Những năm gần đây, trên địa bàn thành phố Yên Bái phát triển mạnh nghề trồng nấm ăn và nấm dược liệu. Từ đó, xuất hiện nhiều các cơ sở sản xuất nấm với quy mô lớn trên 3 vạn bịch nấm các loại. Các mô hình này đã mang lại thu nhập từ 40 - 60 triệu đồng/năm. Hiện tại, toàn thành phố có trên 30 cơ sở sản xuất nấm đầu tư bán kiên cố lán trại để sản xuất lâu dài, sản lượng nấm bình quân mỗi năm trên 200 tấn.
Bà Vũ Thị Chay ở thôn Minh Long, xã Tuy Lộc, thành phố Yên Bái kiểm tra sự phát triển của lứa nấm mới.
Gia
đình ông Nguyễn Xuân Tĩnh - thôn Minh Long, xã Tuy Lộc là một hộ điển hình về
nuôi trồng nấm. Năm 2009, gia đình ông bắt đầu trồng khoảng 4.000 bịch nấm mộc
nhĩ. Sau một vài vụ có hiệu quả, vợ chồng ông bàn nhau cải tạo, xây dựng mở
rộng nhà nuôi trồng nấm với diện tích gần 400 m2 trên đất vườn của gia đình.
Ông
Tĩnh cho biết: “Ngoài chất lượng giống nấm, chăm sóc nấm theo đúng quy trình kỹ
thuật thì việc phối trộn, xử lý nguyên liệu đóng bịch nấm rất quan trọng, khâu
này đóng vai trò quyết định đến thành công của vụ nấm”. Được cán bộ khuyến nông
tư vấn, hướng dẫn gia đình ông đã láng nền xi măng toàn bộ diện tích nhà nuôi
trồng nấm, vừa sạch sẽ bảo đảm vệ sinh lại dễ dàng duy trì được nhiệt độ, độ ẩm
của nhà nấm nhất là những ngày nắng nóng. Từ kiến thức học được qua các lớp tập
huấn, ông Tĩnh đã áp dụng một cách linh hoạt vào điều kiện sản xuất của gia
đình, trung bình mỗi năm thu nhập từ trồng nấm của gia đình ông đạt 40 - 50
triệu đồng.
Cũng ở
thôn Minh Long, xã Tuy Lộc, mô hình trồng nấm của nhóm hộ bà Vũ Thị Chay với 4
thành viên thường xuyên duy trì 20.000 bịch nấm mộc nhĩ. Năm 2013, nhóm hộ của
bà Chay được hỗ trợ 30 triệu đồng mua lò hấp bịch nấm và 30 triệu đồng làm nhà
đóng bịch. Mỗi vụ nấm sản xuất trong 4 tháng. Vụ nấm thu đông năm 2013, sau khi
trừ các loại chi phí, mỗi hộ lãi trên 10 triệu đồng. Vụ nấm thu đông năm 2014
các hộ tiếp tục duy trì số lượng bịch nấm hiện có, đồng thời, mỗi hộ làm thử
nghiệm 3.000 bịch nấm hương cho thu nhập cao.
Hiện
nay, toàn xã Tuy Lộc có 5 hộ và nhóm hộ sản xuất nấm với gần 30.000 bịch nấm
các loại, hàng năm cho thu nhập vài trăm triệu đồng. Các mô hình sản xuất nấm
không những tận dụng được phế phẩm nông nghiệp như: rơm rạ, mùn cưa... mà còn
làm hạn chế nguồn phế phẩm thải ra gây ô nhiễm môi trường.
Theo
đánh giá của các hộ nuôi trồng nấm thì nghề trồng nấm không khó, nhưng đòi hỏi
người trồng phải chịu khó, siêng năng từ khâu chọn nguyên liệu cho đến khâu xử
lý, chuẩn bị đất cũng như chăm sóc. Với những ưu điểm như vốn đầu tư ít, kỹ
thuật trồng không khắt khe, công chăm sóc không nhiều nhưng hiệu quả của nghề
nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu cao gấp 3 - 4 lần so với làm ruộng. Trong
các loại nấm thì nấm sò đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả do chi phí giống
không cao, thời gian thu hoạch nhanh, sau khi cấy giống khoảng 1 tháng là có
thể cho thu hoạch. Để giúp người dân mở rộng phát triển sản xuất, hàng năm
thành phố Yên Bái có những chính sách hỗ trợ cho các mô hình sản xuất trong đó
có sản xuất nấm.
Năm
2015, thành phố hỗ trợ cho 4 hộ trồng nấm xây dựng lán trại với diện tích
từ 100 m2 trở lên là 5 triệu đồng/hộ. Với những chính sách khuyến khích cụ thể,
thiết thực đến nay, thành phố Yên Bái đã có 33 hộ phát triển sản xuất nấm ăn và
nấm dược liệu quy mô vừa và lớn. Tính đến hết tháng 10/2015, số bịch nấm người
dân sản xuất vụ thu đông là 350.000 bịch; trong đó, 235.000 bịch nấm mộc nhĩ,
70.000 bịch nấm sò, 45.000 bịch nấm Linh chi.
Trồng
nấm hiệu quả là vậy nhưng hiện nay việc sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu của
người dân chủ yếu còn mang tính tự phát, hộ làm sau học tập cách làm của hộ làm
trước mà chưa có quy hoạch cụ thể. Các hộ, nhóm hộ sản xuất nấm đều phải tự tìm
đầu mối tiêu thụ cho mình và thường bị tư thương ép giá, nên dù thấy được hiệu
quả cao muốn mở rộng quy mô cũng rất khó. Chính vì thế, để nghề nuôi trồng nấm
phát triển một cách bền vững và có hiệu quả ngoài những chính sách hỗ trợ thì
thành phố cần có quy hoạch cụ thể để người dân không sản xuất ồ ạt; kêu gọi sự
liên doanh liên kết của các doanh nghiệp trong khâu tiêu thụ. Xét trên thực tế
cho dù cây nấm có giá trị đến đâu thì cũng phải phụ thuộc vào thị trường tiêu
thụ. Trong khi đó, hầu hết số nấm thương phẩm người dân làm ra chủ yếu được bán
trong thành phố. Do đó, một khi sự phát triển ồ ạt, nấm sản xuất nhiều mà đầu
ra không đảm bảo thì sẽ lại khó cho người sản xuất.
1188 lượt xem
Theo Hồng Duyên/Báo Yên Bái
Những năm gần đây, trên địa bàn thành phố Yên Bái phát triển mạnh nghề trồng nấm ăn và nấm dược liệu. Từ đó, xuất hiện nhiều các cơ sở sản xuất nấm với quy mô lớn trên 3 vạn bịch nấm các loại. Các mô hình này đã mang lại thu nhập từ 40 - 60 triệu đồng/năm. Hiện tại, toàn thành phố có trên 30 cơ sở sản xuất nấm đầu tư bán kiên cố lán trại để sản xuất lâu dài, sản lượng nấm bình quân mỗi năm trên 200 tấn.
Gia
đình ông Nguyễn Xuân Tĩnh - thôn Minh Long, xã Tuy Lộc là một hộ điển hình về
nuôi trồng nấm. Năm 2009, gia đình ông bắt đầu trồng khoảng 4.000 bịch nấm mộc
nhĩ. Sau một vài vụ có hiệu quả, vợ chồng ông bàn nhau cải tạo, xây dựng mở
rộng nhà nuôi trồng nấm với diện tích gần 400 m2 trên đất vườn của gia đình.
Ông
Tĩnh cho biết: “Ngoài chất lượng giống nấm, chăm sóc nấm theo đúng quy trình kỹ
thuật thì việc phối trộn, xử lý nguyên liệu đóng bịch nấm rất quan trọng, khâu
này đóng vai trò quyết định đến thành công của vụ nấm”. Được cán bộ khuyến nông
tư vấn, hướng dẫn gia đình ông đã láng nền xi măng toàn bộ diện tích nhà nuôi
trồng nấm, vừa sạch sẽ bảo đảm vệ sinh lại dễ dàng duy trì được nhiệt độ, độ ẩm
của nhà nấm nhất là những ngày nắng nóng. Từ kiến thức học được qua các lớp tập
huấn, ông Tĩnh đã áp dụng một cách linh hoạt vào điều kiện sản xuất của gia
đình, trung bình mỗi năm thu nhập từ trồng nấm của gia đình ông đạt 40 - 50
triệu đồng.
Cũng ở
thôn Minh Long, xã Tuy Lộc, mô hình trồng nấm của nhóm hộ bà Vũ Thị Chay với 4
thành viên thường xuyên duy trì 20.000 bịch nấm mộc nhĩ. Năm 2013, nhóm hộ của
bà Chay được hỗ trợ 30 triệu đồng mua lò hấp bịch nấm và 30 triệu đồng làm nhà
đóng bịch. Mỗi vụ nấm sản xuất trong 4 tháng. Vụ nấm thu đông năm 2013, sau khi
trừ các loại chi phí, mỗi hộ lãi trên 10 triệu đồng. Vụ nấm thu đông năm 2014
các hộ tiếp tục duy trì số lượng bịch nấm hiện có, đồng thời, mỗi hộ làm thử
nghiệm 3.000 bịch nấm hương cho thu nhập cao.
Hiện
nay, toàn xã Tuy Lộc có 5 hộ và nhóm hộ sản xuất nấm với gần 30.000 bịch nấm
các loại, hàng năm cho thu nhập vài trăm triệu đồng. Các mô hình sản xuất nấm
không những tận dụng được phế phẩm nông nghiệp như: rơm rạ, mùn cưa... mà còn
làm hạn chế nguồn phế phẩm thải ra gây ô nhiễm môi trường.
Theo
đánh giá của các hộ nuôi trồng nấm thì nghề trồng nấm không khó, nhưng đòi hỏi
người trồng phải chịu khó, siêng năng từ khâu chọn nguyên liệu cho đến khâu xử
lý, chuẩn bị đất cũng như chăm sóc. Với những ưu điểm như vốn đầu tư ít, kỹ
thuật trồng không khắt khe, công chăm sóc không nhiều nhưng hiệu quả của nghề
nuôi trồng nấm ăn và nấm dược liệu cao gấp 3 - 4 lần so với làm ruộng. Trong
các loại nấm thì nấm sò đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả do chi phí giống
không cao, thời gian thu hoạch nhanh, sau khi cấy giống khoảng 1 tháng là có
thể cho thu hoạch. Để giúp người dân mở rộng phát triển sản xuất, hàng năm
thành phố Yên Bái có những chính sách hỗ trợ cho các mô hình sản xuất trong đó
có sản xuất nấm.
Năm
2015, thành phố hỗ trợ cho 4 hộ trồng nấm xây dựng lán trại với diện tích
từ 100 m2 trở lên là 5 triệu đồng/hộ. Với những chính sách khuyến khích cụ thể,
thiết thực đến nay, thành phố Yên Bái đã có 33 hộ phát triển sản xuất nấm ăn và
nấm dược liệu quy mô vừa và lớn. Tính đến hết tháng 10/2015, số bịch nấm người
dân sản xuất vụ thu đông là 350.000 bịch; trong đó, 235.000 bịch nấm mộc nhĩ,
70.000 bịch nấm sò, 45.000 bịch nấm Linh chi.
Trồng
nấm hiệu quả là vậy nhưng hiện nay việc sản xuất nấm ăn và nấm dược liệu của
người dân chủ yếu còn mang tính tự phát, hộ làm sau học tập cách làm của hộ làm
trước mà chưa có quy hoạch cụ thể. Các hộ, nhóm hộ sản xuất nấm đều phải tự tìm
đầu mối tiêu thụ cho mình và thường bị tư thương ép giá, nên dù thấy được hiệu
quả cao muốn mở rộng quy mô cũng rất khó. Chính vì thế, để nghề nuôi trồng nấm
phát triển một cách bền vững và có hiệu quả ngoài những chính sách hỗ trợ thì
thành phố cần có quy hoạch cụ thể để người dân không sản xuất ồ ạt; kêu gọi sự
liên doanh liên kết của các doanh nghiệp trong khâu tiêu thụ. Xét trên thực tế
cho dù cây nấm có giá trị đến đâu thì cũng phải phụ thuộc vào thị trường tiêu
thụ. Trong khi đó, hầu hết số nấm thương phẩm người dân làm ra chủ yếu được bán
trong thành phố. Do đó, một khi sự phát triển ồ ạt, nấm sản xuất nhiều mà đầu
ra không đảm bảo thì sẽ lại khó cho người sản xuất.