P.V: Được
biết, công tác dân số giai đoạn vừa qua trên địa bàn tỉnh đã đạt được những
thành công nhất định. Cụ thể là gì, thưa ông?
Ông
Lương Kim Đức: Trong
giai đoạn 2011 - 2015, với nhiều chương trình, hoạt động, giải pháp và sự nỗ
lực của toàn ngành, công tác DS/KHHGĐ của tỉnh đã đạt được những kết quả quan
trọng trên cả ba bình diện: quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số.
Về quy
mô, bằng các hoạt động tuyên truyền, vận động đã giúp cho người dân nâng cao
nhận thức về KHHGĐ. Mô hình gia đình ít con đã được đông đảo nhân dân hưởng
ứng. Tỷ lệ sinh con thứ ba trở lên được duy trì dưới 10%. Mức giảm sinh hàng
năm đạt 0,3%o.
Hiện
nay, Yên Bái đã đạt và duy trì được mức sinh thay thế, từ đó góp phần quan
trọng vào sự phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh, nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân. Cơ cấu dân số theo giới tính hoàn thành đạt và vượt kế hoạch
trung ương giao, từ đó kiểm soát có hiệu quả tình trạng mất cân bằng giới tính
khi sinh.
Về mặt
chất lượng, các mô hình về chất lượng dân số bước đầu tác động để người dân dần
dần nhận thức được lợi ích của việc khám sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước
sinh, sơ sinh. Đặc biệt, qua việc tuyên truyền về vấn nạn tảo hôn, hôn nhân cận
huyết thống đã giúp các nhà hoạch định chính sách có chủ trương, chính sách
nhằm đẩy lùi tình trạng tảo hôn tại vùng cao, vùng dân tộc thiểu số của tỉnh.
P.V: Theo
ông, những kinh nghiệm nào có thể rút ra từ thành công này?
Ông
Lương Kim Đức: Yếu tố quyết định sự thành công của công tác
DS/KHHGĐ là sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, sát sao của Đảng và chính quyền
các cấp, đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cấp, ban,
ngành, đoàn thể và các tổ chức chính trị - xã hội tạo nên sức mạnh tổng hợp
trong việc quán triệt thực hiện chính sách DS/KHHGĐ đến cơ sở và mọi người dân.
Cũng cần đẩy mạnh đồng bộ các giải pháp thực hiện chương trình mục tiêu
DS/KHHGĐ, đặc biệt là kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu quả quản lý của
hệ thống chuyên trách DS/KHHGĐ; đầu tư kinh phí thỏa đáng cho công tác
DS/KHHGĐ, có chính sách phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi địa phương.
Bên
cạnh đó là việc tăng cường hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra, giám sát;
lồng ghép chương trình kiểm tra của cấp ủy, chính quyền với hoạt động giám sát
của HĐND để tăng tính hiệu quả; định kỳ sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu
dương khen thưởng kịp thời và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm chính sách
DS/KHHGĐ.
P.V: Những
kết quả đạt được là rất khả quan nhưng chắc chắn công tác DS/KHHGĐ ở một tỉnh
miền núi như Yên Bái vẫn còn những khó khăn, vương mắc?
Ông
Lương Kim Đức: Đúng vậy! Đó là việc mức giảm tỷ lệ sinh chưa
bền vững, không đồng đều giữa các vùng. Ở thị xã, thành phố, tỷ lệ sinh, sinh
con thứ 3 trở lên tương đối thấp nhưng ở vùng cao tỷ lệ sinh con thứ ba vẫn ở
mức cao. Chất lượng dân số mặc dù đã được cải thiện hơn, song vẫn còn thấp, các
mô hình nâng cao chất lượng dân số mới được triển khai thí điểm ở một số xã,
các hình thức tuyên truyền chưa được đổi mới. Mất cân bằng giới tính khi sinh,
mặc dù đã được kiểm soát nhưng vẫn ở mức cao. Chất lượng dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ ở
các xã vùng cao, vùng sâu còn hạn chế. Hệ thống cung cấp dịch vụ cho nhóm vị
thành niên, thanh niên chưa phát triển.
P.V: Những hạn chế, vướng mắc
này xuất phát từ đâu, thưa ông?
Ông
Lương Kim Đức: Những hạn chế, yếu kém này có nguyên nhân từ
nhiều yếu tố: một số cấp ủy đảng, chính quyền chưa thường xuyên quan tâm đến
công tác DS/KHHGĐ; chưa huy động được tham gia phối hợp thường xuyên, chặt chẽ
của các ban, ngành đoàn thể trong công tác DS/KHHGĐ; vẫn còn tình trạng cán bộ,
đảng viên vi phạm chính sách dân số, song việc xử lý vi phạm chưa nghiêm gây
ảnh hưởng xấu trong nhân dân.
Bên
cạnh đó, bộ máy tổ chức làm công tác DS/KHHGĐ thường xuyên bị thay đổi, cán bộ
chuyên trách dân số xã đảm nhiệm nhiệm vụ khá nặng nề, đến nay vẫn chưa được
tuyển dụng, thù lao ít ỏi, vì vậy không yên tâm, nhiệt tình thực hiện nhiệm vụ
nên thường xuyên thay đổi.
Trình
độ cán bộ làm công tác dân số còn nhiều bất cập cả chuyên môn và năng lực quản
lý, chưa chủ động, tham mưu đề xuất kịp thời với chính quyền địa phương có
những giải pháp phù hợp, đặc biệt là ở cấp huyện, cấp xã. Đội ngũ cộng tác viên
ở một số nơi, đặc biệt là ở vùng cao, vùng khó khăn còn hoạt động thiếu nhiệt
tình, kém hiệu quả. Công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền còn hạn chế,
chưa phù hợp và thu hút được các nhóm đối tượng như: nam giới, vị thành niên,
vùng đồng bào công giáo, đồng bào dân tộc; trang thiết bị truyền thông được đầu
tư từ năm 2006 hiện nay đã hỏng.
Công
tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chương trình DS/KHHGĐ chưa
được thường xuyên. Tiềm năng sinh sản lớn; trình độ dân trí của một bộ phận
người dân còn thấp, phong tục, tập quán lạc hậu, chậm chuyển đổi (trọng nam,
kinh nữ, tảo hôn, hôn nhân cùng huyết thống…). Mô hình can thiệp làm giảm tình
trạng tảo hôn, hôn nhận cận huyết thống mới chỉ được triển khai thí điểm tại 15
xã, chưa có điều kiện mở rộng tại các xã vùng cao khác. Nguồn kinh phí Chương
trình mục tiêu Quốc gia DS/KHHGĐ bị cắt giảm ảnh hưởng đến việc tuyên truyền,
vận động.
Nhìn
nhận rõ những khó khăn này, cũng là để ngành dân số nói riêng và toàn xã hội
nói chung cùng vào cuộc tiếp tục thực hiện có hiệu quả hơn nữa công tác
DS/KHHGĐ trong thời gian tới.
P.V: Trân
trọng cảm ơn ông!
Thu
Hạnh (thực hiện)
Theo Báo Yên Bái