Không phải huyện vùng cao nhưng Yên Bình
cũng gặp không ít khó khăn trong sản xuất nông, lâm nghiệp. Ruộng nương manh
mún, nhỏ lẻ, tập quán canh tác lạc hậu, địa hình chia cắt, trình độ thâm canh
không đồng đều, xuất phát điểm thấp, thiếu vốn, thiếu tư liệu sản xuất... là
những lực cản trong sản xuất nông, lâm nghiệp. Nhưng bằng những chính sách hỗ
trợ, hướng đi đúng, sản xuất nông nghiệp đã vượt lên chính mình.
Xác định rõ những hạn chế, tồn tại, những
năm qua, Yên Bình đã có những hoạch định chiến lược trong sản xuất nông, lâm
nghiệp. Đối với các xã vùng cao, vùng khó khăn, việc trước mắt là làm sao bảo
đảm an ninh lương thực, cùng với đó là phát huy lợi thế, tiềm năng từng xã để
phát triển sản xuất.
Đối với các xã vùng thấp, vùng có trình độ
thâm canh cao thì sản xuất theo hướng hàng hoá và thị trường. Riêng các xã dọc
tuyến quốc lộ 70 có thế mạnh về rừng và đất rừng thì đẩy mạnh phát triển lâm
nghiệp.
Không chỉ chỉ đạo chung chung, hô hào mà
huyện đã xây dựng thành các nghị quyết chuyên đề, chương trình phát triển kinh
tế gắn với thế mạnh với từng vùng, từng địa phương cụ thể.
Đồng thời, quy hoạch và hình thành các vùng
sản xuất hàng hóa, vùng sản xuất tập trung cụ thể như: vùng lúa cao sản trên
500 ha, vùng chè nguyên liệu trồng các giống tiến bộ kỹ thuật trên 700 ha, vùng
cây ăn quả đặc sản bưởi Đại Minh 200 ha, vùng trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế
cao như bưởi Diễn, thanh long ruột đỏ tại các xã: Mông Sơn, Bạch Hà, Vĩnh Kiên,
Mỹ Gia, Tích Cốc, quy mô trên 500 ha; vùng tre măng Bát độ trên 300 ha; vùng
quế 1.000 ha...
Huyện cũng chỉ đạo tăng cường áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất; đồng thời, xây dựng và triển khai thực
hiện tốt các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, các dự án khoa học
công nghệ cấp tỉnh và đề án phát triển sản xuất của huyện, làm cơ sở chuyển đổi
nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi; đặc biệt, từ khi thực hiện các chính sách hỗ
trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản, nông thôn từ nguồn vốn ngân
sách tỉnh.
Chỉ tính riêng giai đoạn 2011 - 2015, từ
nguồn vốn ngân sách của tỉnh, của huyện đã hỗ trợ trên 23 tỷ đồng cho sản xuất,
hỗ trợ cho các đề án như: hỗ trợ chăn nuôi lợn thả chuồng, hỗ trợ chăn nuôi gia
cầm, hỗ trợ giống lúa, ngô, trồng chè... hay như đề án phát triển cây quế, chăn
nuôi bò tập trung...
Những hướng đi đó đã góp phần thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp ở Yên Bình một cách mạnh mẽ. Các xã đã tích cực đầu tư cơ giới
vào sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề nông thôn. Người
dân đã mạnh dạn vay vốn đầu tư phát triển sản xuất; trong đó, chú trọng đầu tư máy
móc, nhà xưởng phục vụ sản xuất, chế biến lâm sản.
Tiêu biểu nhất, hiệu quả nhất trong các
chính sách hỗ trợ sản xuất ở Yên Bình trong những năm qua phải kể đến chăn nuôi
thuỷ sản trên hồ Thác Bà. Với trên 23 ngàn héc-ta mặt nước nhưng kể từ khi xoá
bỏ cơ chế bao cấp thì toàn bộ người dân vùng hồ chủ yếu là đánh bắt tự nhiên.
Phát triển cây ăn quả có múi góp
phần xóa đói giảm nghèo ở xã Bạch Hà, huyện Yên Bình.
Từ đó, nguồn lợi thuỷ sản giảm dần theo năm
tháng và cạn kiệt. Nhưng vài năm trở lại đây, với thế mạnh về mặt nước, nhất là
đối với các xã ven vùng hồ Thác Bà, huyện đã chỉ đạo phát triển toàn diện cả
khai thác, nuôi trồng và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Chỉ tính riêng 5 năm qua, huyện đã hỗ trợ
đóng mới 220 lồng cá, đưa tổng số lồng nuôi cá đạt 393 lồng, hỗ trợ 42 ha nuôi
cá bằng biện pháp quây lưới trên eo, ngách hồ Thác Bà, xây dựng hàng chục mô
hình nuôi cá nheo trong lồng.
Nhờ hướng đi đúng đắn ấy, hôm nay, chăn
nuôi thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế mạnh của huyện, góp phần không nhỏ
trong xóa đói giảm nghèo. Sản lượng thủy sản đánh bắt năm 2015 ước đạt 3.500
tấn, tăng 1.500 tấn so với năm 2010, giá trị thủy sản tăng bình quân 17%/năm.
Hay như các đề án hỗ trợ phát triển vùng
cây ăn quả đặc sản bưởi Đại Minh, lúa gạo Bạch Hà, cuộc sống người dân đã khá
giả, giàu có trông thấy.
Từ một huyện nghèo nay Yên Bình đã có bước
phát triển toàn diện, số hộ giàu trong nông nghiệp, nông thôn ngày một tăng.
Quan trọng hơn là huyện đã phát triển một nền nông nghiệp bền vững trên cơ sở
phát huy tối đa lợi thế về nông nghiệp của gắn với xây dựng nông thôn mới; ứng
dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hoá, chuyển từ phát triển
bề rộng sang chiều sâu; nâng cao cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất
lượng và giá trị gia tăng; nâng cao thu nhập, cải thiện mức sống của dân cư
nông nghiệp, ổn định chính trị - xã hội.
(Theo Báo Yên Bái)