúng lễ cũng phải nhờ đàn ông khác trong họ đến cúng.
+ Thờ cúng Bàn vương "Chẩu đàng"
Thờ cúng Bàn vương là một tục lệ khá điển hình trong sinh hoạt của người Dao. Bàn Vương được đồng bào coi là thủy tổ của dòng họ nên việc thờ cúng Bàn Vương được người Dao coi như một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả dân tộc. Thường ngày, Bàn Vương được thờ cúng chung với tổ tiên của từng gia đình, từng họ. Trong các nghi lễ lớn lễ cấp sắc, tết nhảy... đều phải cúng Bàn Vương. Ngoài việc cúng Bàn Vương hàng ngày còn có những lễ cúng bàn vương riêng với các nghi lẽ chính sau: Lễ khuất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.Việc thờ cúng Bàn Vương không phải chỉ là sự chung thủy uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn của tổ tiên, mà còn là yếu tố văn hóa quan trọng được lưu truyền qua nhiều thế hệ của người Dao.
Văn học dân gian
Dân tộc Dao vốn có một lịch sử và một nền văn hóa lâu đời, một nền văn học nghệ thuật và những tri thức dân gian rất phong phú, phản ánh lên cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ của người Dao. Trong các sáng tác dân gian của dân tộc Dao, văn học dân gian (Truyện cổ, thơ ca, câu đố, Hát, Múa, Tực ngữ, Vẽ...) chiếm phần lớn. Dân tộc Dao không có văn tự riêng nhưng họ sử dụng chữ Hán đã Dao hóa. Cùng với các tác phẩm truyền miệng còn có các tác phẩm khuyết danh bằng chữ nôm Dao. Các sáng tác bằng truyền miệng được diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân nên phong phú và khá phổ biến. Nội dung của văn học dân gian chủ yếu đề cập đến nguồn gốc của dân tộc Dao, ca ngợi thiên nhiên, tình yêu trai gái,đề cao lao động, kinh nghiệm cuộc sống.
Tri thức dân gian
+ Cách tính thời gian dân gian: Đối với người Dao, việc tính tớn thời gian rất quan trọng và phải tiến hành thường xuyên để biết thời vụ sản xuất, biết ngày tốt, ngày xấu, ngày cho phép khởi điểm các công việc có tính chất đặt nền móng, biết được những ngày kiêng kỵ không đi làm nương. Song đồng bào không có hệ thống lịch riêng mà chỉ dựa hoàn toàn theo cách tính lịch Trung Quốc. Cách tính tháng hoặc năm, người ta dựa vào chu kỳ mặt trăng như cách tính thời gian theo lịch âm của người Việt, cũng theo lục giáp (10 can, 12 chi) và gọi tên theo tên 12 con vật.
+ Cách phán đoán thời tiết, khí hậu: Đồng bào Dao có một số kinh nghiệm phán đoán thời tiết, khí hậu để sản xuất cho kịp thời vụ. Những kinh nghiệm đó đã được đúc kết, tích lũy từ lâu đời trên cơ sở nhận xét sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên như: khi thấy " xâu kỉa piáo" (kiến dọn tổ) thì báo hiệu trời sắp mưa, nếu kiến ở bờ suối dọn tổ thì sắp có nước lũ. Hoa " xấu dòng phăng" (rau muống rừng) nở đỏ rực, báo hiệu không lo rét trở lại, cấy lúa sớm......
+ Y học dân gian: dân tộc Dao đã tích lũy được nhiều vốn y học cổ truyền quý giá. Các vị thuốc chủ yếu hái lượm ở rừng, ít khi trồng sẵn. Có loại lấy rễ, có loại lấy lá hoặc vỏ, cũng có loại lấy quả hoặc hoa .... Có vị thuốc sắc uống để chữa bệnh đường ruột, đau xương ...; có vị giã nhỏ để rịt hoặc bó hư chữa gẫy xương, vết thương nhỏ... ; có vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa như các bệnh ngứa, lở loét, phù thũng... Nhìn chung có thể chia làm ba loại thuốc chính: thuốc bổ, thuốc trị bệnh và thuốc độc giết hại thú rừng.
* Nghệ thuật "Pá Dung" của người Dao
I. Sơ lược về hát "Pá dung" của người Dao.
"Pá dung" (hay còn gọi là "Páo dung" hay "Pả dung") là một lối hát trên cơ sở giai điệu, tiết tấu có sẵn, nội dung vô cùng phông phú. Đây là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của cộng đồng Dao từ xưa đến nay. Đồng bào quan niệm "Có sừng dài mới đi vào được làng" (mài chong đáo chính pịa tú lảng), nghĩa là phải biết hát và hát đối giỏi mới được vào làng. Theo thông lệ của đồng bào, đã là khách muốn vào làng phải biết hát. Do vậy, người Dao nói chung, ai cũng có nguyện vọng là muốn hát và hát giỏi.
"Pá dung" là hát nói chung phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt, có thể kể về quá trình lịch sử - xã hội của tộc người như: "Người Dao vượt biển" (Phìu dìu khói dung), muốn hát "người Dao vượt biển" đòi hỏi phải thuộc mới được hát. Có thể người này thay người kia hát nhưng phải tiếp nối nhau cho trọn bài vì đồng bào quan niệm nếu dừng lại giữa chừng thì quá trình vượt biển của tộc người không đến nơi đến chốn, lênh đênh, lưu lạc ngoài biển cả. Khi không thuộc một đoạn nào đó thì phải có người nhắc hoặc phải có sách để xem.
Hát trai gái chưa vợ chưa chồng (Pá dung tòi tồm dòi lủng) hát ca ngợi tình yêu đôi lứa, hát đối đáp, giao duyên. Trai gái có thể hát mấy đêm liền. Họ hát để tỏ tình yêu đương với nhau. Khi hát thường có các cụ già giúp đỡ đặt lời ví đối khẩu.
Hát những người có vợ có chồng (Mài piáo tồm tòi pá dung). Những cuộc hát này có mục đích chính là thưởng thức tài văn nghệ của nhau nên nội dung các bài hát chủ yếu ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, hỏi thăm sức khỏe, thăm công việc đồng áng, thăm gia đình con cháu của nhau. Họ không hát tỏ tình như trai gái chưa vợ chưa chồng nên thời gian hát ngắn hơn, thường chỉ một vài giờ là kết thúc.
Hát uống rượu (Pá dung hốp tiu): khi uống rượu vui vẻ thì đồng bào hát với nhau. Nội dung bài hát thường phù hợp với ý nghĩa của tiệc rượu. Ví như trong đám cưới, người ta hát những bài khuyên nhủ vợ chồng làm ăn hòa thuận, đông con nhiều cháu; trong tiệc rượu mừng nhà mới, người ta hát những bài chúc sức khỏe, sản xuất tốt, làm ăn gặp nhiều may mắn, ... Trong tiệc rượu, ai muốn hát cũng được, không phân biệt trai gái, không phân biệt tuổi tác.
Hát ru (Háo ton dung). Làn điệu hát ru rất nhẹ nhàng, êm dịu, bay bổng. Loại hát này thường được mở đầu và kết thúc bằng câu "Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng" (Ối a, ngủ ngon, ngủ ngoan con nhé). Khi ru, các bà, các chị thêm vào những câu hát dành riêng cho trẻ em, kể về những câu chuyện của trẻ em.
Hát có thể phản ánh một phần thực trạng xã hội tộc người trong lịch sử như "Người làm dâu" (Nhỉ nhàng dung), hát mời rượu, hát mừng cô dâu chú rể, hát ca ngợi sản xuất, hát hỏi thăm, hát chúc mừng năm mới, hát giữ khách, hát khuyên răn, gần đây là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới. Phần lớn các bài hát đều do người hát tự sáng tác tùy theo khả năng của mình. Do vậy, đề tài rất đa dạng nhưng có đặc điểm là không được ghi chép để truyền tụng từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, cũng có nhiều bài hát với các thể loại khác nhau được ghi chép bằng chữ Nôm Dao được phổ biến trong cộng đồng. Đó là các bài hát với các chủ đề: hát chào (chíp khé dung), hát tiễn đưa (phúng khé dung), hát mời rượu (hốp tiu dung), hát tình yêu (phây quyển dung), ... cũng không ít thơ ca được ghi thành truyện thơ dài như bài ca vượt biển (chúa khói dung), truyện thơ Lương Sơn Bá -Chúc Anh Đài (inh tòi dung), ... Những bài hát cổ ghi trong sách phổ biến là thể loại 7 từ (thất ngôn), có thể là khổ 4, khổ 8, 12 hoặc trường thiên. Những sáng tác mới mang tính tự do về ngôn từ hơn. Thơ và ca gắn liền với nhau. Thơ là lời của bài ca, vậy nên muốn có nhiều bài ca thì đồng bào phải sáng tác nhiều bài thơ.
"Pá dung" không chỉ hát vào dịp đầu xuân hay khi có lễ hội, có các cuộc vui mà người ta hát bất cứ khi nào cảm thấy thích hát, muốn hát như trên đường đi nương, đi ruộng, khi cắt lúa, khi gặp nhau trên đường, khi khách tới chơi nhà, khi mời khách, giữ khách, tiễn khách, ... nhưng nhiều nhất là các dịp trai gái đến chơi làng, hát trong đám cưới, hát vào nhà mới hay những ngày hội làng, hội bản.
Ở người Dao, từ trẻ đến già hầu hết đều biết hát và sáng tác thơ ca. Hát "Pá dung" là loại hình nghệ thuật thu hút sự tham gia của mọi đối tượng trong cộng đồng, nam có, nữ có, thanh niên có, trung niên có, cao niên cũng có. Trong những cuộc vui lớn thì số lượng người hát cũng như độ tuổi tham gia hát đều không hạn chế. Mỗi đối tượng hát những thể loại khác nhau phù hợp với tuổi tác, tâm tư, tình cảm của mình: thanh niên thì hát giao duyên, trao đổi tâm tình, hẹn hò, kết bạn. Người trung tuổi thì hỏi thăm nhau sức khỏe, gia đình, anh em, chuyện làm ăn, chuyện con cái. Người già thì ôn lại chuyện xưa, kể chuyện con cháu.
"Pá dung" là một hình thức nghệ thuật giải trí không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao. Đó là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình, ôn lại quá trình lịch sử, làm cho con người gần nhau hơn, củng cố tình đoàn kết cộng đồng. Người ta hát khi kết thúc một năm lao động vất vả, mệt nhọc, hát để lấy lại tinh thần bước vào một năm mới với mong ước sức khỏe, mọi điều may mắn, hạnh phúc. Trai gái hát để tâm tình, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau. Người già hát để kể cho con cháu nghe về lịch sử di cư của tộc người mình. Bạn bè hát để chúc nhau hạnh phúc trong ngày cưới, hát để mời nhau chén rượu mừng, hát để hỏi thăm nhau, chia sẻ cùng nhau, ...
II. Giá trị của hát "Pá dung".
Có thể nói "Pá dung" là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao nói chung cũng như người Dao Yên Bái nói riêng. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Pá dung" mang trong mình những giá trị bền vững không thể phủ nhận.
Giá trị nghệ thuật thể hiện trong ca từ, thể hiện sự sáng tạo của cộng đồng trong việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thi ca, những giai điệu, tiết tấu của "Pá dung" cũng thể hiện sức sáng tạo độc đáo, mang bản sắc riêng của tộc người.
Giá trị lịch sử thể hiện rõ nét trong những lời ca kể về lịch sử di cư của tộc người hay những lời ca than thân, trách phận, thể hiện sự đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, thể hiện sự khao khát tự do, mong ước về một tình yêu vĩnh cửu của những đôi trai gái yêu nhau. Đó là những giá trị hiện thực đã từng tồn tại trong lịch sử xã hội tộc người được phản ánh trong thơ ca mà chúng ta cần khai thác và tìm hiểu.
"Pá dung" còn thể hiện rất rõ giá trị văn hóa của tộc người. Từ lời hát, cách hát, giai điệu, tiết tấu, âm nhạc đến nội dung đều thể hiện những nét văn hóa riêng, độc đáo của tộc người.
Giá trị giáo dục cũng được thể hiện rất rõ trong "Pá dung". "Pá dung" khuyên người ta chăm lao động, hướng tới cái thiện, không làm việc xấu, ghi nhớ công ơn mẹ cha, chăm chỉ học hành, vinh danh đỗ đạt, sống tốt với cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người.
III. Đặc điểm của hát "Pá dung".
"Pá dung" (hay còn gọi là "Páo dung" hay "Pả dung") là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao. Lối hát dựa trên cơ sở giai điệu, tiết tấu có sẵn, làn điệu bay bổng, nhịp hát rõ ràng, dễ hát đồng thanh.
Trong "Pá dung", đồng bào chia ra ba hình thức hát. Thứ nhất là hát hát (Pá dung); thứ hai là đọc hát (Tộ dung); thứ ba là nói hát. Trong ba hình thức này, đồng bào chủ yếu chỉ sử dụng hai hình thức hát "Pá dung" và "Tộ dung". Khi "Pá dung" mà người hát cảm thấy mệt, người ta tự chuyển sang "Tộ dung" để đỡ mất nhiều hơi hơn mà không ảnh hưởng gì đến lời hát. Chính bởi thế, cùng một nội dung bài hát nào đó, người ta vừa có thể "Pá dung" vừa có thể "Tộ dung”.
Hát "Pá dung" có thể hát đơn hoặc hát đối đáp, trong đó hát đối đáp được sử dụng rộng rãi hơn. Trong hát giao duyên nam nữ, những người cùng tông tộc không hát với nhau bởi ngoài việc thi tài, trai gái còn hát để làm quen, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau.
Đồng bào Dao có phong tục nam nữ cùng làng không tổ chức hát với nhau mà chỉ hát với những người ở làng khác. Việc tổ chức ca hát rất đơn giản có thể được hát ở bất cứ nơi nào, có thể tại nhà, tại một khu đất rộng trong những lễ hội đầu xuân, tại đám cưới, tại những đêm trăng giao lưu, tại ruộng, tại nương hay ngay cả trên đường đi.
Nội dung nhằm ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, yêu thế giới động vật, yêu lao động sản xuất, yêu quê hương, đất nước hay ôn lại quá trình lịch sử - xã hội tộc người.
IV. Đặc điểm của “Pá dung” xã Trung Tâm.
Ở Yên Bái, có khá đông người Dao Đỏ sinh sống trên nhiều địa bàn khác nhau nhưng mỗi vùng có những nét văn hóa riêng, đặc sắc. Nghệ thuật hát “Pá dung” cũng vậy.
Xét về nội dung các bài hát thì cơ bản là giống nhau, đặc biệt là các bài hát cổ như: người Dao vượt biển, khúc hát người làm dâu, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, hát mừng đám cưới, hát mời uống rượu, … Những bài hát mới sau này ca ngợi vùng đất và con người bản địa (bài “Đêm trăng nhớ Bác” rất phổ biến ở vùng quế Đại Sơn, Viễn Sơn của huyện Văn Yên nhưng không có ở các vùng khác) và một số bài cúng liên quan đến vùng đất của cộng đồng (bài hát “cúng tổ tiên” của người Dao vùng sông Chảy được đồng bào sử dụng rất phổ biến trong vùng nhưng lại không hát ở những vùng khác, …), được các cộng đồng lưu giữ và đó cũng là nét văn hóa riêng ở mỗi vùng người Dao Đỏ sinh sống mà trong quá trình nghiên cứu chúng tôi ghi nhận được.
Về hình thức hát có thể nhận thấy: nếu như cộng đồng người Dao sống ở hữu ngạn sông Hồng (như vùng Đại Sơn, Viễn Sơn, …) thường gọi là "Páo dung " và hình thức hát có ngân dài hơi hơn, hát rên rõ hơn, dài hơn còn vùng tả ngạn sông Hồng và các xã ven sông Chảy cộng đồng người Dao Đỏ lại gọi hát là "Pá dung" và khi hát không rên dài hơi như vùng trên mà họ hát nhanh, hát ngắn về thời gian, đôi khi còn như đọc, một số chỗ có ngâm nhưng không dài hơi như hữu ngạn sông Hồng.
V. Tiến trình hát "Pá dung".
Như trên đã nói, "Pá dung" là hát của tộc người Dao nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú. Trước hết là quá trình chuẩn bị nghi lễ và ca khúc hát vượt biển. Chuẩn bị vào hát chính thức, công tác tổ chức được làm rất cẩn thận. Trước tiên cộng đồng xem ngày lành tháng tốt, sau đó đến bàn bạc và đón thầy Mo, kế đó mới mời thầy phụ. Các thầy đã được thông báo trước, tới ngày này, các thầy chủ động báo cáo và xin tổ tiên nhà mình, khi được sẽ chuẩn bị đồ dùng trong nghi lễ, có người đến đón là các thầy đi tới nơi làm lễ luôn.
Các thầy tự chuẩn bị những vật dụng cần dùng trong quá trình làm lễ, để ngay ngắn trên bàn ngồi làm lễ. Những người giúp việc thực hiện việc cắt giấy màu dán vào bàn thờ đặt lễ vật, xung quanh khu vực làm lễ, bày biện các đồ lễ vật theo sự chỉ đạo trực tiếp của ông thầy cả. Chiếc thuyền đã được chuẩn bị từ trước, đem ra đặt ngay cạnh con lợn cúng trên ban thờ đặt lễ.
Khi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất, thầy cả yêu cầu người giúp việc thắp hương, đốt đèn, rót rượu vào các chén để thầy chuẩn bị làm lễ. Những người phục vụ hương, đèn, rượu này không được phép vắng mặt trong suốt quá trình làm lễ và cũng không lúc nào được để hương tắt, đèn tắt hay rượu hết.
Xong việc, thầy Mo bắt đầu thỉnh chuông và cúng khấn mời tổ tiên về chứng giám và nghe khúc ca ôn lại lịch sử di cư của tộc người mình trong lịch sử. Đây là một trường ca dài kể về lịch sử của tộc người, từ khi không mặc áo quần, không biết chồng vợ, cho đến khi gặp trận đại hồng thủy, cỏ cây, con người chết hết, chỉ có hai anh em nhà nọ nhờ nương tựa trong quả bầu (trong truyện là hồ lô) mà thần sấm ban cho nên sống sót, đi khắp thế gian tìm người kết duyên, gặp con rùa, rùa bảo anh em lấy nhau để duy trì nòi giống nhưng hai em không tin, đánh vỡ mai rùa, rồi tiếp tục đi tìm nhưng thực là không còn một bóng người. Cuối cùng, hai anh em đành lấy nhau, sinh con đẻ cái, rồi sinh ra loài người. Số con đó một nửa lên non, một nửa xuống biển tạo thành 12 họ của tộc người như hiện nay. Nhưng do cuộc sống khó khăn, đoàn người quyết vượt biển đi tìm kế sinh nhai. Công cuộc vượt biển thật gian nan, vất vả nhưng với quyết tâm, với ý chí nghị lực phi thường, cuối cùng cũng hoàn tất đến bến bờ an toàn. Rồi các họ tộc cùng nhau cày cấy, vui chơi, hát ca, hưởng cuộc sống an bình, hạnh phúc đến muôn đời. Cốt truyện tuy giống với nhiều tộc người khác nhưng trong nội dung, ý thơ, lời hát, phong cách nghệ thuật trình diễn vẫn mang những nét bản sắc văn hóa của tộc người rất rõ nét.
Đến khi đã lên hương, lên đèn đầy đủ, thầy cả bắt đầu ca:
PÌU DÌU KÍA KHÓI DUNG
(CA NGƯỜI DAO VƯỢT BIỂN)
Luồng kít nin kên kỳ chấy phúi
Slía luốn tồng siho chảng lít tầu
Chía kiếu chùn nghìn sũ dặm líu
Một kết một dằng buốn dặm biêu
Chẳng kết nhần mằn dặm ấy vạ
Liềm đía thó xanh kía tsliêu
Slin pết pé lụa chiệp phấy phíu
Xin chảng thút pầy duấn nụn tàu
Chảng kít nin kên vùi phấy dác
Dặm vụa túa sam sin tsluất mầu
Dùn xanh pham pé lụa chiệp phấy phúi
Mậu khuýa giăng mềnh dùn óm âu
Hạ kít nin kên khắng vui va
Ói kếnh sính chuần dặm híu tầu
Mụa kít nin kên vủi háu suôn
Thống nin dìa nhàng khấu mọn sliêu
Ù cá sính hùng phính sluất sấy
Chấy sluất tại dùa dung chuống châu
Kạp cháng dùn xanh lụa chiệp phíu
Duồi tậy thó xanh cánh chuống phíu
Dần Mão nhị nin kín tại quấy
Ù lìu ghịa tậy chám tìn pậu
Ù lìu chảng thin chùn một kiếu
Luồi nhà phộng pá một xong châu
Hai nhuần ếnh kiếu ù trừ vạ
Sbếp chuống luồi nhà chảng muột pâu
Duồi tậy lậu luồng khoa gọi sluất
Duồi luồng kết cháy tại hầu cầu
Siêu puốn hầu lâu duốn pụa ố
Phiêu duấn muồn puống pụa ố châu
Kình tỉnh dùn nin bồng súi phát
Hai phần tó mạnh chắn hầu lầu
Sluân xanh nạn tỏ bò nò vạ
Dâu día nàn hò kháu bói châu
Sluất chiu sliết día mậu mềnh nhụt
Sên bang síu duốn miền thin hầu
Đắp chảng thin tòng mậu thin khấu
Thin muồn thin đía síu pành pâu
Súi đía dằng luồng tài púng súi
Bầu lầu thoái tặng súi tình liều
Có pú nhị nhần phụ bây hộ
Tồ hoang kháu sấy muận ka kiều
Sluất sấy tồ hoang bầu lầu nọi
Pầu đầu thin đía siệu dàu dầu
Pá quấn bành dầu khán thin đía
Thin đía chiệp miêu mậu có châu
Pầu dầu kía chiêu thác pết cúa
Tú kín ùa quây làn lầu tầu
Ù quây khoi khấu chùn nghìn búa
Thin đía nhần mằn phấy líu hiêu
Dặm sáng bành dầu chiềm ngõ nịm
Chậy kắp hông đay vầy xấy phiêu
Phụ hây chấy mụi dặm siến va
Dậu quẫy lụn nghìn ká hoắng châu
Tá pó ù quây làn lậu chói
Chiên chía mậu nhân mạn cắp châu
Hành dầu chiệp chiêu mâu ngõ mịn
Siến chía ù quấy chiền vạ phiêu
Vụi sính duấn pâu phấy làng vạ
Cắp chánh ù quây dùa hắng phiêu
Kết chảng cắp chằng chiệp nhị cúa
Sin chảng trùn dùn hắng kiệu pâu
Phụ hây phang cắp pin phang cắp
Ếch khấu ù duồi phang cắp phiêu
Khói ngọn siêu hang đàu púi sấy
Găng mềnh chậu đía kết xong phiêu
Nhụt tàu kía thin vầy chong chếnh
Tậy ghịa còng bò choang chếch phiêu
Thin pun tậy pái chằng huân líu
Thất chịu khoa tó chảng nhằng pâu
Xanh ghịa hủn pùn mậu mềnh phích
Nhất có tông qua bìa muột châu
Mậu kế pun mềnh pé phính bộ
Khuýa chiến nhụt nhiêu pắn tồ phiêu
Phật chảng sbinh sên chằng nhân phích
Phật ghịa pành tín pé phích châu
Sbế pến nhân mằn chắn thin đía
Dặm tác pun mềnh pé phích châu
Sluất xấy sính lùng chấy liệp tỉnh
Xanh ghịa lục nàm lục phiêu châu
Pun pái lục nàm chằng lục phích
Lục nhiêu pun mềnh lục phích châu
Pun ghịa ngũ diêm cuộng lục kún
Nhất phích xanh nàn nhị phích phiêu
Khống chú sính hồng chấy sâu dặng
Dùn búa pun mềnh thin đía tầu
Chấy liệp họ tòng tộ sâu dặng
Chùn gáo nhân mằn thông biếu phiêu
Hoang tàu liều pham chấy ka khúa
Sìu dìu thin đía khuýa quân dầu
Chiêu hùng chấy chiêu có dịa tập
Tại mua liền bằng miễn tậy pâu
Túa hùng chấy khuýa pàn nhân sáy
Khuýa súi tàng chầy chắn mịn pâu
Pẹ mãi dùn tài tầy nhất kếch
Sâu dặng chùn tài tày nhị phiêu
Hái nhân tộ sâu chằng quấy cháy
Hái cô phiêu slun chằng quấy châu
Tộ sâu chía dặng cuôn mềnh bộ
Nhất cúa chìn làng nhị cúa phiêu
Chấy tỉnh nhất sên púi nhất súi
Thin đía nhất bò púi nhất chiêu
Chấy nài nhất nám púi nhất nhiêu
Nãm nhiêu chằng xong khú quấy phiêu
Nàn tong chiệp pết tếnh ca dạy
Nhiêu tong chiệp pết ká đào phiêu
Dần Mao nhị nin chạ mã phán
Pẹ nhính dạ dầu cuôn dạ dâu
Mềnh hùng sluất sấy phán thin đía
Sết pại nhân mằn pé nhính châu
Piền hùng sluất sấy pành on cúa
Thính chụ mềnh hùng phán pại chiêu
Say tông ừ kề pành mã khiếu
Duồi bô sết xanh pé phính châu
Miền mằn piu kía nàm kinh ngọn
Piền hùng nghìn hin kía tàng sliêu
Dần mao nhị nin thin tai hán
Ké mua sluất in chiu mụa khâu
Phấy có luồng muần mậu sún diến
Pết sluấn siêm tòng mậu có nhiều
Cuôn sbong mậu mãi dàu hoang chiến
Pẹ phích mậu làng hoang lụn dâu
Mậu sbấu số xanh mậu kế nọi
Pìu dìu kía khói khiếu tông chiêu
Phín liệp kía sên piền hùng póng
Bố liệp sâu liềm kía khói tàu
Cắp chằng tại dùn piu kía khói
Thất có tại chùn síu mịn biều
Quá khí hồng kề chùa chuống nọi
Ừ kề pành mã bin chùn biêu
Kắng quất lầy táu síu lầy cậu
Scâm ghịa lầy tầu síu lầy tầu
Danh thán piến than nàn phan duấn
Dùn tuông dân vắng dặm vần biêu
Tong chói chùn triêng pham pé nhất
Mậu kế nọi bò síu mịn biều
Dậu día luồng hùng tài káo kít
Puồng slui sín lọ khói nàn hầu
Kiềm lầu síu diếm bêu ghịa khói
Nạn pé luồng muồn síu đía biêu
Chuống tắn nhần mằn dàu hoang chiến
Chùn chuông phấy chụ sính hùng tầu
Só sbính thin say tài muộn quá
Tín sluất lìn chiêu pụa mịn tầu
Kía khói piền hùng chiệp nhị phích
Khúng día chày pun dặn kếch tàu
Dặm ếch chày phun kía tại khói
Súi lâu dặm thông chùn dặm biêu
Liềm chày biếu nhụn chùn tuông nọi
Ếch pú nhân tinh kía khói tàu
Ừ kề pành má mài lình sính
Vùi panh duốn pậu búa lìn chiêu
Phan chiu tú kín chùn buây khiếu
Chùn hành thán ngạn khẳng quân dần
Piu chiến phấu nọi lò sbăng quyện
Duồi sên canh cuống kía tàng sliêu
Tông quấy phộng vuof chiền ên nhụn
Pun dán hây tầu có phính phiêu
Nhất chùn kía khói có kế nọi
Tam chùn kía khói phấy chùn biều
Phấy chùn đắp thán rằng phay tố
Pham chùn kằng pá kắng chìu chiêu
Phấy chùa đắp chang ù quấy tây
Pết mạn sên tàu kắng quất chiêu
Pặng sên dung manh sống kía sấy
Kháu sính vầy ên sliêu kía sliêu
Nhất sên chám pại mậu canh chuống
Dậu kía nhị hang kháu nhị chiêu
Ông dìa chầy liệp sềnh chông chấu
Háu suận sính chiền phiêu chính tầu
Nhất kếnh ông dìa mịn quân hấy
Nhị kếnh sính chiền phiêu chính tầu
Pham kếnh bang tàn có cố tại
Tậu lây pành phiên pành pín phiêu
Tặng ka lây phính nhất dặng kế
Dậu púng phó muần liềm đía kiều
Có phính thính vần pháy khán dặng
Chiệp dặng phô muần liềm đía kiều
Tá kế dòi chùn on cọ lúi
Dặm dàu hái lậu khuốn phiêm dâu
Dịch nghĩa:
Sinh sống trước công nguyên kể lịch sử
Trước công nguyên con người sinh sống chưa có
Gia đình chồng vợ sinh sống trong rừng hỗn loạn
Người sống trước thượng nguyên thọ một nghìn tám trăm năm
Thân thể mặc đầy lông lá, không mặc áo quần
Đến trung nguyên ba trăm sáu mươi tư tuổi không lửa quang minh
Còn tối tăm, người sống hạ nguyên chưa tiếng nói
Muốn kính thánh thần không biết từ làm từ đâu
Mãi đến mộc cát niên gian mới biết hiếu thuận
Mới biết nghĩa vụ phải sinh con
Các thánh vương mới xuất thế
Chế ra cây búa dưỡng nhân gian
Mệnh sống con người sáu mươi tuổi
Dựa đất dưỡng sinh biết làm ăn
Bại đến Dần Mão hai năm trời điềm báo thần sấm hạ trần gian
Thần sấm trên trời truyền bá lại thần nhỏ rằng
Thần sấm có dặn hai anh em
Hai anh em nhớ lời dạy bảo
Mang răng đi cấy mọc hồ bô
Cây bầu phát triển them năm tháng
Ra hoa kết trái thành hồ bô
Thu hái hồ bô đem về cất
Hồ bô cất để trong nhà
Mừng tám tháng tư năm kinh định
Hồng thủy dâng ngập tận thiên đường
Anh em chui vào hồ bô ở
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Sơn bở nước ngập dâng tận trời
Dâng đến tận trời không lối thoát
Nghe nói thiên hạ nước ngập đầy
Nước dưới con sông mới sả thủy
Hồ bô đến đất nước ngừng dâng
Anh em hai người không thấy ai
Nhờ có hồ bô cứu được mạng
Du hành thiên hạ thấy buồn sầu
Cầm gậy du hành khắp thiên hạ
Thiên hạ thập châu không có người
Du hành nhiều châu đến tám nước
Thấy được con rùa ở giữa đường
Con rùa mở miệng đã cho biết
Thiên hạ nhân dân không còn ai
Không cần du hành tìm hạnh phúc
Tự kết hôn lễ chế nhân dân
Anh em chưa tin câu chuyện ấy
Con rùa mở miệng nói dối thôi
Đánh vỡ con rùa để ở đáy
Thật sự không ai thể ghép liền
Du hành mười châu tìm hạnh phúc
Mới tin con rùa nói thật thà
Hai anh em lúc này mới bàn bạc
Ghép mai con rùa ở thành nguyên
Kết trái ghép thành mười hai miếng
Ghép lại tuần hoàn như cũ luôn
Ghép lại thành liền như cũ
Ứng khẩu con rùa trở lại nguyên
Hai bên bờ biển cùng nhóm lửa
Khói lửa bay lên vẫn kết liền
Nguyện đầu quá thiên cùng làm chứng
Dưới đất cỏ sông cùng chứng minh
Trời xe duyên phận thành chồng vợ
Bảy ngày bảy đêm đã có bầu
Sinh ra quả dưa vô danh họ
Sinh ra quả dưa chửa thành người
Không cách phân minh thành ra họ
Chín trâu ngọc nữ mới phân chia
Leo lên thành sơn thành dân tộc
Đi xuống đồng bằng vạn họ dân
Hóa thành nhân dân khắp thiên hạ
Chưa được phân chia thành họ nào
Xuất thế thánh hoàng được phân định
Phân thành sáu nam sáu nữ danh
Phân cho sáu nam thành sáu họ
Sáu nữ phân thành sáu nữ danh
Phân xuống ngũ âm cộng lục quyển
Nam nữ hai họ mới thành duyên
Khổng tử thánh hoàng chê thơ chữ
Truyền bá thế gian cùng học chung
Chế lập học đường để học chữ
Truyền giáo nhân dân cùng hiểu hay
Hương đầu lưu tam chê ca nhạc
Vui chơi ca hát được hân hoan
Vương triều được lập để cai quản
Cây cao bóng cả che mọi người
Trúc vương chế hỏa thế gian dụng
Thủy hỏa trường kỳ phải có luôn
Ngũ cốc lúa gạo quý thứ nhất
Thơ chữ tính quý thứ nhì
Nhị nhân đọc thơ thành quý tử
Người nào canh tác thành quý nhân
Dùi mài kinh sử thành quan chức
Nhất quản triều đình nhị quản dân
Chế định nhất sơn với nhất thủy
Thiên hạ nhất hà với nhất châu
Sinh được nhất nam với nhất nữ
Nam nữ thành đôi thành gia đình
Nam đương mười tám biết xây dựng
Nữ đương mười tám biết cầu hôn
Dần Mão hai năm giặc kinh loạn
Nhân dân cũng lo quan cũng lo
Minh hoàng ra đời phạm thiên hạ
Sát hại nhân dân trăm họ người
Bàn Vương xuất thế bình an quốc
Nghe thấy minh hoàng phạm lại triều
Sai đông ngũ kỳ binh mã khổ
Tại sao sát sinh trăm họ dân
Nhân dân hoảng sợ chạy toán loạn
Bàn Vương nhỏ lệ quá trường thu
Dần Mão hai năm thiên đại hán
Cây cối ra khói chuối cũng khô
Bốn bể xung quanh đều không nước
Tư sử sông hồ vô hữu ngư
Quan dân vô thực buồn sầu thảm
Nhân dân nghèo đói loạn buồn sầu
Vô thực dưỡng sinh chịu nạn đói
Liều mình vượt biển ra biển Đông
Tiên lập quá sơn Bàn Vương bảng
Hậu lập sách lâm quá hải tờ
Ghép thành thuyền bơi sang biển Đông
Bảy chiếc đại thuyền trôi trên biển
Mênh mông nhiều ngày nhiều hải lý
Nước sâu sóng dữ rất khó đi
Chèo đến lưng chừng khó quay lại
Trong thuyền quỷ quái khó lòng qua
Lênh đênh sóng biển ba mươi ngày
Đành chịu khó khăn ngoài biển khơi
Lại sợ Long Vương gây ra họa
Phong ba bão táp thuyền bị chìm
Bát hương bát nước ném xuống biển
Vạn bách long môn dưới thủy lưu
Trong thuyền mọi người cùng hoảng sợ
Trong thuyền quy nghĩ ra nhiều điều
Có được thiên sư đến xem quẻ
Đoán ra liên châu tam miếu thần
Quá với Bàn Vương mười hai họ
Bỏ rơi không thờ thần thánh đường
Thần không phù hộ cho vượt biển
Thủy bộ bất thông thuyền khó đi
Trong thuyền cầu khấn ngay lập tức
Phù hộ các con vượt biển đường
Ngũ kỳ binh mã linh thần thánh
Hồi binh về bộ báo liên châu
Ba ngày được thấy thuyền hành khổ
Thuyền cũng bơi được đến bến bờ
Triều châu phủ bộ cùng các huyện
Cùng bàn canh tác dựa rừng gò
Đông quý tạ hoàn thân ơn khấn
Phân chia từng họ tự khác làm
Mỗi họ sang biển có một kế
Ba thuyền sang biển bốn thuyền hay
Bốn thuyền cập bến Triều Châu phủ
Chia ra bát hương tự khác lo
Hai thuyền cập bến Quảng Tây đảo
Ba thuyền Quảng Bác Quảng Triều Châu
Bốn thuyền cập bến u quáng địa
Tám vạn rừng gò rông phán châu
Nhất sơn chém trém trụi sang nơi khác
Bại đến nhị nơi dựa nhị phương
Ông cha thành lập thừa tông tổ
Hiếu thuận thánh đi đúng đúng đường
Nhất kính ông cha toan hoan hỉ
Nhị kính thánh Bàn đúng đường phương
Họ Đặng họ Lý cùng một kế
Lại làm bẫy khóa cài ở rừng
Các họ nghe thấy cũng bắt chước
Mười dặm kiểu kế di kiếm cầu
Bàn xong các kế ổn định hết
Không phải tơ vương nghĩ kế gì
Khi đã sang tới bến bờ an toàn, làm ăn may mắn, sinh sống hạnh phúc, thóc lúa đầy kho, gia súc đầy chuồng, người an vật thịnh, để cảm tạ sự phù hộ của các bậc thánh nhân, đúng theo lời hứa, từng họ của tộc người Dao làm lễ trả ơn. Bài ca "Trẩu đàng ý tría" và "Cú dung" thể hiện cụ thể nội dung đó:
TRẤU ĐÀNG Ý TRÍA
(HOÀNG ÂN CẢM TẠ)
Ká lỳ hóp lù trống sếnh ngoày hóp lù trồng san
Trống san trống sếnh trống vuậy sàn mềnh
Hoàn bào trí trói hoán chói ỳ kiông hoàn hoan
Trói boòng kỳ vuậy có co báp nghỉ thếnh sêng
Tạn thếnh dất mềnh tồng trị siên thông voàn nhụn
Siáng dềnh ý tría mó thểnh tông phang côồng dồ
Bòi tsếng miến thểnh say phang sía trọng bòi ngềng
Chói bọ hiàng đắn tạn thếnh siếu siếu dáng sỳ sáo
Hom tồng bềnh bềnh nhắp muồn siang tsếnh bò cú huồn huồn
Ý tría bềng bềng sáo trông triếp truổn ón siáng
Siàng ngềng quối bọ trống sếnh đằn thềnh
Ý tría biàng biàng sáo trông triếp truổn ón siắng
Trống sếnh đắn tsiàng ý tría bồng bồng quấy bọ
Trống sếnh đằn trồồng hòi háo kiếp nghí siền thống
Voàn nhủn mà đào trói vuậy nhắp muồn siang tsếng
Si áng dềnh ý tría phàn mềnh trống sềng duồn hiồng
Tsếng há coóng phú hiàng đắn tà dắt tsếng san
Tố ố ố tà nhị tsếng sếng tồ ka hiàng hoa
Triếp bếng tráp trói hiàng đằn lí nuối tà sam
Nhị sam tsếng sếng pịa pú dòi bàm
Tsếng san tố ố tsếng sếnh tsếngồ cà bày san trói vuậy
Bày sếng trói kiông hoan trói ý kiông tsếng tạn thếnh siếu
Siếu mềnh xỳ tái thông sam đào biang ký cà trí
Tồng tsao ý bòi còn nhuần bài lụ siắng dềng ý
Tría trếnh vọa pạ xuất siắng dếng ý tría sểng siắng
Pạ chi cá diềm vọa pí thiên siắng tsặt sêng
Nàn trí tí hía kăng cú nàn hì sam kăng chía
Trếnh día trếnh sam cằng thái dàng bó liếu thái
Yêm duổn siặng tsặt sêng doán huấn pạ táu duồn hàng
Nhần mằn quôi ố ngào mà quôi bàn cay dí đàu
Bồng piếu dí đàu bàm cà trí đàu xỳ tsếng
Tá siếu siếu dàng xy huấy nhần pạ tsếng tsếng
Nhần pạ huấy pị nhần siang tsếng pạ pị hiàng
Đàn bí nuối pạ pị dí mủ tò hàng pạ pị
Tsêng thiên nhất pạ pị thài dàng tsắt triếu pạ pị
I ố bi thái yêm tsắt triếu pạ pị yềm bọ tị
Nhụa pạ pị sí piên đào pạ lù xy pạ pị xý piên
Coong xuôi tsiàng bào pạ pị xý piên tại mụa
Dìa bàm pạ pị sý piên hù xăng miên siếu pạ
Pị sếng voàng vuầy tại hiàng đằn bi nuối
Pạ kám pị yêm pạ kám pị dàng siếu xy bọ
Siếu tại tám quội bọ trống sếng kiêm ón đòi diền
Siếu si bọ siếu háo trông tsía mạn yêm si tái
Lý hàng diều dàng si tái lì hàng háo kháu
Mộng trống trống yêm si dắt mềnh tồng trị tráo piên
Tsếng tsắt sàn diền tồng trí dạu piên tsếng tsắt
Hố pá siên xy siáng dềnh ý tría phông tsếng mí
Sí tsếng phổng pạ mí sì pạ phông tsuội luồi
San cói điến phông của cù san tại mua bàm
Bàm pạ trám pạ tuốn siếu mụa pạ trống pạ xằng
Tồng trông pạ tá pạ hiàng bò cú pạ tá pạ sênh ỳ tría
Pạ suất pạ tsêng ngìn vọa pạ pú pạ mềnh tồng
Bềnh khềng khêng hòi háo phàm mềnh siếu
Duồn siếu vuậy pạ ám sêng trao pú huận dất kuông
Ý tría của biểu nhị kuông si áng dềnh ý tría dấu
Hòi trếnh tong sềnh trao pú huấn ý tría bềng
Bềnh sềng trao pú huấn sêng voàng cói điện cói
Của mú niên mú nhụt mú nhắt ý bòi hì bù
Tsắt húa hì ghi thuấy trạ diền hí múa trao mú
Khú mú huấn mú sía mú tsông tị tsí
Lỳ đào tồng tso ý bòi mú nhần bòi tố puốn phang
Tì niệm dất đồng cà trị duân trói kcậu phang
Tì niệm sàn đào trám pại san kúa trám hoong
Mú t sý kằng tsuôn kê ngọ nàn tong ông
Ùa thái trú cà siên muồn diền siếu mủ lạp tá
Tsiên niên bềnh điền xuối thú ố puối siếu mủ lạp
Tá mán tại t siềng biàu dấu dì sân pặng san
Vuầy bệ khau sếng vuầy an hếch biếu dất
San bào của nhị san kếch biếu dất xuối bào
Của nhị xuấy thếnh vuồn nhần duồn mú tsí lì đào
Sàn đào dả hú san mí duồn coong xuôi
Dã bềnh mú nhần dất đồng cà trị hì lù san
Húa hì ghi thuẩy trạ thuẩy vuậy trụ trông hiàng
Húa tò tái kiềm bù xuối voán tsi kiông nàm ní
Duối trói kậu phang tì miện bào duốn cúa hói bào
Lụ cúa kai bào san cúa bếng boi tố mú tsí
Đào sàn đào dả hú san mí dả duồn coong xuấy
Dả bềng tría muộn puồn phang tị trí quân nhần
Hoi tám san đào tá hội voàng này tri thú
Bạp hí sí cáo mào phàng bạp hí bồng ghi
Ố trá siáng cói thiên đòng ỳ xuẩy trông cói
Tại đằn trú trông hiang húa hạ cói nhần
Tềng cói cúa ngòa dìn kúa há dáng muột
Tri dòi cày dòi niên dả cao suấy suấy
Cao niên cao cúa mú niên mú nhạt mú nhất
Mú yêm mú nhần tồng t si mú sỉ tría cà
Muồn đào siặng hiàng đằn lí nuối siêu hí
Dất lù nhị bù sam lù mềnh hiang hiang
Si pạ diên tại công siếu dí pá diên hò ý phồng
Dềnh diên vuậy tồng tsoo ý bòi hồng xuối phát
Há thiên đáy biau dấu dì sân siều hiang
Kếnh phộng trú trông hiang húa liền trào pham
Miệu sềng voáng buồn voàng dì sân pạng san
San vuầy bệ kháu sếnh vuầy an kháu mộng
Yêm kan pú trếnh yếu cúa biàng mằn nhụt đào
Tsoo tsắt triếu há bàn kan sạp nhị sếng
Biàu dấu dì sân siều hiang kếnh phộng yêm
Phú tềnh kan voàn nhủn đồ tsiang siên
Thông siắng dềng ỳ tría trống sếng kam tri
Ngũ si pạ cám cù sêng khí kiếp sêng
Boòng khí tải siếu si phú mú thóc xăng bào
Dòng họ tị nhần bồ tẩu nụm tồng bềng hòi
Háo suất vỏa phàn mềnh siên thông cà trí
Voàn nhủn tri dí tồng tsao ỳ bòi buôn cú
Sếng voàng hoi thiên bạp tí mạm cú duồn diền
Tsềng duồn dằng dằng cói cúa thiên đoòng ngũ
Buồi kiấu sêng duồn mủ óm há thiên đoòng
Thiền đềng phát ý hồng xuối yếm hí
Thiên piên coong xuối dào dào tsắt trói sàn
Nhuồn xuối piếu u hác óm ý cù voàng trí
Thiên bềng trí tí thiên trí si phang tị trí
Pát coó trí bay sàn nhuần xuối piếu trí dáu
Yềm dàng san sếng trí đáu pạ nhị nhần
Màn trí dáu trí dáu vùa miều điền đoòng trí
Dáu ngũ cú vùa miều mí biàng pạ nhị sếng
Biàu dấu dì sân duồi niên kăng trống trí dáu
Trí dáu t sắt seng mềnh nhụt triếu há
Bàm kan sếnh niên kan siắng duồn cáp
Dí nhân xăng dật tsiên pát pá lụ sạp
Sí xuấy hàng hiang duồn muồn ý biệu
Diếu mụ phú dí yềm phú tềng can dấu bòi
Cao cưa trông duồn káp dí nhần săng
Sam pá lụ sạp sì xuẩy hàng hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mụ phú dí yêm phú tiềng
Can dấu bòi cáo của hạ duồn cáp
Dí dật pá nhị sạp xì xuội hang hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mủ phú dí yềm phú tềng
Kan dấu bòi cao của kềng tệng duỗn miên sí
Nhuật tso pát trông trì nhất hồng xuối phát
Há gyàng gyáng duồn mú dằng dằng yếm hí
Thiên đàng yếm sí thiên ha nhần mằn cói
Diện thiên há nhần mằn trộng dáu phụ kihi
Tría mấy nhị nhần duồn trói hù lù tú muội
Tồô hoang tsắt sấy bào hàng thiên há tá kiến
Mú có nhần mằn trếnh bòi vuầy huân phấy
Họp phù tsi trí tsắt sạp nhị sếng biáu dẩu
Di sân biàng mằn pạ sếng duồi san kăng trống
Dấu bòi cao của mụa cít miền kan nhầm
Xăng bụ sạp káp dí pẹng mạn liều bìm
Trếnh bòi phú dí tại đằn trú trông
Hiáng húa biền trao sam miện sểng voàng
Sếng voàng tsắt sáy trí bạp kiềm bắn sểng
Điện xăng há lụ màn lụ ný nàm trí đào căn
Ní trí bềnh pán tráp xa voàng soo co dào lả
Boòng trí co bào sam trí hiố trao voàng trí mụa
Ngũ bo trí hoa đồng voàng trí diền túa voàng
Trí húa lù pan trí ố khống chú trí mầy
San họ đòong tộ xi siắng kháo quoán trế
Trí lạp trao phú huân muồn quoán há nhần
Mằn pạ sểng trí dáu ngũ cú san nồng
Voàng tái tri tsắt ngũ cú mí bìang tsố
Tsắt cù hoa mí tráo ngũ cú bồng chiang còong
Trông dáu tráo bềnh trông huấn sếng sàn
Mềnh biền tại sếng lềng đòi bềnh on
Dậu lòi cáo của mềnh trìu tại voàng tsắt sáy
Phán pại thiên há nhân mằn cói trìu diện
Cúa buần voáng sếng trí tsay dáu ngũ ghì
Pêng mà duồi hồ guếu săng sếng voàng
Chói bọ kiềm băn điện siăng
San tsên tsắt pá lụ sạp sì xuấy kap dí
Hàng hiang duồn muồn liệu lụ nàm dềng
Lủ sếng lủ ní phan dềng lủ sểng phan dềng
Sạp nhị sếng bìau dấu dì sân phân dềng
Siến yêm nàm ní phan dềng kiông yêm
Nàm ní phan dềng trí yêm nàm ní phan
Dềng cóo yên nàm ní phan dềng ngũ yên lụ
Chún tại sếng bềng voàng trí dáu của
San póong trọong sạp nhị sếng triang tô mà
Dày kiúa dấn sạp nhị miến bao pá sạp
Nhị sếng biàu dấu dì sân sềnh tểnh vuồi
Nú kháu san vuầy lệ kháu sổng vuồi an
Sếng voàng quây điện trí dáu biền trao sam
Miệu sếng voàng pụa coong tại voàng ngũ ghì
Pếng má dấu bòi cao của hông ú niên can
Phán pại thiên há nhần mằn cói diện quân
Voàng sát trìu pại trế sap nhị sếng bìau
Dịch nghĩa:
Hoàng ân cảm tạ đại thân phụ mẫu
Ngày xưa, dân tộc Dao còn sinh sống tại bên kia bờ biển.
Họ tộc người Dao cũng thờ phụ mẫu
Thờ thần linh và những vị thánh cao thượng đế
Để phù hộ cho gia đình thịnh vượng
Có sức khỏe dồi dào, hòa thuận, hạnh phúc
Cho con cháu biết kính trên nhường dưới
Biết thể hiện đạo lý làm người
Người Dao vẫn canh tác nương rẫy
Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên
Cuộc sống cứ thế trở thành truyền kiếp
Kéo dài từ năm này qua năm khác
Kéo dài từ đời này qua đời khác
Đến hai năm là năm Dần, Mão
Không may bị hạn hán mấy năm liền
Đến nỗi lá chuối bốc thành lửa
Cây cối ra khói, ra than tro hết
Con người không còn lương thực để ăn
Sông suối không còn nước cho con người uống
Khe suối cạn kiệt không còn nước
Con cá không còn nơi sinh sống
Mười hai họ của người Dao lòng đầy âu lo
Lo lắng cho sự sinh tồn của dân tộc mình
Họ bèn họp nhau lại cùng bàn
Nhằm nghĩ ra cách cứu sống dân tộc mình
Họ đồng tâm liều mình một phen
Nhất quyết vượt biển tìm kế sinh nhai
Mười hai họ cùng nhau chuẩn bị
Chuẩn bị một con thuyền rất to
Sắp xếp hành lý cùng lên thuyền
Lương thực còn sót lại mang theo
Đồ thờ phụng khá cũng đầy đủ
Thế rồi cùng nhau vượt biển
Vượt sóng muôn trùng đẩy ra khơi
Đi được tròn bảy ngày bảy đêm
Lênh đênh trên biển vô bờ bến
Bỗng đánh rơi một bát nhang to
Để thắp hương thờ Phật phù hộ
Bát hương đã rơi xuống biển sâu
Thế là phạm ý trời ý Phật
Trời bỗng nổi cơn thịnh nộ
Bốc sóng lên cao vút tầng mây
Sấm chớp cùng dông tố dữ dội
Mười hai họ chưa từng thấy bao giờ
Mười hai họ Dao trong thuyền kinh hoàng, sợ hãi
Tới lúc này mọi người mới nghĩ ra
Do đánh rơi bát nhanh thờ Phật
Bảo bối thờ Phật muôn đời nay
Nên thần Phật không còn linh thiêng nữa
Mới xảy ra họa lớn thế này
Mười hai họ cùng họp nhau lại
Cùng ngồi trong thuyền cầu khấn Phật tiên
Mong các vị thánh thần linh phù hộ
Cho chúng con qua được cơn sóng này
Được sóng yên gió lặng muôn trùng
Chúng con vượt biển được an toàn
Sang cập được bến bờ bên kia
Chúng con xin hứa sẽ tạ ơn
Mỗi họ bằng hai con lợn to
Bằng nhiều hũ rượu thơm gạo mới
Bằng gạo nếp thơm nhiều cân
Bằng bánh trái hoa quả dâng lên
Trai trẻ, gái trẻ dâng lễ vật
Có mời ba thầy để mời thần linh
Mời phụ mẫu đến từng gia đình
Đến từng họ nhận lễ tạ ơn
Đó là lòng thành của chúng con
Sau khi cầu khấn được như vậy
Các vị thần thánh rất linh thiêng
Trời tự nhiên sóng yên gió lặng
Trời quang, mây tạnh sáng bừng lên
Đoàn người vào được bờ an toàn
Từ đó, mười hai họ tộc người Dao
Không bao giờ vong ân bạc nghĩa
Đời đời, kiếp kiếp xin được trả ân
Hoàn ân trả nghĩa với phụ mẫu linh thiêng
Cứ như vậy thành lệ lưu truyền
Mỗi đời người tạ ơn một lần
"Cú dung" cũng là một đoạn ca thể hiện sự đền đáp công ơn đối với các bậc thần thánh của tộc người. Đoạn ca vừa thể hiện lịch sử tộc người, vừa thể hiện truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo vừa mang tính giáo dục sâu sắc:
U CÚ DUNG
(TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN)
Dấu dì sân thuối há kiềm bằn sêng điện
Pan hí trìu trao phú bọ tsiang huấn nàm
San pát phang san dào duồi san kăng
Trống dấu lòi cao của diền mào nhị niền
Thiên trí tại hàn sam miền sí sí xuống quaon
Tsoong mú mái pạ sếng mù biàng nhần
Mằn bào luộn mủ ký nọi hò triu ụp
Tsắt húa ké mụa tsắt diên coong hò
Mụ xuối siềm đòng mù nhì bềnh điền mụ
Xuối sạp nhị sếng biàu dấu dì sần niền
Niên kê ngỏ mủ líang tham hếch mủ kế
Nọi hò trếch bòi phiáo dào của hói dất
Tsiên tsắt pá hói lí sam có nhụt đào
Dàng san nàm pú sếng nụng nàn tồô sạp
Nhị căn hìang lù bao há ngũ hói bồng
Muồn sếng voàng ú nú trói san trếnh lòi
Hác óm duồn trông t sắt ýa duồn hàng siếu
Mủ tố ngản mà háng siếu mủ tố hiang
San lú pạ thông xuối lú pạ hòi dấu bói
Tá kiến quay treeng tại phông dả tố tại
Ý dả bói thếch vuần hói đáy bồng muốn
Sếng híang dậu phá tại phông tại ý
Tsuối bọ ngũ hói bồng muốn có nhần
San hoang dàu ýa kêng hoang kháu thiên
Mủ bệ kháu sêng mủ an si lìang
Sí tróc muồn lụ mú nhần vuầy cô vuầy tại
Trì nhần trộng dáu trụ trông hiang húa
Dia tí ngũ ghì pêng mà diền bói sết phẩy hồ
Bói guếu săng guêu tá sam miên mủ con tri
Tsố guếu tá sí nhất mú mẹng trì nhần trếnh
Lòi duồn trói duồn trông li nuối kầu huấn
Trụ trông hiang húa ngũ ghì pềng má nàm
Họng puốn trú cà siên vuầng đào
Du oán miến hí siáng san an liàng nhụn sọ
Pú nhần têng mí kêng sam trao dất tsắt
Duồn hàng tố ngản mà hàng tố hiang
Duồn đào phiu siáng quoang tông đó tsiáo trao
Phú bọ tsiang huấn nàm phang sàn đào lạp hí
Bồng ghi ố trá duồi san kăng trống ngũ cú
Phộng voàng tại sộc tsắt nhụt sạp nguc chông
Chì nhất sạp nhị sểng biàu dấu dì san
Trếnh bói voàn an tạp trỉa tại san phú mú
San an biáng nhụn duồi muốn ý biệu
Dất tọi của biểu nhj tọi sềnh trông nhị
Của biếu sam tọi sềnh trông tsiệp trú
Tếnh tái hiàng diều dì sâu kiáo đồng mạn
Tọi y trông tsiệp chú y cú tái lạy phú dí
Yềm phú tềng kàn dất niên sí ký siêu dìn
Siếu vụi dất niên si cý sam ngà sí tráy
Tsuối trắn ngàn tsiền của biếu dất niên si cý
Vuồi bòi sọ pú nhần tềng sọ pú nhần hảo
Sọ pú ngòa dìn kúa há dáng muột chi dòi
Cay dòi ca ly quoàn bù thóng dán ngoáy
Bý pạ háo thóong hoi dất đồng cà trí tsiền
Ý bói duôn trói mú niên mú nhuột mú nhất
Ý bói tsắt san hí siáng hò siáng vèng trị
Yùi si liáng nhụn siáng đằn tsếng tsắt hí
Nhủn tồng trí há đằn tsếng tsắt pá nhủn
Puần quân hi siáng pù si trói ơn dất
Hí nhị poong pù si liàng nhủn pạ tuẩn
Hò niên pạ tuấn hò nhụt nhuẩn tuẩn sạp
Niên tá siáng nhị sạp niên ta há dáu
San hi nhủn dáu san phổng voàn pù si
Hoòng hoòng áp trói tua đồng lì nuối soo
Doòng tú hóa ngàn tsiền pụa bày sao
Bênh sao nọp tsếng phúa có nhân tsắt sáy
Hoàn kuông vuầy phộng dất soong
Dậu trụ kiáng mú nhất poong liáng piên troó dảu nhủn đầu dòi
Dịch nghĩa:
TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN
Bản cổ sơ khai phân thiên địa
Chế lập năm họ chế loài cây
Chế sơn đầu nhân dân được ở
Chế lập cung điện thánh nhân an
Chế được thánh điện chế ngũ cốc
Chế được ngũ cốc dưỡng nhân dân
Ngũ cốc xuất thế phân lương huyện
Xuất tại phân lương phân quốc triều
Khai thiên lập địa ngũ âm họ
Chế được nhân gian vô vàn người
Kinh dịch nguyên niên phát hồng thủy
Gò bở nước dâng đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Nước ngập đến trời khó mà lường
Hồng thủy ngập trời biến bại dạng
Thiên hạ không người chuyền cổ ngôn
Chỉ còn hai anh em còn tồn tại
Hồ lô trôi nổi đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm hồng thủy ngập
Anh em hai người đi khắp nơi
Đi khắp các nơi không có ai
Còn lại anh em hai người thôi
Đi đến ba suối khe thật dốc
Gặp được con rùa ở trên đường
Anh em hai người mở miệng hỏi
Con rùa xuất khẩu không còn ai
Tay cầm gậy sắt lại đi tiếp
Đúng là thiên hạ chẳng còn ai
Đi khắp các nơi không ai cả
Lại ghép con rùa mai thành liền
Liễn biên thắp hương khói liên kết
Đành phải lấy nhau nối tông đường
Đẻ ra con người không gì dưỡng
Ngũ cốc đại vương anh mới thương
Thần nông hoàng đế chế ngũ cốc
Lưu danh thiên hạ dưỡng nhân dân
Ngũ cốc chính thức là bảo ngọc
Cứu được mọi người sống ấm no
Chuột chúa sang biển tha giống lúa
Con rồng phun nước tưới lúa xanh
Thanh minh cốc vũ cho mưa xuống
Được thấy cây lúa xanh tốt tươi
Thần lúa thổ địa quan ngũ cốc
Hoa tiến tiển nàng quản lúa cây
Lúa hoa chị em chuyên chăm sóc
Ngũ cốc đại vương cho lúa kho
Lúa tẻ đến dùng làm cơm bữa
Lúa nếp để dùng làm rượu thơm
Ngũ cốc đúng ba đường nhân ngọc
Trăm họ nhân dân cũng phải cầu
Thứ nhất cung kính các vị vua
Thứ hai là để cứu dân cư
Cao Vương ở trời chế thiên địa
Bình vương ở đất chế suối sông
Chế được sông suối vô vàn khúc
Lại chế đại thuyền mặt nước đi
Thiên tư hạ giáng thiên ban điện
Lưu tam chế được vạn bài ca
Long cung truyền phép chém quỷ kiếm
Đàn tiền cầu phép diệt trừ yêu
Kèn cũng khẽ thổi trống khẽ đánh
Kinh phí chín bậc không bước nhầm
Thiên thượng nhất tinh du thiên quá
Nghìn dòng sông suối chảy về đông
Giữ yên gia đình toàn lương nguyện
Kế tài vượng quá đại thiên nga
Người thầy đương thiên chiêu hòa đến
Hòa ông hòa mẫu nhập hòa kho
So với các vùng khác, người Dao Đỏ vùng sông Chảy nổi lên bài hát cùng tổ tiên “ghến dìn họ sếnh dung”, bài hát này được dùng trong các nghi lễ lớn của cộng đồng như lễ cấp sắc, lễ cầu mùa đầu xuân.
GHẾN DÌN HỌ SẾNH DUNG
Chụ chông hăng húa hoàn chọi vậy
Hù săng sà súi họ diềm căn
Sà lò sà súi cênh họ sếnh
Cếnh họ chống sếnh sếnh dào ăn
Hàng họ chống săn săn chó ý
Lềnh san kiều duấn chí ca nhiền
Kiền duấn nhiền tênh chiên pá cọ
Chồng mềnh lìn lý chát dồng và
Lộ nhiền kiều duấn thin cáp dị
Chói thin cáp dí chói dằng căn
Lộ liệu diết niên thiêm nạm suối
Chàng sân siệu lộ mạn niên can
Nàm nhiền kiều duấn họ đòng nuội
Niên tong sạp pát tú chồng mềnh
Dọ tá vuần su kháo sáng chế
Kiều quân chộng chế quán chan đềnh
Ní nhiền kiều duấn siếu hoa tó
Siếu chềnh ho tó chàng co chăng
Huối cháng láng dìn họ sàn sếnh
Mạnh chủ còng chông suối đạ trắng
Chi dòi kiều duấn muộn làn lạc
Ngòa dìn chúa há hú bài hòng
Cai dòi kiều duấn mụ sa sụ
San chó nào i có có hồng
Ừ cú kiều duấn chiên chong lạp
Lìn lò kiều duấn phú ca đòng
Chiên puân kháo sếnh hồng an chí
Chiều duấn kiêm nhàn mậu man cong
Pa piếu háng chuân lòi lụ duấn
Chui duấn chìn chiêm chắn mạn nhàn
Pụa háng ca đòng niên niên vạng
Dồng và phụ quấy chát quyên lòng
Chính sí lềnh săn phụ mụ ý
Chiều dòi chán púa pú ca đòng
Lồng ki sáng sí kiêm lào điện
San pú ón diền lồng phộng đòng
Chiêm siến dện iu cù lào sáng
Cù lào tá cú cú dằng dàng
Chiêm đồng vận suối hú sào hăng
Niên niên hênh vạng hú phông quang
Lộ nhiền sò pú lộ cáp dị
Tàng sang siêu lộ mạn niên trắng
Siệu pú nàm săn niên niên vạng
Hói suối giàng mạn lý trắng
Muộn nhiền só pú hoa con chếnh
Hoa vìn tuấn chếnh da mụ phàn
Dọ chó tăng phông lệnh sáng chọi
Hí hả bềnh tỵ hú phông quang
Nàm nhiền sò pú si muồn vạng
Chiều thiên thiên ếnh phát lềnh thông
Ní nhiền so pú siếu hoa tó
Chiềm hàng si pú siếu hoa hồng
Niên tong chát chá nhiền hang lỵ
In giăng chềnh tói họ chềnh song
Nhiền ca đào chí lòi pịa sịa
Phông quân cha chế pấy quân lòng
Chát muồn thái dằng lòi cô chiếu
Nhập muần dộng chậu hư dia vầy
Nàm sán ní sá nhiền nhiền vạng
Diên công pú hậu sếnh pùi chầy
Chi dòi sò pú to hếnh sạo
Hồng bì chắng nhựa mạn chiên căn
Ngò dằng cai áp pụa phụ tạn
Báo săng luồi luội hú chềnh song
Nhất lý pấy náng phộng chắt tạn
Día lậy pấy nắng líu quấy làn
Sì dìn đào sáng pú vùa mùi
Làm làm cói tậy muộn sía đòng
Dìa san pạ chọ háo pạ sấn
Phộng vàng tại sộ tá duần sao
Chí phú quây đòng mộn chong lạp
Ếnh chấy ca đòng nạn phíu trăng
Chìn đòi phát duấn nhiền tênh chắn
Nhiền háo chắn thin to kít trắng
Hồng phú muộn đòng lụ muộn khú
Dồng và mạn lậy khú duần sênh
Chếnh sí lềnh san phụ mụ ý
Ca dòi chán sàng ngoại dòi thin
Lộ nhiền chiu duấn tang sang hú
Hào quang mạn chắng chiếu thông thiên
Mụn nhiền chiu duấn hoa con chính
Hoa dùn tuấn chính da mụ phàn
Nằm nhiền chui duấn dọ si phát
Đào thiên dọ phát kiếu làng màn
Nỉ nhiên chui duấn to kiếp lạng
Chồng mềnh lìn lí sái quân diêm
Chi dòi chui duấn chiên can tại
Hồng bì tá cúa tại san cong
Cai dòi chui duấn mụ mạn có
Cai công giằng cúa tại ngò vàng
Ừ cứ chúi duấn chin chong lạp
Liền lò chui duấn phú ca chông
Chính sí lềnh san chàn ca chông
Chính sí lềnh san chàn chọ ý
Lềnh san chiếm chị ngoái chia đềnh
Diết chiếm chai giăng cộng hùa lạm
Áp chói pá phăng suối đại đềnh
Lộ nhiền chiếm chị phòng muồn lụ
Quan bù hào tiệp tý chông dòng
Nhiền tinh kiếm chị chát chai nạn
Vuần chai chị khí sáng thiên đềnh
Chi dòi kiếm chị cúa san hú
Sìa đào sía ní ứ quán chênh
Cai dòi kiếm chị hìa lấy háo
Nhiềm kiến pạ thào hú pạ tham
Chính sí lênh san hú dào ý
Chiên puân pé dạng kiềm dòi đùn
Cá chí chiếm nhất chó hú dí
Chí nhiền chó dí tá muồn hoi
Chếnh tá si ông lòi hoàn nhụn
Chống sếnh thính vuần cô có lòi
Chống táng dị sân lòi họ sếnh
Háng dàn cháo chắn pạ song song
Chống táng dị sân họ sếnh liệu
Pú on cà chí chát pá liền liền
Hăng đàn cháo chắn pá liền liền
Hăng chuân dị sân cếnh họ sếnh
Sếnh ăn pú chí vạng chin nin
Chông quân pú chí niên niên vạng
Ừ cú phộng tang sạp mạn chong
Chống táng dị sân điều quái liệu
Ngà cún bái bái on há đòi
Pú on cà chí da mụ chai
Hộ tọi di sân chất siếu dòi
Chiêm nhàn chồi pạ phâu nhập ố
Vuần chai nhì khí sáng thiên đòi
Hông sênh thuối vậy suận sênh chiếu
Tá hoi mềnh cếnh chiếu ca đòng
Diết sênh sếnh tố chống quân mềnh
Cho siếu dồ chang lòi lệnh dềnh
Chong sếnh song song song dòi sếnh ý
Dòi dòi pú chí mạn niên hênh
Dịch nghĩa: HÁT CÚNG TỔ TIÊN
Phù hộ tổ tiên vui vẻ ở
Thanh niên hò hát phù hộ tổ tiên
Vui vui vẻ vẻ được bình yên
Yên hạ tổ tiên được yên ăn
Hàng họ tổ tiên san hữu nghỉ
Thật thà trở về đúng chủ hộ
Trở về con cháu được bình yên
Khôn ngoan trò giỏi đối đáp người ngoài
Người cao tuổi trở về thêm tuổi
Cho thêm tuổi già sống mãi mãi
Già đi một năm thêm một tuổi
Trở già cao tuổi cổ la hi
Con trai trở về nhà trường học
Đến năm mười tám được thông minh
Học chữ sau này được làm quan
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Con gái trở về hoa thăm nhà
Vui chơi cửa nhà hát đối đáp
Bài hát vui vẻ phù hộ sinh
Số phận long đong như suối chạy
Nuôi lợn đầy chuồng đầy vườn cây
Lợn thả ra xếp thành hàng dài
Nuôi gà đầy chuồng
Con nào con nấy lông mượt như tơ
Thóc gạo đầy bồ đầy cót
Nuôi con nuôi cháu mãi không vơi
Tiền bạc trở về đầy hòm
Phúc lộc để đầy nhà
Chính là thần thánh phù hộ
Mong rằng phúc lộc về đầy nhà
Bạc chim bay tới đến lộc phúc
Mong đến tiền bạc được bạt ngàn
Phù hộ con cháu an khang thịnh
Như là phúc lộc như là quan
Chính là nhờ thần thánh phù hộ
Chế lập cung điện thánh nhân an
Nhà của bốn bề có bạc tiền
Ba phụ ông hộ phương thiên đàng
Gói bánh bằng lá bạc vàng đây
Cửa nhà vui vẻ chuông vang lên
Kim đồng đựng nước hoa vàng
Niên niên an khang thịnh vượng sáng
Người già muốn sống lâu trên thế gian
Tang niên thầy cổ muôn niên thăng
Làm sao con cháu nam nam ngọc
Dòng suối chạy long đong theo dòng
Cháu chắt muốn ăn học đàng hoàng
Cháu chắt muốn làm ăn phát đạt
Ở rừng thấy ong bay hoa nở
Xuống núi được bao la đàng hoàng
Đàn ông thì muốn tài năng giỏi
Giỏi công giỏi việc giỏi tài năng
Con gái xinh đẹp muôn phần ấy
Xem vào bốn bên hoa tươi thắm
Đến năm mười tắm làm dâu nhà người
Nên chồng nên vợ thành đôi lứa
Làm chị người ta vui vẻ cùng
Gia đình nhà cửa được bình an
Lúa gạo đầy bồ lớn
Con cháu đều vui vẻ
Chén rượu hoa quả bày trên bàn
Mong rằng gia đình không ai gặp hoàn nạn
Về sau con cháu suốt đời vui
Tiền bạc về nhập đến nhà an
Tiến bạc được nhiều lần hơn thế
Con cháu sinh sôi được nhiều người hơn thế
Bệnh tật tai ương không đến với gia đình
Nhờ ơn thần thánh tả hậu
Tổ tiên có mắt định xem con cháu nhà mình
Nhờ ơn tổ tiên quan tâm con cháu
Mong tổ tiên phù hộ cho con cháu suốt đời
Con cháu dẽ đời đời không quên
Mang ơn tổ tiên phù hộ từ đời này qua đời khác
Bên cạnh câu truyện cổ được phổ biến rộng rãi như trên, trong "Pá dung", đồng bào còn rất nhiều thể loại khác nhau. Trong đó, có câu chuyện kể kể người con gái thứ 4 của Ngọc Hoàng thượng đế xuống trần lấy anh chàng mồ côi:
CHẶNG PHẤY CHÍA DUNG
Piền cấu sính hùng thin tậy
Chấy chuất nhiền màn phấy khói chê
Chấy khí nhụt tào luần thin chíu
Diệt dòi thin đía khú goàng chê
Lình thin chí chún bài chính siếu
Pun dòi phấy có cún chìu chê
Tông pung on bài chạp diết mụa
Tông pung pết có pết quyên vầy
Nàm pung on bài pềnh tênh húa
Nàm pung pết có pết quyên vầy
Phai pung on bài cành siêm kiêm
Phai pung pết có pết quyển vầy
Pá pung on bài nhiền quây sui
Pá pung pết có pết quyên vầy
Chống giăng diết có lình siu miu
On khí nhụt hùng tịu chạng vầy
Chặng cha nhụt hùng chúa tọi quýa
Tọi toi phiêu phiệm công tá vầy
Sấy chặng mài nhiền ói thính cấu
Mậu nhiền thám cấu dạ máu pây
Chìn pan ói chúm hô pan híu
Khấu chẳng dạm dí pát chá phơi
Hò nhiều tú pây chín cho cấu
Dạm quýa họ vần chêu chuất phơi
Míu chậy liều lá chíp tú chăng
Dạm chậy liều lá chấy quýa chầy
Míu chậy diết siêm mậu mềnh chún
Bài mềnh diết kiếu chuống nhiền pây
Song siếu đáp chạng mạ on pấy
Diết tíu tại lậu quýa tuông phiêm
Dạm híu chạng mài hùng cún
Phấy có chăng chun giạ họng chiềm
Phún tài dạm chậy guyền điều sấy
Diết sin lọ mạn quýa mìn siêm
Chạng tháo cô sên thin diêm ún
Ký chầy tú tháo thái pành nin
Phầm nin mâu nhiều thin tại hạn
Liếp mạ vùi tao duốn phíu nan
Nhụt quýa chiệp hự goang mênh píu
Lống quôi quáng khỏi phộng quôi thin
Châu choi chị liều khó liềm hong
Khò phí dạ nàn duối síu nin
Chê chuất cấu nghìn liều nhiều tộ
Động ghì díp mạnh quýa tàng nin
Pé dạng cấu nghìn míu dạm sứ
Chía lớn thim chuông tá nạo nghìn
Tòng hùng phài thim chí kinh puấn
Thim chuông liều lụn chía to nin
Chí vậy nàm thin sâm híu ché
Danh chấu nhụt thin chạng phin
Chạng cha chiếu phiêu chúa tọi quýa
Chính tú phai thin pụa chấy nghìn
Pha chiệp pham thin on hùng tịu
Lình siu tại mịu sính nhiền vìn
Pụa mậu dùn sân chiết chấy mui
Tấu nhiều chuông lậy khú tùn dùn
Nhất biện thái dạng phúi quýa phúi
Día biện thái diệm chun quýa chun
Hự pé nìn cên thin chuông lụn
Suối pây hành chía chặng thin muồn
Danh dếm phăm thin kiếm hút tịn
Nhụt hùng kiêm khấu chính tài puông
Nàm thin khiếu cún phín tố chậu
Ý tài tá nạo lụn thin chuông
Chấy mụi chiết nhiền to phàn tía
Ói giạ pàm cên khú quýa nin
Phán lụn thin chuông nậu chế nọi
Có nhiền chúa đía khí chằng dùn
Phâm chía giạ pàm vàng ý chun
Phấy chí kít pún chui vần phông
Thin chuông tú cín chính khó liền
Lầy lịu phà chiệp phăm thim chái
Tài púi chui vần lọ nạn nhiều
Chiệp dạng chai chín phăng phuống chụ
Phái sinh phái muộn khó liền nhiền
Cha chói há chiêu hái hăng lậy
Pụa mậu sòng chiên chói hái pịn
Chui vần gọi khấu tài tạp chịa
Quấy chía phin hiều nọi thính nghìn
Suồng dí dạm siên quây diêm diều
Chộng máy néng chía chói hoàng vìn
Pành chuống chậu chói hoàng vìn nọi
Đam chàng viện mấy quýa tàng nan
Chui vần pịn muộn chăng phấy chía
Pịn chậy hái chiêu quấy pậu phin
Pụa mậu mài mềnh phình hò dạng
Chồng tào diết nhậy ý muồng nghìn
Phấy chía phái sinh khoi nghìn vạ
Có có chía thính mụi kiềm nghìn
Pậu mậu dùn sân chiết chấy mụi
Mìu chậy chui kiêm chính nhụt nhiều
Tú cín có có pành hàn hín
Mộng tài phiêu kít khú chàng song
Chui vần thính chụ phiêm kinh lịu
Pành hàn diết sấy suối cám púi huân in
Pành hàn diết sấy suối chía chói
Nàn púi chinh dồng mấy sết phin
Phấy chía pịn chăng ó nghìn vạ
Có có ý pá vạ hền nghìn
Mài phiêm dòi kít vầy chai tói
Mậu dào pẹ mại dạm dào chín
Chui vuần chậy dá chía puôn vạ
Chiệp puôn mậu ấy dạ nàn nghìn
Chó pắng phơi tài mậu chế mọi
Diện nèng tồng lậu duấn quấy vìn
Quậy tháo lòng vìn nhàng pịn khắn
Ngan cín chậy pây khấy lịu chính
Nèng chía túi cín chui vầu duấn
