CTTĐT - Bảo hiểm tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN) là một trong những chính sách của hệ thống an sinh xã hội nước ta, nhằm bảo đảm hơn đời sống của người lao động khi gặp rủi ro. Vì vậy, Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 bên cạnh việc bổ sung thêm đối tượng được áp dụng để khuyến khích người lao động tự nguyện tham gia, thì còn quy định cụ thể các hành vi bị cấm trong an toàn vệ sinh lao động.
Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 quy định 7 hành vi bị cấm trong an toàn vệ sinh lao động
Điều 12 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 quy định 7 hành vi bị cấm trong an toàn vệ sinh lao động, cụ thể:
Về TNLĐ, BNN, cấm người sử dụng lao động: che giấu, khai báo hoặc báo cáo sai sự thật về TNLĐ, BNN; không thực hiện các yêu cầu, biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động; buộc người lao động phải làm việc hoặc không được rời khỏi nơi làm việc khi có nguy cơ xảy ra TNLĐ; buộc người lao động tiếp tục làm việc khi nguy cơ xảy ra TNLĐ chưa được khắc phục.
Về đóng bảo hiểm: Người sử dụng lao động, tổ chức bảo hiểm không được trốn đóng, chậm đóng tiền bảo hiểm TNLĐ, BNN; chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN; gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN; không chi trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động; quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN không đúng quy định của pháp luật; truy cập, khai thác trái pháp luật cơ sở dữ liệu về bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Đối với việc sử dụng máy, thiết bị, vật tư, người sử dụng lao động không được sử dụng máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động trong một số trường hợp: Không được kiểm định; kết quả kiểm định không đạt yêu cầu; không có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng; hết hạn sử dụng; không bảo đảm chất lượng, gây ô nhiễm môi trường.
Về công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động: Doanh nghiệp, cơ sở có chức năng trong công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động bị cấm gian lận trong các hoạt động kiểm định, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động, quan trắc môi trường lao động, giám định y khoa; cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người sử dụng lao động.
Về phân biệt đối xử, người sử dụng lao động đặc biệt bị cấm nếu thực hiện hành vi phân biệt đối xử về giới; vì lý do người lao động từ chối làm việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra TNLĐ; vì lý do đã thực hiện công việc, nhiệm vụ bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại cơ sở của người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, an toàn, vệ sinh viên, người làm công tác y tế.
Với kỹ năng của lao động, cấm doanh nghiệp sử dụng lao động hoặc làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động khi chưa được huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động.
Về phương thức chăm sóc sức khỏe người lao động: Pháp luật cấm người sử dụng lao động trả tiền thay cho việc bồi dưỡng bằng hiện vật nhằm đảm bảo sức khỏe cho người lao động. Cá nhân, tổ chức có liên quan đến công tác an toàn, vệ sinh lao động đều phải chấp hành nghiêm chỉnh các điều cấm của pháp luật. Việc làm này không chỉ bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động mà còn bảo đảm tài sản, của cải cho doanh nghiệp và toàn xã hội. Chính vì vậy, những trường hợp vi phạm sẽ phải chịu những chế tài thích đáng.
Là đơn vị có trách nhiệm chi trả chế độ cho người lao động khi bị TNLĐ, BNN, Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 cũng quy định rõ: Cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm kiểm tra việc đóng, hưởng các chế độ đối với người lao động và người sử dụng lao động; từ chối yêu cầu chi trả chế độ hỗ trợ không đúng quy định của pháp luật; đồng thời có quyền kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về hỗ trợ phòng ngừa TNLĐ, BNN; quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN…
Theo nhận định của các chuyên gia, an toàn lao động, vệ sinh lao động là việc làm cần thiết. Để bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho người lao động, cá nhân, tổ chức có liên quan không được phép thực hiện những hành vi bị cấm trong công tác an toàn vệ sinh lao động theo quy định của pháp luật.
