Mù Cang Chải là một trong hai huyện nghèo của tỉnh, với trên
90% dân số là dân tộc Mông sinh sống. Nền kinh tế của huyện chủ yếu là sản xuất
nông, lâm nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp. Những năm qua,
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các chính sách hỗ trợ sản xuất
như Chương trình 30a, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất của tỉnh, nhằm tạo
bước chuyển dịch trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá, tăng thu nhập cho người dân góp phần xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền
vững.
Theo đó trong giai đoạn 2011 – 2015, từ nguồn chính sách hỗ
trợ sản xuất của tỉnh, huyện Mù Cang Chải được đầu tư trên 35 tỷ đồng thông qua
việc hỗ trợ giống lúa chất lượng cao, giống ngô lai; hỗ trợ phân bón; hỗ trợ
nilon che mạ phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân; hỗ trợ một lần cho các hộ gia đình
làm cây rơm dự trữ thức ăn cho gia súc; hỗ trợ cho các hộ, nhóm hộ nhận khoán
bảo vệ rừng, trồng rừng sản xuất bằng cây Sơn tra, cây Vối thuốc; hỗ trợ khai
hoang để tạo đất trồng lúa nước; hỗ trợ cho các hộ chăn nuôi gia súc, gia
cầm; hỗ trợ mua giống cỏ trồng phát triển chăn nuôi trâu, bò; hỗ trợ một lần
cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo làm chuồng nuôi trâu, bò.
Để đảm bảo chính sách hỗ trợ phát huy hiệu quả, huyện Mù
Cang Chải đã lãnh chỉ đạo nhân dân sử dụng đúng mục đích các nguồn hỗ trợ của
các chương trình, dự án, nhất là hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp. Xã đã
giao cho từng bản tổ chức họp dân, thông tin tuyên truyền, thông báo công khai
các chính sách hỗ trợ, đối tượng được hỗ trợ, lựa chọn các hộ có điều kiện để
đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất… Đồng thời hướng dẫn, giám sát để
các hộ được hỗ trợ thực hiện hiệu quả. Việc hỗ trợ giống, vật tư nông nghiệp
không chỉ giảm bớt khó khăn của nhiều hộ dân mà còn thay đổi nhận thức của
người dân trong sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Những năm gần đây, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của huyện
đã có bước chuyển biến mạnh mẽ. Diện tích cây trồng hằng năm tăng từ 7.327 ha
năm 2010 lên 9.000 ha năm 2015, diện tích lúa nương kém hiệu quả đã được chuyển
đổi sang trồng ngô. Công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật, mô hình sản xuất mới
được đưa vào sản xuất, cơ cấu giống mới chiếm từ 35% năm 2010 lên 85% vào năm
2015, năng suất lúa trung bình tăng từ 35,7 tạ/ha lên trên 50 tạ/ha; năng suất
ngô trung bình tăng từ 25,2 tạ/ha lên trên 41 tạ/ha góp phần tăng sản lượng
lương thực năm 2015 đạt 33.200 tấn, bình quân lương thực 600kg/người/năm, tăng
200 kg so với năm 2010; đàn gia súc chính tăng trưởng trung bình 6,5%/năm, đàn
gia cầm tăng bình quân 10,4%/năm.
Trong những năm qua, cùng với các chính sách hỗ trợ sản xuất
nông nghiệp, nông thôn của Trung ương, tỉnh Yên Bái đã xây dựng và ban hành
nhiều chính sách về nông nghiệp, nông thôn nhằm ổn định đời sống nhân dân,
chuyển dịch nhanh kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá ở
vùng thấp và đảm bảo an ninh lương thực ở vùng cao; đưa nhanh khoa học kỹ
thuật, công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh công tác khuyến
nông, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y và các dịch vụ kỹ thuật ở nông
thôn.
Trong giai đoạn 2011 – 2015, bình quân mỗi năm tỉnh Yên Bái
đầu tư từ 35 – 45 tỷ để hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. Đến
nay, cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh có sự chuyển dịch
đúng hướng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 79,6% xuống còn 77,8%; ngành lâm
nghiệp tăng từ 17,4% lên 18,2%; ngành thủy sản tăng từ 3,0% lên 4,0%.
Việc triển khai thực hiện Chính sách hỗ trợ giống cây trồng,
lâm nghiệp đã góp phần nâng cao diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt
không ngừng tăng. Cơ cấu giống tiếp tục có chuyển biến tích cực theo hướng tập
trung các giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Đến nay một số vùng sản xuất
hàng hóa tập trung đã được hình thành rõ nét như: Vùng sản xuất lúa hàng hóa
chất lượng cao 2.500 ha, vùng ngô 15.000 ha (có 3.000 ha được chuyển đổi từ đất
trồng lúa nương kém hiệu quả sang trồng ngô), vùng chè 11.000 ha, vùng sắn cao
sản 15.000 ha, măng tre Bát Độ trên 3.500 ha, quế trên 33.000 ha, vùng cây
nguyên liệu giấy trên 60.000 ha.
Trong những năm tới, tỉnh Yên Bái xác định ưu tiên sản xuất
nông nghiệp là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, gắn sản xuất nông nghiệp với xây
dựng NTM; Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ sản xuất cho các vùng sản xuất
hàng hóa, vùng đặc biệt khó khăn; Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn
hóa – xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội; Tỷ lệ giảm nghèo bình quân 5 năm
giảm 4%/năm, riêng hai huyện vùng cao Mù Cang Chải và Trạm Tấu giảm 6%.
Nội dung chính sách hỗ trợ thực hiện các đề án tập trung vào
một số lĩnh vực cụ thể như: Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển chăn
nuôi; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản; Chính
sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển cây ăn quả; Chính sách hỗ trợ thực hiện
Đề án phát triển chè vùng cao; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển ngô
Đông trên đất lúa 2 vụ; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án trồng Sơn tra; Chính
sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển cây quế; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề
án phát triển măng tre Bát độ; Chính sách hỗ trợ sản xuất nông, lâm nghiệp và
thủy sản cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn và một số chính sách khác.
Thông qua việc tổ chức, triển khai thực hiện có các chính
sách hỗ trợ là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cho các thôn,
bản, các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh; từng bước nâng cao thu nhập,
đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, góp phần vào ổn định chính trị,
an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
Hồng Hạnh