Diệu tái goàng mấy khú nhiệu phin
Nèng chía khoi nghìn phăng muộn vạ
Diên hò quấy nhiệu tháo hoàng vìn
Pịn má chui vần dạm chía lậy
Hò cám lìu nhiều thin chạng pin
Pành hán pịn khuấn pành hàn ố
Nhịa chuất dại chionhf tại dạng thin
Lộ chía vạ nghìn chăng phấy nhiệu
Chinh dồng quấy nhiêu thích dùm diền
Quyên cha phú quấy hò dạm ói
Phấy vày quấy kiếm dáp goàng vìn
Phấy chía kiếm nghìn tài khuyến chạng
Pín chạng lộ nèng pụa mậu chính
Chiệu tài chiếm chiên to dòng hậy
Nám hành kiếu tói chính màn nghìn
Chịu diền kít tú chàng song tói
Tịnh diền mài nhất tú chắng vìn
Pịn pá chính hăng siu tàn chạng
Pái thin pái tậy tóng día nèng
Chúa pái chình thin chúa pái tậy
Vầy chấu día nèng tòng chạng làng
Chúa pái nhụt táo luốn thin chíu
Vầy múi chinh súi cáp siêm nàng
Chúa pái pấy pung chuống lụa chiên
Nhậy nhiền kít púi tún dún lịu
Chíu chá día chiếu cếnh chiên nèng
Pịn chính phấy pung hự púng khé
Ý hiến pành pọ chiếu pui chàn
Mài dún chính nhiêu mài dún quận
Chàng song diết día dọ quyền làng
Pạ dán chiếu tói khé dán lịu
Phấy chía chiêm tông phơi tại chắng
Chiệu pá kiếm cha chui khấu khía
Liều lầy ngòa ố tái cha hăng
Làn chai liệp khí trọng nhuần phấu
Sài quýa nám kinh diết cúa hăng
Chiết chiệp nhậy muồn pai huồng pháng
Nghị chiệp phấy tòi hít ché làng
Chìn muồn liệp khí siu dìu phấn
Hộ muồn liệp khí mộng khoa tòi
Liệp khí tại tòng chông phiêm chói
Muồn pông quáng tại sái puông làng
Chó pin liệp khí kiếm chai họng
Diệu pin liệp khí phộng vàng tòi
Ố bấy chuống tìu ngìu chín chậu
Chiu lọ bẹ nhàn día lọ kiêm
Dụa quýa phăm chiu dạm siêu khí
Muồn chìn phía chất phàm chai dạng
Thin đía chòi nần tái diết cô
Pết pin tòi tào pâu kiềm chán
Chiến châu khói muối cháu kiêm pùn
Kiềm pui nhàn chán trán lộ chiếu
Chui chắng kinh chinh nao nghịt sinh
Khú muối tòi tuông khán dạm chiên
Liều lầy tăng chắn ánh goanh mềnh
Chui vấn túi cín phiêm quyên hấy
Sấy cên nàn cín chía puôn nhiền
Chìn cho pành hàn vạ dạm chiện
Suồi pấy kiềm nhất pến chằng nhiền
Phấy chía goi nghìn chúm búa híu
Khó chậy cha hào pé dạng dòi
Ói khiếu khói tuông chí luồng pú
Cha tuông mài pú chính vầy dòi
Chá khí chàng dùn chin lậy lậu
Tài tháo luống hùng pú tịn tòi
Hông đại luồng hùng mài hự hín
Muộn câu mài hái tháo luồng tòi
Phấy chía tạp nghìn chún búa híu
Câu nèng tài cá pú quàng châu
Hộng đại tự nhiên dòi hò khí
Tịp chuất chiều châu cêu pá câu
Phấy chía chíp châu ón siếu lậy
To chịa luồng hùng chá mậu quây
Duấn tháo siêm chình chiêu vần phấu
Pái chạng tòi tào quang lạng diều
Lộ nèng tú quyên phiên quyên hấy
Dia có guang diều chiêm pú chấu
Phấy chía chộng phơi mậy vầy khú
Tồng kinh mài có sái quang diều
Siếu nhum diết chế tâu thiên bá
Buôi dùn chá mậu tháo tồng kinh
Phấy chía siếu tuông khoi pá chuất
Tâu khí tồng kinh khoa chiếm chình
Chăng tài ón chói chui vần phấy
Diết dằng khoa chiếm nhạy dăng chình
Phấy chấu nhiền chùn sinh chuất quáng
Chui vần lán chái pến cha tình
Tồng kinh mài có hùng dùn ngoài
Dùn cô chế quấy tại mềnh sinh
Thính chụ nhiền sinh ói buôi khắn
Mài hái chòi nần sái quáng kinh
Dùn ngoái diết phiêm chiêm buôi khắn
Lụa có nhiền hầu dòi chạng kinh
Đáp tháo chui vần muồn nhia khắn
Diết dằng khoa kiếm nhậy dằng chình
Tú cín quang mềnh chiền châu pú
Hào quang sái quýa chuống chiêu tình
Dịa mạ chàng sin pịa phâu khắn
Chui vuồn chíp pịa chói tồng thinh
Hành lậy phái phiêm khoi khú vạ
Cuối chá quyên dùn tháo chịn thinh
Chấu chuốt chà nhà chiền châu muối
Chiêm chắn hang chà tài phộng chình
Phấy chía thó chà tài phộng chình
Dùn ngoái chao tào khắn diết pin
Mịn dồng phấy háng goạng diêm nhụt
Sới chạng nằn mai động chía puôn
Chúa có tồng chai to mấy lạng
Mậy dàng nháng tú diết lời puân
Phiếm tuông liệp khi khiền chình chế
Ói mào nhiền mạnh kít nhiền chai
Dùn ngoái khí sin chệ pệ liu
Chuốt muồn chề mạ duốn vùi kinh
Diếu día pháng phây tá bênh chế
Ói mào phấy chía kít vuói chai
Phía chấy vuồn sâu khiếu phang chính
Liạng có on tồng tái phiến tài
On tồng đắp tháo chui vuần phấu
Pịn chíp chui vuần tồng lậu tài
Pịn chậy tồng kinh hùng hùn ngoài
Ói chính chui vuồn diếm chiếu chang
Chiếu chị bài tài diệm vuội hái
Ói kít vuồi hông dòi ché làng
Chui vuần pín búa chàng phấy chía
Quyên cha chính chiếu ché guyên lăng
Phấy chía thính vuần khoi nghìn búa
Chia mặn sao dào dạm tá hoang
Nọi táng diết chầy tá diết quá
Tồng chìn lọ tậy tịnh diêm dàng
Diết quá tồng chín tịnh diệm khú
Chui vuần ý tú chuốt muồn lào
Nhậy có tồng chìn tịnh diệm khú
Mài lậu chiếu hành mậu lậu cuôi
Phấy quá goi nghìn tài phăng khuýn
Ý chiếu nhiên cha nhịa đại phây
Chui vuồn dạm thính chai nhầy khuýn
Diết phiêm ói chiếu chọng nhuồn chai
Chui vuần chiêu tháo chình muồn nhịa
Dùn ngoái chuất tài chíp pịa chai
Chui vuần phơi páng phiêm guyên hấy
Tú chuộng quyên dùn thăm chang
Dùn ngoai làng phiêm hành ó chế
Liêp mào chao chế họi làng phiêm
Tòi táo pái chuốt mời vuần chiếu
Phăng khuyến chui vuần hông đại lòng
Kít quyái nhậy nhiền vuối păn chế
Chui vuần chiếu chuội chạng chòng nghìn
Dùn ngoái khoi phang tịp chuốt pú
Ón chói chui vuần săm lậy tuông
Mại chong chui vuồn thào nịp pú
Chính tài diếm chiếu vuội hò diên
Chui vần goi sinh pậy diền váng
Suồi pây diền váng tộ làng phiêm
Chạng mài chiết phinh thái pẹ híu
Dia mài chiệp tịn híu diên diều
Dùn ngoái pịn chai chiêp hự có
Khí khiêu khàng cho phấy chín tài
Diên vuội chui vuần tháo nịm pú
Chó muồi phấy chia kít vuồi chai
On tồng tái phó tài tháo ón
Khoi nghìn pín búa diết chông diên
Dùn ngoái chai tài mậu pết dại
Diên vuôi chui vuồn nịm pú châu
Phấy chía phây tài phiêm tuông nạu
Dùn ngoái mài khi chinh luồng chiếu
Chiệp hự on tồng nít tằng táo
Chó nghìu diệu thúi dạ nàn đút
Diêu dào min sết luội tằng liều
Púng chuất nhậy nhiền quây búa phiến
Dùn ngoái mài nần tài sái câu
Nhậy nhiền quây cha thông búa phiếm
Dạm chậy hền pin nhiêuh họng câu
Dùn ngoài thính vần diền diều dại
Phiên tuông dáo día pé tìu diêu
Dùn ngoài kinh trình nhiền to chuống
Cháng chậy diệu dào nàn nọi tầu
Tịu khí luông panh phăm chin có
Nhiền mạ chùn chùn lậu chạng hành
Chùn chùn khiếu tháo chuo vần phấu
Phăm dằng vầy quýa dạm thông puông
Cao sinh nao má chăng phấy chía
Mài nần chuất khắn goi mầy síu
Phấy tú tìa to phiêm chính làng
Goi khấu má sinh hùng dùn ngoái
Quấy chía pịa muồn nịm khí chiếu
Phăm chin panh mạ sết vần âu
Dạm sái chăng to dạm lào lệ
Niều vần pành nọi chói dáo âu
Púng chuất diết mềnh quây búa phiến
Chính híu sìn thồng hến tại câu
Dùn ngoái phăng phơi mậu đào kháo
Ói tháo thin po phấu nọi diều
Thin po mài có lý sìn sáng
Vầy quyên chấu dại sùi quân chinh
Pín búa lý sìn dói bái chế
Kiếp giếu pạnh tào chuất sính chinh
Thin po pái tào chuất thin muồn chặm
Phấy chía phơi tài dạm tá nàn
Buôi chạng piến thin púng nghin khắn
Thin po quyên phấy diết dòi pan
Diết chệch diều má phát giạ tậy
Pến chin pến mạn nhiệt cha panh
Thông chình chắm pại thin po phấu
Dằng hù nhậy phấu diết dòi pành
Khoi nèng diết pá pong po sín
Lìn panh lìn chúng luội song liều
Tá chặm dạm hình diều sú khó
Niều vần pành nọi chính dào diều
Liều gia ký sìn hùng dùn ngoái
Đọ quyên mậu chúng váng phàn phiên
Sìn sáng khoi mầy chao kính chíu
Chíu tháo piền thin khắn dam mềnh
Pháy chía piềm thin goi sinh má
Lẻng có chún nhầy dạm tía chìn
Lẻng có nghìn mấy dạm chía pú
Vắng phấy đam mềnh tóng hái pin
Chìn hộ pây tài nàm hò nọi
Phăm canh piến día chạng hùng chình
Pái pín hìn chông sính hùng chiếu
Chồng tào diết nhậy lớn chinh chinh
Hìn chuông thính lịu diên diều dại
Hé tú hìn chuông phiêm lậy kinh
Vấn lịu chía to quyên dùn phấu
Cán giếu thin po nhậy phấu chình
Chun hùng tịn chạng khoi kiêm khấu
Nằm chun nhiệu chắng diết btoongf hành
Cúa chạng nhiều to dạm día tú
Chiết chiệp nhậy vạn khú huông panh
Diết tím tông pung chạp diết mụa
Chinh chế chinh hộ hắng chìn hành
Nhậy tím nàm pung pềnh tênh húa
Chế chế chế hộ hắng chín hành
Gư tím chuông giăng mù khú thú
Vàng chế váng hộ hắng chín hành
Hành quýa chình sên sên băng lụi
Hành quýa còng hò chị súi gai
Chùn chùn vuồi chính chưu vần phấu
Phăm dằng phấy diệm dạm thông puông
Phấy chía muồn chín liệp nghin khắn
Chia chún panh tào dạm tá hoang
Diết diệm nàm panh nhạy diệm nhiệu
Khò liền thính mạnh dạm quây hăng
Chiệu pá kiềm cha chui khấy khí
Tại puông tại í phát thin ấu
Páo hắng phăm sinh kinh thin tậy
Nàm chun nhiệu chắng diết dòi pâu
Phấy chía hậu sinh lụa chấy mụi
Diết chầy vụi chún piếm thin diều
Diết có pến chiu chiu pến mạn
Chin chin mạn mạn nhiệu cha châu
Diết to buôi khiếu sết phạm có
Siêu tô nhậy mạnh diêm kiều
Phát chuất thịa puông lọ thịa í
Thui hóa chặm chìn dam cín say
Khò liền thin po pàng hú phấu
Pại lịu phăm quyên lụa tống chun
Diết chầy sết pó thin muồn chặm
Sết tú thin huân tậy dạ âu
Dạm día thin po hùng panh chuống
Niều vần pành nọi chậy dào diếu
Tái diết phăm quyên dằng vần quáng
Dằng cha tại chúng chắng chìu phin
Tài diết phăm quyên dằng vần quáng
Phăm chúng nần khằng dằng lụa lòng
Lìn chúng lìn panh chắng vấn lịu
Dạm pơi phính mạnh tú quây siăng
Liều giạ thin po lí sìn sáng
Liều pá vùi chíu duấn búa kinh
Sìn sáng phơi tài tong dạm khí
Song đằng giạ cuội pái sìn thống
Pung chuất nầu sá sìn sắng mạnh
Quây húa hìn chuông tú híu chinh
Hìn chông hùn chình tá tại cú
Kình động vần quyên ú chùng dòi
Nghìn búa có quyên dại chình tại
Dạm lớn nàm panh nhiệu chúng dòi
Cán cán hành panh kiếp giếu cúa
Liếp lệ tồng phiêm tá tháo goi
Quyên chạng cha quyên chế cha chế
Puông vầy cha chế chắng sùng toi
Phăm hù phấy kiếu mậu nhiền ếnh
Hìn chuông chậy dá chậy dào chình
Vuần quyên pấy nắng nài chêu pếu
Ú chúng động ghì mụa hóa chinh
Hùng tía phăm sinh mậu nhiền ếnh
Hùng tía còng sên kháo hái nhiều
Diết có dại chình thin dạng tại
Khí chui hìn chông mịn sết âu
Hìn chông phún tịnh pệt khía phấy
Phăn táo giạ nài pạn tậy pâu
Vui lậy có quyên mài phàm pé
Có chúng có quyên chắng lội liều
Mạn dai chìu tuông mài sín sáng
Pêu vần dại chắng chìn chiêu
Pín búa hìn chuông ý to mấn
Chía nọi quyền phiêm dạm día diêu
Khoản dạo pao vần phơi mộng khắn
Pháng chinh phấy phấu muộn con diều
Siếu thó chinh hăng mịu lọ pái
Mầy vần chóng chặng sứ diên diều
Tây phấu thin tòng chắng sứ chiện
Diều tháo lình siu pú tịn diều
Nhụt thùng tịn chạng khoi kiệm khấu
Chía muộn pao vần kiêm pú châu
Chìu tuông vậy diện hái puôn dại
Chí vậy diêm hò chạng chài diều
Pao vuần pái pín kiềm chai chạng
Lình siu tịn lậy sứ diêm diều
Phơi tài dạm diêm hái puân dại
Chí vậy pàm cin phán lụn chiêu
Dạm híu thin chuông hái phinh táo
Pàm cin phám lụt tú phàm chiêu
Nhụt hùng tá gọi thin mầy kính
Chính cín thin tòng phấy chía châu
Thin chuông chuộng mãi dân hín ché
Nần cô chế tại kiếp buôi diều
Hành chía thui buôi dùm tào nạo
Phấy chía khí hành kiếp duấn chiêu
Ói khú kiếp vùi thin chuông nọi
Dụa diền dạm duấn dại tài âu
Phấy chía thính vần phiêm tuông mậu
Chắng muồi hành chía giạ tài tầu
Kiềm cha chiếp tào nim khấu chiến
Pến pó hùa phinh buôi chạng diều
Hùa phinh động ghì luồi liếp lịnh
Hành chía pậy sì siu liu mầu
Mậu mịn vùi quậy thin chuông nọi
Phơi tài mậu chế nọi hò tầu
Diệt tài chai gia sân hín ché
Nhậy tài cha gia chuống thin châu
Chai giạ thin panh mậu chin mạn
Ừ luồi liếp lịnh giạ thin kiều
Phấy có thìn hùng cháng chai giạ
Dạm mài hái có nọi hò siêu
Nhụt hùng chậy pháng chậy phàn cháo
Mậu chế nọi hò phấy chía châu
Nhụt hùng tin chạng gọi kiên khấu
Hùng mậu thui kiêm chía thích nghìn
Nọi tú phấy chía quây thin chái
Miện chụ chin tìu siệu khâu sin
Dụa diền dạm tú phấy chía duấn
Mạn dại on bài hùng mậu sin
Hùng mậu thính phải vần bé dán
Phiêm tuông dào día lội lìn lìn
Nhậy chía goi nghìn tài phăng khuyến
Nèng nèng ý día quá phiêm pin
Chấy mụi lọ nhiều dồi vụi chế
Bài mềnh chao chế giếu nèng sin
Hùng mậu thích vần mài khú chế
Chiệp puân dào dĩa chiếp puân quyên
Chiết chế lạnh mềnh giạ pành khuyến
Thui dùn chá mậu giạ viền viền
Phấy chía chét mành dòi phăng vụi
Phái phiên thì chuất khú kiêm nghìn
Khuyến chía quyền phiêm quây chạng chái
Ý chói pàn cên nin quýa min
Càng vùa pin chiếp vừa tậy
Nọi vùa pin chiếp nọi vùa tìn
Phin nhiều pin chói phin chuông thin
Tấu nhiều chuông lậy khú quyền phiêm
Nhất diệm thái dáng phúi quýa phúi
Día biện diếm thái nin quýa nin
Phấy chía phàng phơi chin tìn mấn
Dạm duấn thin chuông dại dạm chinh
Chó phơi diện pháng nàn hò nọi
Bêu tụn chui vần chin mạn nin
Chia có luồng chuông chiền châu pú
Thui dùn chá mậu duán pui hoàn
Púi khí kinh chính thui dùn khiếu
Vùi chịa tồng kinh khoa kiếm chính
Siêu chiệp dòi chùn tùn lịu
Thui dùn chá mậu chạng thin vìn
Tấu nhiều phin chuông thin phin tịa
Phấy cóp thin muồn chắng chậy phin
Phấy quấy bài hòng nào nghịt hấy
Sìu dìu khoái lọ quýa tắng nin
Bên giạ chui vần pắm cên chặng
Diêu dáo đọ sáy quýa tàng nin
Chin nhất síu hòng chin nhất pái
Phấy tú vụi puồng phây chía phin
Chóng chặng chin chiêu mộng dạm kín
Chị chạng khên nhiều chịt lịu in
Chin nhiều nắng lịu chui vàng phộng
Hò khấn tố hàn khú quýa nin
Suối nhiều pấy tú chăng pấy chía
Sưới nhiền híu lịu cấu tuồng nghìn
Phấy chía câu nghìn chố chạm chiện
Hái nhiều híu chiện thíp sâu pin
Híu khấu chi nhiều ói chùn cấu
Nọi phàm chia chuất chói sâu pin
Sâu cấu chùn tài mài còn puấn
Không khấu chùm tài mài chó nghìn
Thán cấu chí nhiền mạnh tuông kháu
Pấu chóng dạm chuôi tấu tuông nghìn.
Dịch nghĩa:
Truyện kể người con gái thứ tư của Ngọc Hoàng
Truyện xưa kể rằng: Ngọc Hoàng thượng đế sinh hạ được bảy người con gái, hàng ngày bảy chị em luôn quấn quýt bên nhau chơi hoa chăm quả, lúc nào cũng ríu rít như đàn chim, họ nhảy múa hát ca suốt từ ngày này qua ngày khác, các cô càng lớn càng sinh tươi, mặt hoa da phấn. Trong một lần đi chơi cùng các chị em, cô con gái thứ tư đi lạc xuống trần gian. Nàng lang thang mãi rồi gặp gỡ một chàng trai mồ côi, không có bố chỉ có mẹ già. Mẹ già ở nhà, con đi kiếm củi, làm thuê kiếm tiền nuôi mẹ già. Nàng gặp chàng và nghĩ rằng đây là duyên phận nên muốn lấy chàng làm chồng. Chàng biết nàng là dòng dõi nhà tiên, xem lại thân phận của mình nên không dám nhận lời lấy nàng nhưng nàng cứ tha thiết muốn lấy chàng trai mồ côi làm chồng. Nàng đòi về nhà gặp mẹ già và xin làm dâu. Chàng không đồng ý vì sợ gia cảnh mình nghèo khó nhưng nang nằng nặc đòi về. Chàng đồng ý đưa về nhà, khi về đến nhà, thì thấy nhà chàng quả khó khăn thật. Nàng nhìn thấy mẹ già quần áo không có để mặc, cơm không có để ăn nhưng ý nàng đã quyết, nàng vào xin mạ già cho phép được lấy con trai mẹ làm chồng, giúp chàng nuôi mẹ già nhưng bà cũng giống con trai, thấy gia cảnh nhà mình túng thiếu, nghèo nàn, con trai mình mồ côi cha từ nhỏ, mẹ già lại ốm đau, yếu ớt trong khi nàng là giống tiên rồng, cao sang phú quý nên bà cũng một mực khăng khăng từ chối nhận nàng làm dâu. Nhưng nàng khuyên can mãi thì bà cũng đồng ý. Rồi một lễ cưới chỉ có ba người với nhau được chứng kiến và thế là họ nên vợ nên chồng. Từ khi cưới nhau xong, sau một đêm thức dậy, cả bà mẹ chồng và chàng trai mồ côi đã thấy mình được sống trong một ngôi nhà khang trang lộng lẫy như một tòa lâu đài, đồ dùng trong nhà không thiếu thứ gì, có kẻ hầu người hạ tận nơi.
Trong vùng có một ông quan tên Hùng Nhuần Hoái thấy chàng trai mồ côi tự nhiên lấy được vợ đẹp lại bỗng chốc trở nên giàu có cao sang bèn sai quan lính đến dò hỏi thì biết vợ chàng là con gái thứ tư của Ngọc Hoàng thượng đế nên lòng ghen ghét nổi lên. Quan sai 15 quân đến bắt nàng tiên về làm vợ. Khi đến nhà, được gia đình đón tiếp mời vào gian giữa, lấy nước chè mời uống đàng hoàng. Rồi sau đó, nàng cho 1 người về báo tin rằng nàng không đồng ý, còn lại 14 người kia bị nàng giữ lại. Quan tức giận khi thấy nàng đã không đồng ý về làm vợ mình lại còn giữ lại quân của mình mà không thả ra, ông giận giữ đem 150 quân đến không được mà cũng bị giữ lại, quan đem 1.500 quân đến cũng không lấy được nàng về làm vợ, quan huy động hàng vạn quân lính đến vây quanh ngôi nhà nhưng vẫn không mang lại kết quả gì mà quân cứ vào đến đâu là bị nhốt chặt đến đó. Quan tức giận vô cùng kiện lên Ngọc Hoàng vì đã để con gái xuống trần gây rối, bắt hết lính nhà quan. Lúc này, Ngọc Hoàng mới kiểm tra lại thì đúng là ngài có người con thứ tư đã xuống trần và kết duyên cùng chàng trai mồ côi. Ngọc Hoàng đã cho quân xuống bắt nàng về. Nàng van xin thế nào vua cha cũng không đồng ý một mực đưa con gái về hoàng cung. Cuộc chia tay giữa nàng và người chồng thật buồn thương, không nước mắt nào tả xiết, người mẹ già nhìn cảnh các con buồn thương lại càng lâm bệnh nặng hơn. Nàng bị quân lính nhà trời bắt đi xa dần xa dần rồi mất hút. Khi nàng ra đi, cảnh nghèo khổ ngày nào của mẹ con chàng mồ côi lại tiếp diễn.
Cũng giống như các vùng khác, xã Trung Tâm từ xưa vẫn truyền nhau câu truyện thơ truyện thơ có xuất xứ từ Trung Quốc "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài" nhưng nó thể hiện tâm tư, tình cảm của cộng đồng, được ghi chép cẩn thận và lưu truyền rất rộng rãi:
ÈNG TÒI CẤU GHÌN DUNG
(LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI)
Pham pé nìn cô hắng chìn khiếu
Èng tòi chói hố thó sâu ngìn
Khấu tháu họ tòng tộ sâu hỏng
Chiệp puân quyênhấy tộ sâu ngìn
Nhị nhân giòi chuộng chiệp họ quyện
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Phía dẳng nhị nhân chuổng péng pắt
Tòi thiên tộ sâu chuộng nhất pin
Nhị nhân chói lọ tòng lấy
Tộ sâu phía dẳng tú tam nin
Tộ chiến kinh sâu trin pé puấn
Èng tòi phấy pháng diếm cha vìn
Nhất tài phây chụ lòng día chía
Nhị mộc dàu día mẩu xong lìn
Chai tàu mái tú gằng dầu chấy
Èng tòi phía suất mạn sầu ngìn
Chệ pệ phìn sanh lòng quây khấu
Nhị nhân thau siếu sluất muồn chìn
Thau siếu nhệ miền pịn nàn sía
Làng tam phang púng kía chai pin
Phúng tráu lậu tàu dặm sía líu
Nhị thiên thau siếu tún kiêm ngìn
Èng tòi búa kiếu làng pham dé
Nin hô sin mạn tháu cha vìn
Phúng tháu lầu tàu có chấy khấu
Nhị nhân sau siếu có cha vìn
Pham pé kiệu quôi họ tòng lấy
Èng tòi quây duốn chậy muồn chìn
Día lấy dìa nhàng phiêm quyên hấy
Tú kín èng tòi tháu mịn chìn
Sin thiên ây xam kháng tút líu
Chuộng có nhâu nhân nin kía nin
Tam tứ quê tháu họ tòng lấy
Phiêm tuông dàu día dẫu khoi ngìn
Khấu pịn tộ sâu phiêm pị pháng
Pliêm tuông dã ói duấn cha vìn
Tam tứ phây làng phiêm phây duốn
Sâu phang siêu khí thuất mần chìn
Quê tháu èng tòi nhuần chìn chói
Huống chìn khói khấu muộn pao ngìn
Èng tòi thính chụ làng tam tứ
Nhân sin chong có thính chai pin
Tam tứ tháu siêu dặm phang chía
Èng tòi thau siếu thính khoi ngìn
Tòi thiên tộ sâu pin tử mui
Tam tứ phiêm tuoonng dặm siến ngìn
Dặn siến khoi phang tiệp sâu tói
Làng tam thính siến mui chiên ngìn
Tòi thiên nhị nhân tòi sâu dặng
Làng tam thính siến mụi chiên ngìn
Pin muộn hái chiêu hái quyện khé
Diền hò tài tháu ố vìn pin
Pịn chấy chuộng chiêu làng tam tứ
Èng tòi tú chuộng chói tam nin
Èng tòi búa chiêm mụi dìa chía
Dìa chía thính nhàng suất diết sing
Nhị nhân chuộng chói họ tòng lấy
Chuộng hèng chuộng chuội sâu pìn
Tam tứ thục sinh sính chiên mụi
Nhị nhân thính híu mụi chiên ngìn
Dìa nhàng thính chụ dìa chía vủa
Cha tưng siu khí phộng chà chìn
Èng tòi thó chà tam tứ diếm
Họp pùm tò chịa thó tòi pìn
Dặm siến pòng chìn tam tứ khiếu
Èng tòi phang pháng suất mần chìn
Èng tòi pín búa làng tam tứ
Búa lòng pháy thính mụi kiêm ngìn
Dàng sấy lậu tàu mạn tú lìn
Èng tói búa chiên làng tam tứ
Quôi cha ý día quá phiêm pìn
Chói dụa kiêm phây chính lìn khấu
Dặm pây mạn púi chía tàng nin
Làng tam phiem tuông tồ dàu día
Khấu tuông gom luổi lạ lìn lìn
Dìa día tủ kín làng tam tứ
Dìa nhàng tú kín luổi lìn lìn lo
Cha lấy dìa nhàng muộn tam tứ
Tuông vẩy hái día dàu phiêm pin
Dầu hò lọ líu mịn khé khiếu
Vuẩy hò dàu día hái pin pin ngìn
Chói lọ họ tòng vuẩy hái chảy
Vuẩy hái diền dầu dàu día pin
Tam tứ thính chụ dìa chía vủa
Khấu dẻ khoi ngìn luổi dả lìn
Piên tuoonng tồ dàu dẳm vuẩy hái
Dìa chía mịn chìn thính pháy ngìn
Chuộng chói cha tuông khiếu họ quyện
Vuẩy chụ èng tòi tháu lẩu pin
Nhị nhân lẩu ngũ phang tún tỉnh
Khống chú tộ sâu chuộng nhất pin
Sín puống nhị nhân chuộng pá sin
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Tộ sâu tam min dẳm phang chía
Duối nhất thính pấy chiên quá ngìn
Dìa nhàng thính híu dàu phiểm líu
Dặm tú èng tòi tháu siếu lìn
Dìa nhàng thính chụ tam tứ chủa
Ý dụa tồ dàu hái dặng ngìn
Hố nhất dìa nhàng khiếu phang muận
Hố nhất mài tin chổng tú lìn
Tam từ dìa nhàng hắng khấu muộn
Pin muổn àng tòi dìa chía ngìn
Èng tòi dìa chía vủa khò phí
Tăm tứ mẩu dùn khùng quá ngìn
Léng líu mái cha thình chà phiến
Tam tứ mạu dùn khùng hẳn sin
Tam tứ ói lìn dẳm điểu vủa
Dùn thín mái chạ tỉnh líu chìn
Mai chạ diếu mộc tú lìn khiếu
Khò phí hàng mùi khung hặm pin
Tam tứ mài chìn pết sấu muổn
Dẳm hẳn èng tòi dặm tú lìn
Èng tòi thính chụ hèng mùi pin
Búa riếu hèng mùi thính mụi ngìn
Quây cha búa kiếu làng tam tứ
Ý hẳn èng tòi quá tậu ngìn
Diếu tài tam mộc tú lìn mùi
Dìa chía sẩy kiêm leng nữ chìn
Nhị nhân chụ mẩu tài puẩn
Liều gia chiền phiêm hố sấy lìn
Bèng mùi thính chụ èng tòi vả
Khấu tuông vậy vả pin nàn lìn
Hanh mình búa chiếu dặm tú púi
Diếu tài than siếu suất muần chìn
Èng tòi mài ngìn dặm khú vả
Sin ngũ ấy xam thút dết pin
Ây xam phía chàng siền siếu phiến
Chúy búa hàng thôi quây duấn vìn
Quê cha pin pá tam tứ tộ
Pháy khoi tộ khán mủi tam ngìn
Mái cha dàng thủ tú lín khiếu
Nhị nhân diêm thôi mạn mộc lìn
Tam tứ kín sâu thán siếu lây
Dẳm pây diêm sấy siếu cha vìn
Pin pá ầy xam tham cếnh phấy
Chà tuông dàu día dẳm pây thiên
Dìa nhàng tú kín tam tứ phẩy
Chiệp puân khò phí dẩu khò liền
Lòng chía phiêm phây liều dẳm duẩn
Động dỳ tô cháy tủm con xin
Khấu chính phin sanh tài tạp tậy
Cháng chói tồm chiêu tại lẩu pin
Cháng trói tồm chiêu tại lẩu phấu
Pin pá èng tòi hặm siếu lin
Èng tòi hàng chá tại lậu kía
Tú kín làng tam châu cháng in
Hèng kía mỉn chìn khoi chía kiếu
Tam tứ mài dình khoi chấu lìn
Tứ lình tứ sín phân mú khai
Ử lìn ư sín má kha thai
Ỷ pín tân kho pài lồng huấy
Ỷ pín cao quan siếu páo thài
Tam tứ mài lình pịn khoi chấu
Díp tú èng tòi tháu siếu lìn
Tồng tho nhị nhân vả kín
Khiếu nhân tự mộc pịn tú lìn
Tam tứ tú lìn èng tòi khiếu
Pêu giạ mái cha chói sấy min
Nhị nhân oeens chằng in dang tử
Buôi ngũ thiên tông dòi tú lin
Mã cha piên tú nhàng chin chúa
Thập hẳn èng tòi dăm thôi lìn
Pịa chây èng tòi làng tam tứ
Buôi ngũ thiên tòng hắng họp chìn
Mái cha dẳm siến đam thiu vết
Pến tòi in dang buôi ngũ thiên
Seng chấy nhị nhân chuổng pếnh pắt
Phấy chấy nhị nhân chuổng họp chìn
Siếu thôi diêm phây thính tú púi
Chố chấy cấu ngìn chùn thôi min
Tam tứ thôi cúi tú lìn khiếu
Nhị nhân dau siêu ngũ chinh thiên
Buôi kía mái cha muồn chìn nhịa
Mái cha tư kín luổi lìn lìn
Dịch nghĩa:
LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI
Sơn Bá niên cao hướng tiến khổ
Anh Đài đi sau tiền học đường
Đi đến học đường đọc thư viện
Cảm thấy vui vẻ được đến trường
Người cùng trường học chung một lớp
Ngày thì chung đọc ngủ cùng giường
Viết chữ hai người chung chiếc bút
Cùng bàn đọc sách cùng một trang
Hai người cùng học ở trường đấy
Đọc sách viết chữ được ba năm
Dùi mài kinh thư trăm nghìn quyển
Anh Đài suy nghĩ muốn về nhà
Thứ nhất nhớ mẹ hai nhớ bố
Lại lo sau này không có duyên
Đoạn đầu mua được quang dầu đấy
Anh Đài viết ra ý rất nhiều
Tạm biệt tiên sinh còn phải về
Hai người chào chúc cùng chia tay
Hai người chia tay khó mà được
Sơn Bá tiễn đưa một đoạn đường
Tiễn đến đầu đường nói khó hết
Bắt tay hứa hẹn rất rất nhiều
Anh Đài khẽ bảo Lương Sơn Bá
Sau này Sơn Bá phải đến nhà
Tiễn đến đầu đường chia hai ngả
Hai người tay vẫy cùng chào nhau
Sơn Bá quay lại về trường học
Anh Đài về đến bố mẹ nhà
Bố mẹ Anh Đài rất mừng vui
Được thấy con mình đã tới nhà
Thay hết nam nhi bộ trang phục
Trang phục con gái thật là xinh
Sơn bá về đến nơi trường học
Tâm tư buồn chán khó học bài
Buổi sáng buồn không muốn rửa mặt
Trong lòng buồn chán muốn về nhà
Miệng thì đọc sách tâm suy nghĩ
Tại sao mình cứ muốn về nhà
Sơn Bá tâm tư càng nhung nhớ
Thu xếp sách vở rồi lên đường
Về đến gia đình Anh Đài thấy
Trước mặt Anh Đài hỏi mấy lời
Anh Đài nghe chuyện Sơn Bá nói
Hai người khẽ bước chân ra ngoài
Sơn Bá giơ dơ tay xin phét hỏi
Anh Đài giơ tay xin trả lời
Cùng trường đọc tính là muội
Sơn Bá trong lòng chưa dám tin
Nếu như không tin cho xem sách
Sơn Bá thấy thế thì đúng rồi
Đối chữ trên bài giống nhau hết
Lương Sơn mới biết muội là em
Cho hỏi ở đâu khách xa lạ
Vì sao lại đến trước cửa nhà
Anh Đài bảo thật mẹ của muội
Bố mẹ của nàng hỏi nàng một câu
Chắc rằng đây là Lương Sơn Bá
Anh Đài cùng ở cùng học ba năm
Chúng cháu học cùng ở trường đấy
Cùng đi cùng ngủ sách cùng trang
Bây giờ Sơn Bá mới thấy muội
Hai người mới biết muội chân tình
Mẹ nàng nghĩ thấy chuyện của bố
Gia đình đun nước pha ấm trà
Anh Đài mời trà Lương Sơn Bá
Trà khay đặt xuống để ở bàn
Cảm tạ trà thơm chàng được uống
Anh Đài tiễn đưa Sơn Bá về
Anh Đài bảo cậu Lương Sơn Bá
Bảo chàng hãy nghe muội nói vài lời
Trần gian vô duyên không lấy được
Hai người về âm sẽ thành duyên
Anh Đài bảo thật Lương Sơn Bá
Về nhà chàng đừng quá buồn sầu
Chắc chắn về âm có duyên phận
Âm duyên mãi mãi sẽ không già
Lương Sơn tâm tư buồn đau khổ
Giọt lệ lúc nào cũng trào tuôn
Bố mẹ Sơn Bá nhìn chàng khóc
Mẹ mà nhìn thấy nhỏ lệ tuôn
Bố mẹ gia đình hỏi Sơn Bá
Vì sao lại thấy con buồn sầu
Vì sao nét mặt luôn đổi sắc
Buồn sầu như vậy là vì sao?