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Bảo hiểm tai nạn lao động (TNLĐ), bệnh nghề nghiệp (BNN) là một trong những chính sách của hệ thống an sinh xã hội nước ta, nhằm bảo đảm hơn đời sống của người lao động khi gặp rủi ro. Vì vậy, Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 bên cạnh việc bổ sung thêm đối tượng được áp dụng để khuyến khích người lao động tự nguyện tham gia, thì còn quy định cụ thể các hành vi bị cấm trong an toàn vệ sinh lao động.Điều 12 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 quy định 7 hành vi bị cấm trong an toàn vệ sinh lao động, cụ thể:
Về TNLĐ, BNN, cấm người sử dụng lao động: che giấu, khai báo hoặc báo cáo sai sự thật về TNLĐ, BNN; không thực hiện các yêu cầu, biện pháp bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động; buộc người lao động phải làm việc hoặc không được rời khỏi nơi làm việc khi có nguy cơ xảy ra TNLĐ; buộc người lao động tiếp tục làm việc khi nguy cơ xảy ra TNLĐ chưa được khắc phục.
Về đóng bảo hiểm: Người sử dụng lao động, tổ chức bảo hiểm không được trốn đóng, chậm đóng tiền bảo hiểm TNLĐ, BNN; chiếm dụng tiền đóng, hưởng bảo hiểm TNLĐ, BNN; gian lận, giả mạo hồ sơ trong việc thực hiện bảo hiểm TNLĐ, BNN; không chi trả chế độ bảo hiểm TNLĐ, BNN cho người lao động; quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN không đúng quy định của pháp luật; truy cập, khai thác trái pháp luật cơ sở dữ liệu về bảo hiểm TNLĐ, BNN.
Đối với việc sử dụng máy, thiết bị, vật tư, người sử dụng lao động không được sử dụng máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động trong một số trường hợp: Không được kiểm định; kết quả kiểm định không đạt yêu cầu; không có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng; hết hạn sử dụng; không bảo đảm chất lượng, gây ô nhiễm môi trường.
Về công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động: Doanh nghiệp, cơ sở có chức năng trong công tác đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động bị cấm gian lận trong các hoạt động kiểm định, huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động, quan trắc môi trường lao động, giám định y khoa; cản trở, gây khó khăn hoặc làm thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người sử dụng lao động.
Về phân biệt đối xử, người sử dụng lao động đặc biệt bị cấm nếu thực hiện hành vi phân biệt đối xử về giới; vì lý do người lao động từ chối làm việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy cơ xảy ra TNLĐ; vì lý do đã thực hiện công việc, nhiệm vụ bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động tại cơ sở của người làm công tác an toàn, vệ sinh lao động, an toàn, vệ sinh viên, người làm công tác y tế.
Với kỹ năng của lao động, cấm doanh nghiệp sử dụng lao động hoặc làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn, vệ sinh lao động khi chưa được huấn luyện an toàn, vệ sinh lao động.
Về phương thức chăm sóc sức khỏe người lao động: Pháp luật cấm người sử dụng lao động trả tiền thay cho việc bồi dưỡng bằng hiện vật nhằm đảm bảo sức khỏe cho người lao động. Cá nhân, tổ chức có liên quan đến công tác an toàn, vệ sinh lao động đều phải chấp hành nghiêm chỉnh các điều cấm của pháp luật. Việc làm này không chỉ bảo vệ tính mạng, sức khỏe của người lao động mà còn bảo đảm tài sản, của cải cho doanh nghiệp và toàn xã hội. Chính vì vậy, những trường hợp vi phạm sẽ phải chịu những chế tài thích đáng.
Là đơn vị có trách nhiệm chi trả chế độ cho người lao động khi bị TNLĐ, BNN, Luật An toàn vệ sinh lao động 2015 cũng quy định rõ: Cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm kiểm tra việc đóng, hưởng các chế độ đối với người lao động và người sử dụng lao động; từ chối yêu cầu chi trả chế độ hỗ trợ không đúng quy định của pháp luật; đồng thời có quyền kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách, pháp luật về hỗ trợ phòng ngừa TNLĐ, BNN; quản lý, sử dụng Quỹ bảo hiểm TNLĐ, BNN…
Theo nhận định của các chuyên gia, an toàn lao động, vệ sinh lao động là việc làm cần thiết. Để bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho người lao động, cá nhân, tổ chức có liên quan không được phép thực hiện những hành vi bị cấm trong công tác an toàn vệ sinh lao động theo quy định của pháp luật.