Chủ động triển khai
thực hiện Nghị quyết
Ngay sau khi Nghị quyết 10-NQ/TU của Tỉnh ủy được ban
hành, UBND tỉnh đã cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh phát triển, nâng
cao chất lượng giáo dục đào tạo giai đoạn 2009-2015 trong Chương trình hành
động và kế hoạch công tác hàng năm gắn mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục
với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh và của từng địa phương.
Thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TU của Tỉnh ủy và Chương
trình hành động của UBND tỉnh, các địa phương đã cụ thể hóa, chủ động ban hành các văn bản triển khai thực hiện. Từ
năm 2010 đến nay, đã có 35 văn bản được ban hành, trong đó có 10 văn bản chỉ đạo của các
huyện uỷ, thị ủy, thành ủy, 03 văn bản của HĐND cấp huyện, 22 văn bản chỉ đạo
của UBND các huyện, thị xã, thành phố trong việc cụ thể hóa các mục tiêu, nhiệm
vụ của Nghị quyết sát hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương trong từng
thời kỳ.
Cùng với đó, các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh
đã tập trung tuyên truyền sâu rộng về các mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp đẩy
mạnh phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục của tỉnh theo
tinh thần của Nghị quyết số 10-NQ/TU. Qua đó góp phần nâng cao nhận thức của
các cấp, các ngành, đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân trên địa
bàn tỉnh về ý nghĩa, vai trò quan trọng của
công tác phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế.
Vì vậy sau khi được triển khai thực hiện Nghị quyết đã
nhận được sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành và đạt nhiều kết quả đáng
khích lệ, cơ bản hoàn thành các chỉ tiêu Nghị quyết 10-NQ/TU đề ra, một số chỉ tiêu
hoàn thành vượt mức.
Tăng cường cơ sở
vật chất, trang thiết bị dạy học nâng cao chất lượng giáo dục
Trong những năm qua tỉnh luôn quan tâm điều chỉnh quy
hoạch, rà soát mạng lưới trường lớp, sắp xếp lại với số lượng, quy mô phù hợp,
học sinh lớp ghép giảm; học sinh được học 2 buổi/ngày phù hợp với tình hình
thực tế của các địa phương nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Toàn ngành hiện có 590 cơ sở giáo
dục từ mầm non, phổ thông, thường xuyên, chuyên nghiệp và dạy nghề. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy
học được quan tâm đầu tư, tỷ lệ phòng học kiên cố tăng dần qua các năm (hiện nay
tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 69%, tăng 9,7% so với thời điểm ban hành Nghị
quyết). Toàn tỉnh hiện có 209 trường mầm non, phổ thông được xét công nhận
trường trường đạt chuẩn quốc gia, chiếm 37%.
Chất lượng giáo dục các cấp học được nâng lên, tỷ lệ
học sinh thi đỗ các trường đại học, cao đẳng tăng theo các năm (tăng 7,8% so
với năm 2010), chất lượng giáo dục mũi nhọn có nhiều tiến bộ, số lượng học sinh đạt giải trong
các kỳ thi học sinh giỏi cấp khu vực và quốc gia luôn đạt ở mức cao so với khu
vực. Từ năm
học 2009 – 2010 đến năm học 2014 - 2015, toàn tỉnh có 524 học sinh đạt giải quốc gia các
môn văn hóa, giải toán
trên máy tính cầm tay, giải toán và thi tiếng Anh trên mạng Internet; Số học
sinh thi đỗ vào học đại học, cao đẳng của tỉnh tăng từ 27,4% năm 2010 lên 35,2%
năm 2015 (tăng 7 8%). Đặc biệt, năm học 2014 – 2015 CÓ 01 học sinh đạt giải khuyến khích kỳ
thi Olympic Vật lý khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, có học sinh đỗ thủ khoa các trường Đại học.