Đi học ở trường có gì vậy?
Vì sao nguyên nhân vì cái gì?
Sơn Bá nghe thấy bố mẹ hỏi
Miệng cũng trả lời lệ cũng tuôn
Trong tâm buồn sầu con suy nghĩ
Vì con đã mất Trúc Anh Đài
Đã cùng Anh Đài một trường học
Mẹ thầy bảo Sơn Bá không lo
Chúng con hai người đã hẹn ước
Khổng Tử đọc sách chung một trang
Quạt mát hai người chung một quạt
Cùng học ba năm cũng sống ba năm
Bây giờ mới biết thấy xuyến xao
Mới biết Anh Đài là con gái
Không được cùng nàng thành vợ con
Bố mẹ nghe thấy Sơn Bá kể
Không phải nghĩ về chuyện này
Vài hôm bố sẽ đi dạm hỏi
Sẽ cưới Anh Đài thành vợ con
Bố mẹ Anh Đài nói rất tiếc
Nhưng vì đã có Mã Văn Tài
Sơn Bá đến sau không còn phận
Đành để chỗ khác hỏi nàng xuân
Anh Đài nghe thấy thật tội nghiệp
Rất thương Sơn Bá đáng tủi thân
Sơn Bá có lòng không đến sớm
Bây giờ đến muộn rất là buồn
Bố mẹ Anh Đài đã nhận lễ
Sơn Bá vô duyên bị đến sau
Văn Tài sơn đến được duyên phận
Bỏ lại Sơn Bá sống đơn côi
Sơn Bá có tiền hỏi phương khác
Đừng trách Anh Đài không nhận hôn
Anh Đài nghe chuyện người làm mối
Gửi lời bà mối về đến nhà
Về nhà bảo cậu Lương Sơn Bá
Đừng mà nhớ quá Trúc Anh Đài
Sớm đến ba hôm chàng sẽ được
Nhận lễ Văn Tài rồi khó thoát
Ngậm đắng nuốt cay đành chịu thua
Hai người trần không lấy được nhau
Để lại trân tâm âm thế liền
Anh Đài có lời nói không hết
Xé áo thân thể viết thành thơ
Viết thành ý thơ gửi bà mối
Gửi dặn bà mối mang đến nhà
Đến nhà đưa cho Sơn Bá đọc
Sẽ mở ra đọc ý của nàng
Văn Tài dương thế được lấy muội
Nhị nhân âm thế sẽ thành duyên
Sơn Bá đọc thơ rồi suy nghĩ
Chắc gì âm thế đã thành duyên
Chàng đọc thơ nàng khóc muốn chết
Cả nhà buồn bã không hiểu sao
Mẹ chàng nhìn thấy con mình chết
Thế bà vừa tiếc lại vừa buồn
Bố chàng suy nghĩ không thiết sống
Như dao cắt ruột rất là thương
Đi đón tiên sinh để xem địa
Táng tại đại châu đại lộ biên
Táng tại đại châu đại bộ phủ
Còn để Anh Đài đến đấy biết
Anh Đài xuất đi đến đấy
Được thấy ngôi mộ thật đau thương
Đi đến trước mộ rồi khẽ gọi
Đón được Anh Đài đến kết duyên
Hữu binh hữu thiêng khai phần mộ
Không binh không thiêng vợ Văn Tài
Nhật điểm tân kho bầy long vị
Nhất cao quan hưởng ngọc đài
Sơn Bá hữu binh khai phần mộ
Đón được người tình đến tận tay
Trần gian hai người đã hẹn ước
Bây giờ về âm ta cùng duyên
Sơn Bá được chung Anh Đài nữ
Thừa bại Văn Tài ở thế gian
Văn tài đón được nàng chân váy
Không được Anh Đài đến tận tay
Thành đôi uyên ương Anh Đài Lương Sơn Bá
Bay tận trên trời háo thành tiên
Sống ở trên trời chung chiếc bút
Thành tiên hai người giống hộp tiền
Văn tài tức giận vác thuổng đao
Liền đôi uyên ương bay lên trời
Trong rất nhiều nội dung của "Pá dung", phần phản ánh thực tế lịch sử xã hội tộc người luôn chiếm vị trí quan trọng. Trong cái muôn màu của thực tế đó, có một nội dung luôn được đề cập đó là thân phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ, họ lên án cái khổ, cái lễ giáo phong kiến, khát khao tự do. "Nhị nhàng dung" (Khúc hát người làm dâu) là một trong số rất nhiều tác phẩm như thế đến nay vẫn được cộng đồng nơi đây truyền nhau ca hát:
NHỊ NHÀNG DUNG
(KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU)
Diên chói tấu tuông nhân tài muộn
Lọ dịa pham chiu nhân tinh chùa
Nhất canh tịnh híu chằng long ngó
Dia chía sấy kên lánh híu chùn
Chiệp nhất chiệp nhị nhân tài muộn
Chiệp tam chiệp tứ chính mủi chiển
Chiệp pham chiệp phấy chắng lụa ngó
Chiệp hứu chiệp của cháu miền ca
Chiệp chua nhị chiệp chằng tháu tạy
Pùa tàu đam đám siếu khên chày
Tai cha vuột co say chía kiếm
Tai phấy vuội co say piếm phiệm
Siếu nhun dâng cán siếu lìm ố
Dây cám pụa dằng dổ pụa dằng
Nhất canh tại chén ô vìn lầy
Nhị canh tại chói ô vìm pin
Tam canh thác mãi giả hò cắp
Tứ canh giả cắp mản liều chang
Hứng canh pụa vìm cắp chiếu tsói
Thinh găng trong pệm tại pé diếm
Tại pé sam pùng dân nhụn nhì
Thình gắng chong pệm phiu pế diếm
Dầu sấu sách nhàng lầy sách chấy
Thin gắng chang pện pam pé diêm
Pam pé chíp tài bêu ghịa lầy
Chây phiu phang in dịa lầy chíp
Chíp tài tò duấn pá mụ chầy
Tài nhất co câu chuộng lầy sồ
Tài nhị co câu bình ên phiêm
Tài tam co câu dên hai phấu
Tài tứ co câu diên phâu phiêm
Tài ngũ co câu dùn nhà ấy
Mâu dang man day siếu câu quê
Dặm chấy chiu muốn día lấy tắng
Tài pé vùi tài giả mà quê
Nhị nhấn dịa má pái pham pái
Pái thém nhụt chìa nhàng dằm quê
Chong tàu mái tói kiêm khoa chậu
Kiêu pá lụa lòng tịnh hố tsong
Tình tú hớ t sang hắng nhằng dắng
Phộng trìu cong súi tố liệu phay
Cong súi tố mình dắm tổ duần
Ké mụa biên sành nhàng dằm cuôi
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU
Còn ở trong bụng người đến hỏi
Lọt lòng ba hôm người định trà
Canh một người đã định hôn lễ
Bố mẹ lúc ấy nhận đủ tiền
Mười một mười hai người ăn hỏi
Mười ba mười bốn mới thành niên
Mười lăm mười sáu nhận hẹn ước
Mười bảy mười tám đến nhà chồng
Mười chín hai mươi sống cực khổ
Tay cầm chiếc chổi quét rác nhà
Trong nhà rác rưởi quét rất nhiều
Quét nhà xong hết lại quét sân
Canh một trong nhà phải giã gạo
Canh hai giã gạo ở ngoài hè
Canh ba vo gạo ở ngoài suối
Canh bốn bên trõ bắc nồi xôi
Canh năm vào vườn hái rau rượu
Đến khi trời sáng chín nồi canh
Trời sáng sắp cơm xong mời bác
Bác cả lấy mâm ném xuống vườn
Em thím nhanh tay đến đỡ lấy
Không để xóm làng nghe tiếng kêu
Sắp mâm thứ hai cho bác hai
Bác hai lại chê nước canh đục
Lại bị bác hai mắng chửi nhiều
Bà cô thứ nhất chê cơm sống
Bà cô thứ hai chê gạo đen
Bà cô thứ ba chê nàng chậm
Bà cô thứ tư chê nàng lười
Bà cô thứ năm được nàng ý
Dù hay dù dở chờ anh về
Em có trong hòm mấy bộ áo
Giao cho bà thứ năm dùng
Đầu giường có đôi vàng ta dũa
Để cho anh chàng hỏi vợ hai
Hỏi được vợ hai như nàng ý
Mấy dòng suối chảy về nguồn
Dòng nước chảy đi quay lại được
Lúc đấy thì nàng mới trở về
Một nội dung rất quan trọng và chiếm nhiều bài ca trong "Pá dung" của người Dao là những khúc hát giao duyên, hát tâm tình, hát trai gái tìm hiểu nhau, hát mừng hạnh phúc lứa đôi trong các đám cưới. Dưới đây là một số bài hát tiêu biểu:
Bài 1: THÁN MIẾN TÒNG DUNG
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Piền câu khói thin tsấy liệp tậy
Chấy dòi thin đía mạn dằng phiêu
Liêu pham dậu chấy diềm dùn puận
Năm tai tòng ka nhấu ká phiêu
Nặm nhân nìm tong chiệp pết chiếm dàu dùn
Kiềm min hênh mình muộn quế dặng
Ý khếnh sầu tuông dặm khá nhầu
Chảng dẳm khá dìa dìa dặm khá chía
Nằm tsống nhấu nhụn khú dùn phiêu
Năm kha lọ dàng min khắng pịa
Sềnh tếnh hồng dìa thái chấu lầu
Nhân khoa lọ dàng mịn nhằng nhịa
Mệnh ka đàu dùn cuổi sấy phiêu
Dăm chấy hái miền tài phang áp
Diềm dùn tháu phú cắp chàng song
Ông cuốn liềm pham hành chìn thác
Bì bện chíp tsiên quê duấn tòng
Phàn lụi mùi nhân phúng tsiên thác
Phúng to kiêm khoa thán miến tòng
Mùi miền tsinh súi cắp huân hí
Cháng tsay pến tói phú dùm phiêu
Pú phú ìm dang chàng tsay tói
Chía hồ đàm dùn chậy nhất tòng
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Tổ Bàn Vương khai thiên lập địa
Thành thiên hạ trời đất con người
Cuộc sống sung sướng có ăn có ở
Sinh sôi nảy nở được hạnh phúc
Trai mười tám thì phải lấy vợ
Gái mười tám thì phải lấy chồng
Đặt trầu cau dạm ngõ ăn hỏi
Kế xem sách có hợp nhau không
Bố mẹ hai bên cùng hòa hợp
Lấy nhau mới nên vợ nên chồng
Trai sinh ra thờ cúng tổ tiên
Luôn hướng mặt về phía nhà mình
Gái sinh ra mặt hướng ra cửa
Đi lấy chồng thành con người ta
Không ép hai người phải lấy nhau
Đến duyên phận phải thành vợ chồng
Nhà trai làm bữa cơm tại nhà gái
Rồi đón dâu về làm lễ kết hôn
Thầy mờ lễ chúc vợ chồng trăm năm hạnh phúc
Làm phép cảm ơn nhà gái đã đưa dâu về đến nhà trai
Chúc hai vợ chồng hạnh phúc nên đôi
Mãi mãi chỉ chung một đường đi
Bài 2: TSUI DUOÁN
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Tsui tsắng kho toòng thin hồng phú
Vuồi huân kít cúa tú quyên dầu
In dang kít phúi chiằng lộng phộng
Gọi khoa kít cháy hịn kiều kiều
Dắt soong hín cháy soong soong hin
Tồông phiêm tồông ấy tsay cha kiều
Mài mại trọn chùn dã dồng hậy
Mạn dặng tsin dằng trắn miến phầu
Pụa triền kếnh síng tếnh cha dạy
Hồ nhất triền tsui mạn dặng phâu
Tríp tsiên kho toòng soong quyên hấy
Vuồi mộng tría to tsá yền dầu
Dậu día tím khóe dẳm tsing tsố
Tsá á líu nghìn vuồn dẳm tói tầu
Trộng kháu choáng tsiên dòi tsăn ấy
Siam siệu púng tàng ý súy âu
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Được chàng chung sống thật là vui
Được chàng chung sống thật hạnh phúc
Cũng bõ công nàng cầu thần khấn phật
Cũng bõ công nàng bấy lâu nay
Cầu được quý chàng thật như ý
Đưa nàng cùng chung hưởng vinh hoa
Hai bên giao duyên cùng hẹn ước
Hẹn thề giao ước nguyện thành đôi
Ta thề ta sẽ không chuyển hướng
Đời đời chung sống mãi bên nhau
Buồn sầu hoạn nạn cùng nhau chịu
Vui sướng bên nhau cũng đủ đầy
Sinh con nhiều cháu bề gia thất
Không nỡ lòng nào để phôi phai
Hát giao duyên là một nội dung rất phong phú của “Pá dung”, một số bài hát điển hình được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng tộc người được ghi chép lại là:
CHIÊN HIANG DUNG
Pháy khán tồng thin trầy mấy ngạn
Thài dàng so chíu kiắng chiên hiang
Páy píu phiêm tuông khiắng phây bặm
Nàn nỏi lình chiền tsấy phú phang
Muồng hín phiêm tuông chúa phây hặn
Trị día kìng phin khùng hoắng tan
Kình luồng phún siếu lìn trừng puận
Tú phiêu phúi mấy dẳm dàu hoang
Thính trụ quấy phin kiềm ngin nhấu
Tóng thin tsấy phú trịn hoàng than
Mộng phim trún tịng kiêm ngin vỏa
Mộng hắng coong hò súi pậu tàng
Trịn píu mộng phiêu chuộng bày vuội
Chuộng có hiàng bầu pụa ón hiang
Hùng mấu bò quân chuộng piến diến
Dàng kế chuộng đồng diễn chuộng phang
Dịch nghĩa:
HÁT GIAO DUYÊN
Thần không phù hộ nàng tự nguyện
Tự có nhiều nàng nguyện kết duyên
Không chê nàng xấu cùng vun đắp
Đừng như trăng tỏ trăng lại mờ
Miễn làm sao chàng không đổi ý
Nàng đây giữ lấy tấm lòng son
Được trời phù hộ chung duyên phận
Sung sướng vui vẻ biết bao nhiêu
Nàng tự giữ nguyên như đông hải
Trường lưu mãi mãi sẽ không phai
Được thần phù hộ chung vị trí
Không muốn cách ly một hướng nào
Chỉ sợ người tình không giữ ý
Để nàng đợi mãi trở thành không
Lừa nàng lang thang buồn biết mấy
Không được cùng chàng xây đắp chung
DÙNG CHẬU MÀI CON, CHÌNH MÀI LẬU
Chìu chiu chin mụi phiêm phẩy thảu
Mậy híu mìu phiêm phảng hải pin
Dùng chậu mài con, chình mài lậu
Thúi xuất mài nhuần cắp khói liều
Ên dùn mây goi chỏi phiêu khí
Ỷ phiên piển lậu bêu lọ pin
Tấu lây phỏng phây nàn thảu chiếm
Quả hoi phiêm tuang nin quyả nin
Tú thin xẩy dịa hòng ên phú
Diệm vắng phin ên mui chiếm tú puồng liều
Dịch nghĩa:
CÂY ĐA CÓ GỐC, TÌNH CÓ LỐI
Ngày ngày lòng em nhớ đến anh
Chảng biết lòng anh nhớ phương nào
Cây đa có gốc tình có lối
Nước hợp dòng chảy về biển khơi
Số phận không mở tự mình mở
Đừng có sử đến giữa chừng thôi
Không thể không đến bởi lòng quá nhớ
Chẳng lẽ để trong lòng năm qua năm
Được trời ban xuống hồng ơn phúc
Không uổng nghĩa tình anh đã gặp em
Người Dao nói chung là một cộng đồng rất mến khách, khách đến nhà bao giờ gia chủ cũng tìm mọi lý do để giữ khách lại nhà ăn bữa cơm rau, thay vì nói lời giữ khách, người ta hát để giữ khách:
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Liều phàm ca ngìn liều trìng chậu
Kiếm xúi thân tàu liễu quấy dang
Liều tú quấy giang trậu hiang hoong
Mộng hắng thái dâm biến thái dàng
Liệp líu phiềm kê liều trìng trậu
Liều trìng mậy trậu trịn hoàng hiang
Trình hiền dâm trậu phúng trình kiếu
Mán mạn thìu tsia quây duán hiang
Bậu tàu tsing tsing duán hòng vọong
Pị táu tsiết phinh dia chíu dang
Búa trìng liều ên quá phiên thán
Ý bêu kiêm trậu tún lầy hoang
Hái nhất cồng pau hiêu siếu bấy
Thìa tsia tài vụi thán duyên bàng
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Lời cổ anh hỏi em
Giữ em ở lại chơi vui với anh
Muốn giữ anh ở lại với gia đình
Mong được tình cảm đẹp như vầng thái dương
Giữ mãi anh cũng không thể được rồi
Anh phải về mọi thứ đã chuẩn bị rồi
Anh từ từ đi cho an toàn may mắn
Anh cảm ơn gia đình có lời mời tốt
Anh biết chỉ để trong lòng
Nhưng anh không thể ở lại được
Không phải do anh không ở lại được
Mà lần sau gặp lại không chấp nhận anh
Sau gặp lại em tình vẫn như cũ
Khi nào có được thời gian quý
Mời em sang gia đình anh chơi
Tạm biệt em anh phải về rồi
Bài ca lao động là một nội dung không thể thiếu của "Pá dung", người ta có thể ca khi đang làm trên nương, cũng có thể ca khi đang trên đường lên nương hoặc ca khi cảm thấy mệt ngồi nghỉ dưới gốc cây, bên lán nương, ... Hình thức thường là hát đối đáp, nói chuyện giữa hai bên. Nội dung xoay quanh hỏi đáp chuyện làm nương của mỗi gia đình như lúa có tốt không, có bị sâu bệnh không, năm nay có được mùa không, được bao nhiêu?, ...
