CTTĐT – Năm 2018 là năm thứ 4 thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều, trước sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương trong việc triển khai công tác rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo nên công tác rà soát đã được tổ chức triển khai đồng bộ, khẩn trương và đạt kết quả cao.
Vợ chồng anh Hoàng Văn Vó, Bản Muổi, xã Lâm Thượng bên ngôi nhà mới
Theo đó, các địa phương, cơ sở đã thực hiện đúng theo các bước trong quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát đã được triển khai toàn diện ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố và các xã, phường, thị trấn. Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đảm bảo chất lượng, số hộ và tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo cơ bản đã phản ánh sát tình hình đời sống của các hộ dân trên địa bàn.
Tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định tại Thông tư số 17/2016/TT- BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 -2020 và Thông tư số 14/2018/TT- BLĐTBXH ngày 26/9/2018 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 17/2016/TT - BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cụ thể: Hộ nghèo khu vực thành thị (các thị trấn và phường) là hộ có tổng điểm B1 từ 140 điểm trở xuống hoặc hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 từ 30 điểm trở lên; Hộ nghèo khu vực nông thôn (các xã) là hộ có tổng điểm B1 từ 120 điểm trở xuống hoặc hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 từ 30 điểm trở lên; Hộ cận nghèo khu vực thành thị là hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm; Hộ cận nghèo khu vực nông thôn là hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm.
Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2018 của các huyện, thị xã, thành phố tổng số hộ nghèo 37.634 hộ, tỷ lệ 17,68 %, giảm 4,29 % so với năm 2017 (năm 2017 là 45.899 hộ nghèo, tỷ lệ 21,97%). Tổng số hộ cận nghèo là 20.157 hộ, tỷ lệ 9,47 %, giảm 0,48% so với năm 2017 (năm 2017 là 20.775 hộ cận nghèo, tỷ lệ 9,95%).
Cụ thể đối với Thành phố Yên Bái: 802 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 2,69 %, giảm 0,64% so với năm 2017 (năm 2017 là 979 hộ nghèo, tỷ lệ 3,33%); hộ cận nghèo là 370 hộ, chiếm tỷ lệ 1,24%, tăng 0,05% so với năm 2017 (năm 2017 là 350 hộ cận nghèo, tỷ lệ 1,19%). Huyện Yên Bình: 4.034 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 13,40%, giảm 4,64% so với năm 2017 (năm 2017 là 5.311 hộ nghèo, tỷ lệ 18,04%); hộ cận nghèo là 2.574 hộ chiếm tỷ lệ 8,55%, giảm 0,57% so với năm 2017 (năm 2017 là 2.688 hộ cận nghèo, tỷ lệ 9,12%).
Huyện Trấn Yên: 2.247 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 9,30%, giảm 4,88% so với năm 2017 (năm 2017 là 3.411 hộ nghèo, tỷ lệ 14,18%); hộ cận nghèo là 1.794 hộ, chiếm tỷ lệ 7,42%, giảm 2,27% so với năm 2017 (năm 2017 là 2.329 hộ cận nghèo, tỷ lệ 9,69%). Huyện Văn Yên: 6.216 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 18,05%, giảm 4,84% so với năm 2017 (năm 2017 là 7.678 hộ nghèo, tỷ lệ 22,89%); hộ cận nghèo là 3.895 hộ, chiếm tỷ lệ 11,31%, giảm 0,64% so với năm 2017 (năm 2017 là 4.009 hộ cận nghèo, tỷ lệ 11,95%). Huyện Văn Chấn: 8.858 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 22,27%, giảm 4,84% so với năm 2017 (năm 2017 là 10.580 hộ nghèo, tỷ lệ 27,11%); hộ cận nghèo là 4.142 hộ, chiếm tỷ lệ 10,42%, giảm 0,53% so với năm 2017 (năm 2017 là 4.272 hộ cận nghèo, tỷ lệ 10,95%).
Thị xã Nghĩa Lộ: 738 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 9,08%, giảm 3,80% so với năm 2017 (năm 2017 là 1.032 hộ nghèo, tỷ lệ 12,88%); hộ cận nghèo là 610 hộ chiếm tỷ lệ 7,51% giảm 0,26% so với năm 2017 (năm 2017 là 623 hộ cận nghèo, tỷ lệ 7,77%). Huyện Lục Yên: 5.341 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 18,76%, giảm 4,72% so với năm 2017 (năm 2017 là 6.581 hộ nghèo, tỷ lệ 23,48%); hộ cận nghèo là 4.211 hộ, chiếm tỷ lệ 14,79%, giảm 0,81% so với năm 2017 (năm 2017 là 4.372 hộ cận nghèo, tỷ lệ 15,60%).
Huyện Trạm Tấu: 3.347 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 52,85%, giảm 7,15% so với năm 2017 (năm 2017 là 3.678 hộ nghèo, tỷ lệ 60,0%); hộ cận nghèo là 666 hộ, chiếm tỷ lệ 10,52%, tăng 0,32% so với năm 2017 (năm 2017 là 623 hộ cận nghèo, tỷ lệ 10,20%). Huyện Mù Cang Chải: 6.051 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 51,66%, giảm 7,61% so với năm 2017 (năm 2017 là 6.649 hộ nghèo, tỷ lệ 59,27%); hộ cận nghèo là 1.895 hộ chiếm tỷ lệ 16,18%, tăng 2,73% so với năm 2017 (năm 2017 là 1.509 hộ cận nghèo, tỷ lệ 13,45%).
Năm 2018 là năm thứ 4 thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều, vì vậy việc tổ chức triển khai thực hiện từ tỉnh đến huyện, xã và cơ sở có nhiều kinh nghiệm hơn trong quá trình triển khai thực hiện. Công tác tham mưu xây dựng kế hoạch triển khai rà soát; các văn bản chỉ đạo thực hiện; tổ chức tập huấn hướng dẫn nghiệp vụ rà soát ở cấp tỉnh, huyện, xã được thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, giúp cán bộ cơ sở, điều tra viên nắm chắc được phương pháp và quy trình tổ chức rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo do đó đã đạt được kết quả đảm bảo chất lượng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có một số mặt hạn chế về công tác tổ chức rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều có các tiêu chí dùng để chấm điểm đánh giá thu nhập và xác định mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản còn có một số bất cập như các nhóm tài sản không phân biệt loại có giá trị cao hay thấp mà chỉ quan tâm đến hiện tại đang sử dụng được là tính điểm như nhau, nên kết quả đánh giá sẽ thiếu sự công bằng v.v. Điều tra viên ở các địa bàn xã, thôn, bản vùng sâu, vùng cao còn hạn chế về năng lực và kỹ năng phỏng vấn các hộ gia đình, trong khi đó đi lại khó khăn, các điều tra viên phải đến gặp trực tiếp hộ gia đình để phỏng vấn lấy thông tin điền vào phiếu rà soát cũng ảnh hưởng đến kết quả rà soát.
Năm 2018 tại một số huyện như Văn Chấn, Mù Cang Chải, Văn Yên, Trấn Yên v.v bị ảnh hưởng của thiên tai gây ra, cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giảm nghèo bền vững trên địa bàn. Vẫn còn một số địa bàn, hộ dân cư có tư tưởng ỷ lại, không quyết tâm phấn đấu vươn lên trong lao động sản xuất, còn chông chờ vào chính sách hỗ trợ của nhà nước và không muốn thoát nghèo. Việc giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các năm cuối giai đoạn có khó khăn hơn so với những năm đầu giai đoạn do các nhóm hộ có điều kiện kinh tế khá hơn đã được giảm nghèo ở những năm trước, vì vậy xu hướng giảm nghèo cuối giai đoạn sẽ gặp khó khăn hơn.
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh – Năm 2018 là năm thứ 4 thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều, trước sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy và chính quyền địa phương trong việc triển khai công tác rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo nên công tác rà soát đã được tổ chức triển khai đồng bộ, khẩn trương và đạt kết quả cao.Theo đó, các địa phương, cơ sở đã thực hiện đúng theo các bước trong quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành. Công tác phối hợp, kiểm tra, giám sát đã được triển khai toàn diện ở tất cả các huyện, thị xã, thành phố và các xã, phường, thị trấn. Kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo đảm bảo chất lượng, số hộ và tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo cơ bản đã phản ánh sát tình hình đời sống của các hộ dân trên địa bàn.
Tiêu chí xác định hộ nghèo, hộ cận nghèo theo quy định tại Thông tư số 17/2016/TT- BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc hướng dẫn quy trình rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo hằng năm theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 -2020 và Thông tư số 14/2018/TT- BLĐTBXH ngày 26/9/2018 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 17/2016/TT - BLĐTBXH ngày 28/6/2016 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cụ thể: Hộ nghèo khu vực thành thị (các thị trấn và phường) là hộ có tổng điểm B1 từ 140 điểm trở xuống hoặc hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 từ 30 điểm trở lên; Hộ nghèo khu vực nông thôn (các xã) là hộ có tổng điểm B1 từ 120 điểm trở xuống hoặc hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 từ 30 điểm trở lên; Hộ cận nghèo khu vực thành thị là hộ có tổng điểm B1 trên 140 điểm đến 175 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm; Hộ cận nghèo khu vực nông thôn là hộ có tổng điểm B1 trên 120 điểm đến 150 điểm và có tổng điểm B2 dưới 30 điểm.
Theo kết quả rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo năm 2018 của các huyện, thị xã, thành phố tổng số hộ nghèo 37.634 hộ, tỷ lệ 17,68 %, giảm 4,29 % so với năm 2017 (năm 2017 là 45.899 hộ nghèo, tỷ lệ 21,97%). Tổng số hộ cận nghèo là 20.157 hộ, tỷ lệ 9,47 %, giảm 0,48% so với năm 2017 (năm 2017 là 20.775 hộ cận nghèo, tỷ lệ 9,95%).
Cụ thể đối với Thành phố Yên Bái: 802 hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 2,69 %, giảm 0,64% so với năm 2017 (năm 2017 là 979 hộ nghèo, tỷ lệ 3,33%); hộ cận nghèo là 370 hộ, chiếm tỷ lệ 1,24%, tăng 0,05% so với năm 2017 (năm 2017 là 350 hộ cận nghèo, tỷ lệ 1,19%). Huyện Yên Bình: 4.034 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 13,40%, giảm 4,64% so với năm 2017 (năm 2017 là 5.311 hộ nghèo, tỷ lệ 18,04%); hộ cận nghèo là 2.574 hộ chiếm tỷ lệ 8,55%, giảm 0,57% so với năm 2017 (năm 2017 là 2.688 hộ cận nghèo, tỷ lệ 9,12%).
Huyện Trấn Yên: 2.247 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 9,30%, giảm 4,88% so với năm 2017 (năm 2017 là 3.411 hộ nghèo, tỷ lệ 14,18%); hộ cận nghèo là 1.794 hộ, chiếm tỷ lệ 7,42%, giảm 2,27% so với năm 2017 (năm 2017 là 2.329 hộ cận nghèo, tỷ lệ 9,69%). Huyện Văn Yên: 6.216 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 18,05%, giảm 4,84% so với năm 2017 (năm 2017 là 7.678 hộ nghèo, tỷ lệ 22,89%); hộ cận nghèo là 3.895 hộ, chiếm tỷ lệ 11,31%, giảm 0,64% so với năm 2017 (năm 2017 là 4.009 hộ cận nghèo, tỷ lệ 11,95%). Huyện Văn Chấn: 8.858 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 22,27%, giảm 4,84% so với năm 2017 (năm 2017 là 10.580 hộ nghèo, tỷ lệ 27,11%); hộ cận nghèo là 4.142 hộ, chiếm tỷ lệ 10,42%, giảm 0,53% so với năm 2017 (năm 2017 là 4.272 hộ cận nghèo, tỷ lệ 10,95%).
Thị xã Nghĩa Lộ: 738 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 9,08%, giảm 3,80% so với năm 2017 (năm 2017 là 1.032 hộ nghèo, tỷ lệ 12,88%); hộ cận nghèo là 610 hộ chiếm tỷ lệ 7,51% giảm 0,26% so với năm 2017 (năm 2017 là 623 hộ cận nghèo, tỷ lệ 7,77%). Huyện Lục Yên: 5.341 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 18,76%, giảm 4,72% so với năm 2017 (năm 2017 là 6.581 hộ nghèo, tỷ lệ 23,48%); hộ cận nghèo là 4.211 hộ, chiếm tỷ lệ 14,79%, giảm 0,81% so với năm 2017 (năm 2017 là 4.372 hộ cận nghèo, tỷ lệ 15,60%).
Huyện Trạm Tấu: 3.347 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 52,85%, giảm 7,15% so với năm 2017 (năm 2017 là 3.678 hộ nghèo, tỷ lệ 60,0%); hộ cận nghèo là 666 hộ, chiếm tỷ lệ 10,52%, tăng 0,32% so với năm 2017 (năm 2017 là 623 hộ cận nghèo, tỷ lệ 10,20%). Huyện Mù Cang Chải: 6.051 hộ nghèo chiếm tỷ lệ 51,66%, giảm 7,61% so với năm 2017 (năm 2017 là 6.649 hộ nghèo, tỷ lệ 59,27%); hộ cận nghèo là 1.895 hộ chiếm tỷ lệ 16,18%, tăng 2,73% so với năm 2017 (năm 2017 là 1.509 hộ cận nghèo, tỷ lệ 13,45%).
Năm 2018 là năm thứ 4 thực hiện rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo tiêu chí tiếp cận nghèo đa chiều, vì vậy việc tổ chức triển khai thực hiện từ tỉnh đến huyện, xã và cơ sở có nhiều kinh nghiệm hơn trong quá trình triển khai thực hiện. Công tác tham mưu xây dựng kế hoạch triển khai rà soát; các văn bản chỉ đạo thực hiện; tổ chức tập huấn hướng dẫn nghiệp vụ rà soát ở cấp tỉnh, huyện, xã được thực hiện nghiêm túc, khẩn trương, giúp cán bộ cơ sở, điều tra viên nắm chắc được phương pháp và quy trình tổ chức rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo do đó đã đạt được kết quả đảm bảo chất lượng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn có một số mặt hạn chế về công tác tổ chức rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều có các tiêu chí dùng để chấm điểm đánh giá thu nhập và xác định mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản còn có một số bất cập như các nhóm tài sản không phân biệt loại có giá trị cao hay thấp mà chỉ quan tâm đến hiện tại đang sử dụng được là tính điểm như nhau, nên kết quả đánh giá sẽ thiếu sự công bằng v.v. Điều tra viên ở các địa bàn xã, thôn, bản vùng sâu, vùng cao còn hạn chế về năng lực và kỹ năng phỏng vấn các hộ gia đình, trong khi đó đi lại khó khăn, các điều tra viên phải đến gặp trực tiếp hộ gia đình để phỏng vấn lấy thông tin điền vào phiếu rà soát cũng ảnh hưởng đến kết quả rà soát.
Năm 2018 tại một số huyện như Văn Chấn, Mù Cang Chải, Văn Yên, Trấn Yên v.v bị ảnh hưởng của thiên tai gây ra, cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc giảm nghèo bền vững trên địa bàn. Vẫn còn một số địa bàn, hộ dân cư có tư tưởng ỷ lại, không quyết tâm phấn đấu vươn lên trong lao động sản xuất, còn chông chờ vào chính sách hỗ trợ của nhà nước và không muốn thoát nghèo. Việc giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các năm cuối giai đoạn có khó khăn hơn so với những năm đầu giai đoạn do các nhóm hộ có điều kiện kinh tế khá hơn đã được giảm nghèo ở những năm trước, vì vậy xu hướng giảm nghèo cuối giai đoạn sẽ gặp khó khăn hơn.