Công tác giáo dục dân tộc được quan tâm đầu tư. Bên
cạnh việc quan tâm chỉ đạo, kịp thời triển khai các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, tỉnh Yên Bái đã ban hành nhiều nghị
quyết chuyên đề và nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm phát triển và
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Hiện tỉnh có 9 trường phổ thông dân
tộc nội trú với 88 lớp, 2.911 học sinh. 8,1%
học sinh dân tộc thiểu số cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông được học ở
trường phổ thông dân tộc nội trú. Tỷ lệ học sinh tại các trường nội trú THPT đỗ
đại học, cao đẳng đạt kết quả đáng khích lệ, tăng dần theo từng năm. Toàn tỉnh hiện có 47 trường phổ thông dân tộc bán trú và 53
trường có học sinh bán trú với tổng số 14.740 học sinh bán trú được hưởng chính
sách hỗ trợ theo Quyết định số 85/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ..
Công tác phổ cập giáo dục được giữ vững và nâng cao
chất lượng. Trong đó, công tác phổ cập giáo dục tiểu học đứng độ tuổi đã
được tích cực chỉ đạo thực hiện với các giải pháp đồng bộ, nhất là tại các xã
vùng khó khăn. Tỉnh được Bộ Giáo dục và Đào tạo công nhận tỉnh đạt chuẩn phổ
cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi tháng 12/2009. Phổ cập giáo dục trung học cơ
sở tiếp tục được củng cố và duy trì theo hướng bền vững, liên tục giữ vững
chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục trung học cơ sở từ năm 2007. 09/09 huyện, thị, thành phố
đã hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi.
Các chế độ chính sách đối với giáo viên và học sinh được
quan tâm và triển khai đầy đủ. Bổ sung biên chế giáo viên, nhân viên cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo để đáp ứng nhu cầu quản lý và giảng dạy, trong 05
năm đã bổ sung thêm 2.466 biên chế và 124 hợp đồng theo Nghị định 68, tỷ lệ
giáo viên trên chuẩn các cấp học tăng; công tác quản lý giáo dục không ngừng
được đổi mới.
Có giải pháp tích cực nhằm khắc phục những tồn tại,
hạn chế trong việc triển khai tổ chức thực hiện Quyết định 13/2009/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tình. Chủ động sáp nhập các trung tâm Giáo dục thường xuyên -
Hướng nghiệp dạy nghề và các trung tâm dạy nghề thành trung tâm Dạy nghề. Giáo
dục thường xuyên đảm bảo tinh giảm bộ máy và hoạt động hiệu quả.
Tuy nhiên bên cạnh kết quả đạt được, công tác phát triển và nâng
cao chất lượng giáo dục và đào tạo trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số tồn tại, như: Tỷ lệ huy động học sinh ra lớp, duy trì đi học chuyên cần
ở vùng cao, vùng khó khăn còn thấp; chất lượng giáo dục chênh lệch giữa các
vùng, miền, đặc biệt một số huyện vùng cao, vùng sâu; Công tác quản lý cán bộ,
xây dựng đội ngũ giáo viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới và phát triển
giáo dục; Cơ sở vật chất của các cơ sở giáo dục vẫn còn thiếu, nhất là ngành
học mầm non, đặc biệt trong giai đoạn triển khai đề án phổ cập giáo dục mẩm non
cho trẻ em 5 tuổi, đề án phát triển giáo dục mầm non, đề án phát triển hệ thống
trường phổ thông dân tộc bán trú, xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia….
Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
Để tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, trong thời gian tới tỉnh Yên Bái tiếp
tục thực hiện có hiệu quả các mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ 2015 - 2020 và các nội dung còn phù hợp nêu trong
Nghị quyết 10.
Trong đó tập trung rà soát mạng lưới trường lớp, điều
chỉnh quy hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo giai đoạn 2010-2020.