MUỘN KIẾM
(ĐI NƯƠNG)
Liều pham tsêu vần sấy muộn kiếm
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín dang
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín trậu
Khoi tài pín búa pháy mìu tan
Người đáp ca:
Liều pham ca ngìn chùn búa kiếm
Búa kiếm phiếu tsun pham hín tan
Búa kiếm phiếu tsun tan hín píu
Phay khoi trùn búa quổi king dang
Người hỏi ca tiếp:
Liều pham ca ngìn trói phang muộn
Muộn kiếm siêu vùa tú tría tsin
Muộn kiếm siêu vùa tú tría pé
Pháy píu mộng phin pín búa lìn
Người đáp ca:
Quối píu mậy liền mìu pín búa
Pháy phíu vùa mìu mậu tría tsin
Triên ngìn vùa búa tú tría triệp
Ý tú goi mầy tàn xíu lìm
Dịch nghĩa:
ĐI NƯƠNG
Cổ xưa hỏi người đang lao động
Hỏi thăm bên ấy có mấy người
Hỏi người bên đấy cho xin biết
Khai ngôn biến báo tiểu nhân đơn
Người đáp lời ca:
Cổ nhân chuyền báo cho cùng biết
Bên này lao động có ba người
Báo chàng lao động ba người đấy
Khai ngôn biến báo quý anh chàng
Người hỏi tiếp gặt lúa được bao nhiêu
Cổ xưa có câu lại hỏi tiếp:
Hỏi rằng gặt hái được bao nhiêu
Hôm nay gặt lúa được mấy chục
Khẽ bảo cho anh được biết cùng
Người đáp tiếp bài hai:
Quý chàng không chê nàng xin đáp
Lúa nàng bị kém chẳng được là bao
Chân tình bảo chàng chẳng mấy chục
Xin chàng được biết đừng có cười.
Lời hát mừng nhà mới là những lời ca vui tươi, đằm thắm nhằm chúc mừng cho gia đình nhà chủ đã cố gắng, giỏi giang, biết làm ăn phát triển kinh tế. Nội dung lời hát cũng chúc tụng cho gia đình, họ hàng, làng bản mọi người đều mạnh khỏe, yên vui và làm ăn phát đạt:
Bài 1: NHÓM BỆP CẤY PÁ DUNG TOÒNG
(NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG)
Dất chá tồng pung thái dàng hịn
Nhị chá nàm hò xiêm xúi than
Pham chá phàm pung quyên dâm tậu
Phây pung nhầm quấy xúi vui voan
Pịa sên tróm túa kìng tồng tậy
Gyịa xúi nghìu chìm kíng tống nhan
Pịa hiang tróo síu kìng bố
Kìng tồng bồ nhần phiêm lấy hoang
Liều pham tsều vuần sấy dụa kiếm
Bêu tín gyạ hò sấy dụa nhần
Dụa tú bầy nhầu tài khí tíu
Sấy dụa ìn dang tầu mậy tầu
Dịch nghĩa :
NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG
Một gép phương đông thái dương hiện
Nhị gép nam hà thâm thủy thâm
Tam ghép tam phương quoan am đẩu
Tứ phương nhâm quý thủy chào lưu
Vào gò trém cây kinh động địa
Xuống nước bơi đò kinh động giang
Vào làng tán tỉnh kinh động báo
Kinh động người đã ngủ không yên
Lưu tam sao văn thử mời gọi
Nhử được con cá cắn đến câu
Thấy được cá cắn câu mới dám gọi
Không thì lại sợ không dám mời
Bài 2: VUẦY PHÚ TÍU NHI DUNG
(HÁT VÀO NHÀ MỚI)
Cá chông hiang húa chì trống sềng
Ký mềnh tồng trí chống sì côông
Dán phú mi tráo duồn muồn biểu
Phàn pêng phàn triáng có quây tông
Kiêm buần thó tsắt sòng puôi tráo
Tại cha p sống phú hú ca trông
Sông quôi phụ lụ trí ca côông
Nòm nhần sạp pát phống quân trế
Ní nhần sáp t pát sái kiềm đòng
Sống phú tráo sống phú chiàng
Sống quây phụ lụ chi ca miàng
Diáng chi muốn làn cú muôn khủ
Kiềm ngàn tròi pạ muốn lòng phang
Siếu yềm yếm siếu yềm yếm
Nàm nhần đắp phó thiêm quản chế
Ný nhần đắp phó sống dàng kiêm
Siếu òi ói siếu òi òi
Tsắt trai pát nạn duồi thiên hí
Kiềm ngàn dòi pạ sí phang bói
Dịch nghĩa:
HÁT VÀO NHÀ MỚI
Gia đình tổ tông cũng phù hộ
Các thầy song việc hồi phúc về
Đình đám gia đình đã bế mạc
Phân binh phân tướng trở về hương
Khay vàng giót ra đôi chén rượu
Để hồi phúc lộc về gia đình
Hồi phúc hồi lộc về gia chủ
Hồng phúc hồng lộc đầy gia đình
Nam nhân mười tám được quan trức
Nữ nhân mười tám đẹp như tiên
Rượu này hồi lộc cho bà chủ
Hồi cho phúc lộc gia chủ nàng
Chăn nuôi lợn gà đầy chuồng trại
Ngũ cốc lúa gạo ắp đầy kho
Sức khỏe dồi đao được thịnh vượng
Tiền tài vàng bạc sếp đầy hòm
Nam nhân xông nhà thăng quan trức
Nữ nhân xông nhà cho bạc vàng
Ốm đau thay cho đã mạnh khỏe
Tiền tài vàng bạc tứ phương về
Uống rượu là một nét văn hóa độc đáo của người Dao, nếu như người Kinh mời nhau chén rượu bằng những lời nói hay, người Thái mời nhau bằng những điệu xòe “nâng khăn mời rượu” thì người Dao lại ca “bài hát uống rượu” để ai nghe cũng không thể chối từ:
CẤY HỐP TIU
(MỜI UỐNG RƯỢU)
Cà chí côống cà chí côống
Dật nhất si liàng san pạ thồng
Tsếng tá siếu xi tố đằn voàn nhụt liểu
Dật niên sí ký tá xồng dồng
Cà chí miáng cà chí miàng
Dật nhất si liàng san li hoang
Kiên nhất tsếng tá siếu si tố đằn voàn nhụt liếu
Dật niên sí kí tá phồng quoang
Dịch nghĩ
MỜI UỐNG RƯ
Gia chủ ông gia chủ ông
Một ngày bận rộn rất nhiều việc
Suy nghĩ chưa thông suốt cái gì
Hôm nay mời được các thầy tới
Hoàn ơn song hết cầu chúc may
Một năm bốn quý được dồi dào
Gia chủ bà ơi gia chủ bà
Một năm bốn quý được đàng hoàng
Bài hát giáo huấn trong "Pá dung" không nhiều như những nội dung khác nhưng được lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác, nội dung cô đọng, xúc tích, mang tính giáo dục cao:
BUA TRỤ HÍU TÍA MẢ GIÁO
(BÀI HÁT GIÁO HUẤN)
Vuậy nhần ói trụ ý hộ nhần luộn bán
Trụ trấu kèng tsum trụ hộ chiền
Puồng trụ ó nhần ý tú tsáu
Día ý mài nhất tụ tìn pùi
Kín nhần tìn tậy ý deng máo
Phụ quấy yồng vòa dẩm tú tàng
Mai công mài tá nhần thán khú
Pun mềnh phun phá tú nin tàng
Nụn nhần ý síu nhần líu bồ líu
Puồng tsui khoa bọ ýa siêm tòng
Kiêm nhất dẩm pây mềnh nhất dạy
Mậy chiằng nhụt tríu tsíng tài pây
Sấy nhần tụ híu dằng kia pẹ
Ý tú pàm lùng dậu pàm đau
Ý tú phì deng cíu tía mả
Ý tú hoắng nhần loòng toọng than
Ý tú sết seng mạn hoòng dặng
Ý tú phàng thao trấu hỏi nhần
Ý tú thàm khoa thàm tầu nhần cha của
Ý tú khyú pế hỏi nhần triên
Ý quoẳng cuồng nhần căn phú quấy
Ý tú día phẩy máo mặng tàng
Ý tú píng chiến nhần giáo búa
Hỏi trụ quần cằn hỏi cằn
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIÁO HUẤN
Vì người không ai được ở không
Phải cầy phải cấy phải đi làm
Gặp người nhũng nhiễu chớ dòm ngó
Chẳng may tới lại phải đền
Thấy ruộng đất của người chớ tranh chấp
Phú quý vinh hoa chẳng vững bền
Trẻ con chớ cười người tóc bạc
Hoa rơi đầu vực bị gió đêm
Hôm nay chưa biết việc ngày mai
Giờ ngọ nắng tới mới biết khổ
Đời người phải biết trắng đen
Không phạm trên trời không phạm đất
Không cãi lời lẽ với mẹ cha
Không được lừa gạt với bạn bè
Không được sát sinh các thú vật
Không được lấy trộm của mọi người
Không được tham tài và tham sắc
Không được tức giận xúc phạm người
Không được tham giầu quên nghèo khổ
Không được ham sống sợ chết
Không được quên đi lời dạy bảo
Luôn ghi luôn nhớ để trong lòng
Hát ru (Háo ton dung) là những lời ca mượt mà, êm ái nhằm kích thích cho trẻ mau đắm mình trong giấc ngủ. Trong các điệu hát ru, nội dung thường được các bà mẹ sáng tác nhằm giáo dục cho con cái về đạo lý làm người; về tình yêu thương quê hương, hướng cho con ý chí phấn đấu về sau:
HÁT BẮU NGÀ PÍ DÒM
(HÁT RU CON NGỦ)
Ôí àn an ngà bế ói dàm cằn pí chiến mà ôi dòm
Te ma trấu công trấu mắn nhặn
Ngà xê ói cằn pi chiến dòm, dòm cáu ố ồ ôi
Ngà dả tài híu hắm te ma trấu công khấu
Ngà trụ cằn quay pi chiến ý dà ôi dàn ôi
An án túng tsún ma te oi ối àn an
Ngà xê bế ói dòm chiến nà ôi dòm ôi án
Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng
Chẳm châu lí lút theng tăng đi
Miéo tẳn tung noòng txeng tẳng veng
Nả là quăng quăng slải thìn gầy
Mạy đẳm ơn lò khẳn gẩy cổ
Bản dịch:
HÁT RU CON NGỦ
Hát ru là những lời trầm bổng
Thướt tha mượt mà êm ái nhằm kích thích
Cho bé ngủ đắm mình giấc ngủ dịu hiền
Và có cả lời ca thương yêu dạy dỗ cho
Trẻ sau này biết làm người hiếu thảo
Cha mẹ biết lễ phép ra vào
Ối í a, ngủ ngon, ngủ ngoan đi
Con cóc kêu ở gầm chạn bát
Mèo con khều thức ăn trên chạn
Mặt trăng còn khuyết ở trên trời
Ta nằm nhìn thấy trăng ở xa
Gần đây, là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới được sáng tác rất nhiều. Những bài hát này thường không được ghi lại mà chỉ truyền miệng, hát cho nhau nghe, học nhau để hát. Nội dung của những bài hát này rất phong phú, dưới đây là một số bài hát tiêu biểu cho những sáng tác mới này:
YÊN BÁI ÊN ĐẢNG ÊN PÉ HỒ
Yên Bái ên Đảng sâu vuôn chính
Ên tú Pé Hồ chìu chiếu nhiền
Diếu tú chìu tuông chịn tìu mấy
Diếu tú nhiền màn chin mạn nìn
Nhiều man diết ấy chấy hang vìn
Háy chấu mài tìn mậu súi thái
Quốc ríu chàng làng khoi súi tài
Khoi tú tìn tậy lạng canh chuống
Vìa dang an puốn tịnh siêu sềnh
Tập vàng dạ mài ràng yiu chuống
Viàng kinh chố mẹ chuống mài dòi
Dùng húa senh tào dung pé dạng
Dang dạng hênh vạng quýa vui siêu
Túa mụa chuống tài dung mạn nhiều
Mại suốt chìu tuông mài chín sái
Quố chạng tỉnh chá diệm pun khuổi
Yên Bái hấy làng to pẹ mai
Sénh chình chinh súi quýa nin tàng
Lục on chiêu muồn chị pú pấy
Nhiền màn diết ấy chấy hang vìn
Xiên puộng sía muồn xiên cói viện
Trạn xá họ tòng chấy vuốn mài
Họ senh sâu vuồn hộ tú híu
Hô tài chính tú cún chiu tuồng
Tại lậu dạ mài chố tài tháo
Điệu lưới dòi tài gang quýa nìn
Hành mình hẵy hang cô lậu vin
Chẳng duốn hang vìn khéc tậy tuổng
Hang vìn pụ quối chìu tuông mấy
Quố chẳng dồng và chin mạn nin.
Dịch nghĩa:
YÊN BÁI ƠN ĐẢNG ƠN BÁC HỒ
Quê hương Yên Bái ơn Đảng
Ơn Bác Hồ kính yêu muôn vàn
Nhờ Đảng, nhờ Bác Hồ vĩ đại
Yên Bái chuyển mình nhanh chóng
Kinh tế ngày càng phát triển
Yên Bái gạo trắng nước trong
Ai mà đến đó thì không muốn về
Đất ngọc Lục Yên giàu đẹp
Với nhiều đá quý ngọc vàng
Toàn dân thống nhất một lòng
Xây dựng quê hương đất nước
Ngày càng giàu mạnh muôn phần
Cuộc sống nhân dân ngày càng no đủ
Bản làng đổi mới muôn màu
Nhà nước xây dựng cơ sở vật chất
Trạm xá, nhà trường được xây mới
Ngày càng khang trang sạch đẹp
Điện lưới được mắc đến từng nhà
Đường làng được bê tông hóa
Phương tiện giao thông đến tận làng
Thôn bản điện, đường, trường trạm
Ngày càng đầy đủ đẹp bền
Lòng vẫn nhớ quê hương yêu dấ
"Pá dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú, đó là những vần thơ dân gian được ghép với các tiết tấu, các giai điệu và sử dụng như những tác phẩm âm nhạc.
"Pá dung" phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, bênh vực người yếu, ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
"Pá dung" được lưu truyền lâu đời trong cộng đồng, có ý nghĩa trao truyền, giáo dục các thế hệ tộc người, ôn lại quá trình lịch sử tộc người, đề cao đạo lý, tình yêu con người, yêu thiên nhiên, cỏ cây hoa lá.
"Pá dung" thể hiện nghệ thuật dân ca, ngôn ngữ của tộc người. Nghệ thuật chuyển tải hiện thực đời sống xã hội vào thơ ca vô cùng đặc sắc, thể hiện trình độ văn học, ý nghĩa khái quát cao của tộc người.
Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Pá dung" xứng đáng được nghiên cứu và bảo tồn nhằm phát huy giá trị của nó trong cộng đồng cũng như tới các tộc người khác và bạn bè quốc tế.
(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)
Ban Biên tập Cổng TTĐT