Sáp nhập những đơn vị nhà trường có số lớp, số học sinh quá ít; giảm số lớp
ghép ở các điểm trường tiểu học vùng cao để nâng cao chất lượng. Chỉ đạo rà
soát, sắp xếp, sáp nhập các trường tiểu học ổn định có 5 lớp, trung học cơ sở
có 4 lớp đến năm 2020; đối với các trường có quy mô lớn có thể tách thành
trường độc lập khi đảm bảo điều kiện về cơ sở vật chất, đội ngũ.
Xây dựng đề án đưa học sinh điểm lẻ về điểm trường
chính, sáp nhập giảm bớt các điểm trường lẻ của mầm non, tiểu học, phấn đấu đến
năm 2020 giảm 80 điểm trường lẻ; huy động học sinh nhà trẻ 0-2 tuổi ra lớp phù
hợp với tình hình thực tế của địa phương. Xây dựng và phát triển trường Trung
học phổ thông Chuyên Nguyễn Tất Thành trở thành cơ sở giáo dục chất lượng cao
so với khu vực. Xây dựng hệ thống trường phổ thông trọng điểm chất lượng cao
các huyện, thị, thành phố đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
của tỉnh. Duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập đến năm 2020
Về xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viễn, nhân
viên: Tiếp tục thực hiện tốt công tác rà soát, đánh giá, sắp xếp, sử dụng đội
ngũ theo hướng tinh gọn, hiệu quả; tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn các
đơn vị trong việc quản lý, sử dụng công chức, viên chức. Phát triển đội ngũ nhà
giáo và cán bộ quản lý giáo dục bảo đảm đủ về sổ lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc
biệt đối với các trường nội trú, bán trú, các trường đạt chuẩn quốc gia. Tiếp
tục thực hiện chuẩn nghề nghiệp giáo viên, chuẩn hiệu trường. Tổ chức bồi
dưỡng, đào tạo lại đội ngũ giáo viên phổ thông, giáo viên mầm non
đáp ứng yêu cầu triển khai chương trình, sách giáo khoa mới. Xây dựng và triển
khai chương trình bồi dưỡng giáo viên, giảng viên và cán bộ quản lý các cơ sở
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục, đào
tạo và dạy nghề.
Về đầu tư cơ sử vật chất, trang thiết bị: Tăng cường
huy động các nguồn lực để triển khai các đề án, dự án, kế hoạch của tỉnh đã ban
hành về giáo dục và đào tạo; đầu tư xây dựng kiên cố hoá trường lợp học, xoá
phòng học tạm, xây dựng nhà công vụ cho giáo viên vùng cao, phấn đấu đến năm
2020, tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 80%, tiếp tục đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ
giảng dạy và học tập.
Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu
quả công tác quản lý giáo dục. Tăng cường các giải pháp giảm tỷ lệ học sinh yếu kém
và học sinh bỏ học, tăng tỷ lệ học sinh khá, giỏi; phấn đấu không có học sinh
tiểu học bỏ học; tăng cường các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng
nông thôn, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của tỉnh. Thực
hiện có hiệu quả nội dung giáo dục phổ thông theo hướng chuẩn hóa, hiện đại,
tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở
các lớp học trên, quan tâm đến thực hành, sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học để
phục vụ cho đổi mới dạy và học, ổn định, phát huy chất lượng đại trà và xây
dựng các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng giáo dục mũi nhọn.
Đầu tư phát triển giáo dục cho các địa bàn khó khăn,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về mặt
bằng dân trí giữa các vùng trong tỉnh. Thực hiện tốt các chính sách ưu tiên, hỗ
trợ cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số, con em các gia đình có hoàn cảnh
đặc biệt khó
khăn, con thương binh, liệt sĩ, người có công với nước, học sinh khuyết tật.
Tăng cường chỉ đạo nâng cao chất lượng các hoạt động chăm sóc, giáo dục học
sinh ờ các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú.
Giữ vững và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục
trung học cơ sở. Phấn đấu đến năm 2020 có 50% trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia.