Sau 5 năm triển khai thực hiện đã thu được
những kết quả nhất định, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc
đã nâng lên. Tuy nhiên, so với mục tiêu, Chương trình vẫn còn những khó khăn,
hạn chế đòi hỏi huyện phải có những cách làm và hướng đi riêng.
Mù Cang Chải là một trong 62 huyện nghèo
của cả nước, điểm xuất phát thấp, đời sống nhân dân chủ yếu dựa vào sản xuất
nông - lâm nghiệp là chính, tỷ lệ đói nghèo cao. Khi áp theo 19 tiêu chí về
XDNTM, hầu hết các xã mới chỉ đạt 2 - 3 tiêu chí.
Sau 5 năm triển khai thực hiện XDNTM với sự
đầu tư của Nhà nước, sự vào cuộc tích cực của các cấp chính quyền, các tổ chức
chính trị - xã hội, sự nỗ lực của đồng bào các dân tộc, diện mạo NTM đã có
những bước đổi thay đáng khích lệ. Rõ nét nhất là cơ sở hạ tầng nông thôn được
đầu tư, chỉnh sửa, nâng cấp, cứng hoá ngày một nhiều.
Quan trọng là bà con các dân tộc đã nhận
thức rõ hơn mục đích, ý nghĩa trong XDNTM là nâng cao đời sống nhân dân, mà
nhân dân là chủ thể. Dẫu còn muôn vàn khó khăn nhưng từ những nhận thức đó,
người dân vào cuộc một cách tích cực, người góp công, góp của, người góp đất
cùng chung tay xây dựng cơ sở hạ tầng.
Ông Phạm Tiến Lâm - Trưởng phòng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn huyện cho biết: “Cái được lớn nhất trong 5 năm
XDNTM là kinh tế nông thôn có nhiều thay đổi tích cực, đời sống nhân dân ổn
định, thu nhập bình quân đầu người năm sau tăng hơn năm trước, diện mạo nông
thôn có nhiều khởi sắc”.
Kết thúc năm 2015, toàn huyện đã có 2 xã
đạt 11 tiêu chí NTM, 6 xã đạt 9 tiêu chí, 3 xã đạt 8 tiêu chí, 2 xã đạt từ 5 -
7 tiêu chí. Những kết quả ấy đem so sánh với các địa phương khác thì còn khiêm
tốn nhưng đối với một huyện vùng cao đặc biệt khó khăn thật đáng trân trọng.
Những thay đổi bên ngoài đã đẹp và vui
nhưng những biến đổi sâu xa trong ý thức cũng rất đỗi tự hào. Nếu như trước
đây, bà con chỉ biết gieo cấy một vụ thì nay đã có nhiều diện tích gieo cấy hai
vụ và biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
Trước đây, phần lớn lấy chặt phá rừng, khai
thác rừng làm chính thì nay đã biết trồng và tu bổ rừng. Không chỉ có vậy,
trong 5 năm qua, bà con nhân dân các xã đã dần bỏ tập quán sản xuất lúa nương
sang trồng ngô đồi theo hướng hàng hóa thị trường hơn 1.140 ha, mỗi năm, cũng
đem về cho bà con trên 30 tỷ đồng. Hay những diện tích đất đồi, núi hoang hóa, bà
con nhân dân đã biết trồng cây sơn tra vừa phủ xanh vừa tạo một nguồn thu ổn
định.
Gia đình ông Hảng Súa Già ở xã La Pán Tẩn
là một hộ nghèo nhưng từ trồng cây sơn tra, chăm sóc và thu hái đúng quy trình
liên tục, vài ba năm trở lại đây, mỗi năm, thu bán từ 60 - 70 triệu đồng... Đó
là những minh chứng rõ nhất, thuyết phục nhất, hiệu quả nhất sau 5 năm thực
hiện Chương trình XDNTM.
Những kết quả, thành công bước đầu trong
XDNTM ở Mù Cang Chải là không ai có thể phủ nhận được. Tuy nhiên, nhìn một cách
tổng thể vẫn còn nhiều những khó khăn, hạn chế đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền nơi
đây cần có những cách làm và hướng đi riêng. Bởi lẽ, với đặc thù là một huyện
có gần 80% là hộ nghèo nên việc huy động sự đóng góp tiền mặt trong XDNTM là
khó khăn. Một vấn đề nữa trong xây dựng hạ tầng, nhất là đường giao thông cũng
vậy, huyện có 13 xã vùng cao, vùng sâu, dân cư thưa thớt nếu cứ huy động, cứ
đầu tư dàn trải thì rất khó. Hay như theo tiêu chí thu nhập và hộ nghèo cũng là
một khó khăn trở ngại vô cùng lớn...
Nói như vậy không có nghĩa khó là không làm
được mà huyện, xã cần tìm cho mình cách làm, hướng đi phù hợp với điều kiện tự
nhiên của địa phương. Có nhiều ý kiến cho rằng, không nên chạy theo 19 tiêu chí
mà cái chính, cái cốt lõi là nâng cao đời sống nhân dân. Cơ cấu kinh tế Mù Cang
Chải chủ yếu là nông - lâm nghiệp, công nghiệp, dịch vụ chậm phát triển, do
vậy, thiết nghĩ cần làm tốt hơn nữa việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật
nuôi.
Sản xuất lương thực cần tiếp tục đưa các
giống mới vào sản xuất, nâng cao năng suất, bảo đảm an ninh lương thực. Việc
chuyển đổi diện tích lúa nương sang trồng ngô đã tốt nhưng thực tế hiện còn rất
nhiều diện tích có khả năng chuyển đổi tiếp với diện tích cả ngàn héc-ta. Nếu chuyển
đổi thành công thì có thể nâng diện tích chuyển đổi lên 2.000 ha với năng suất
40 tạ/ha thì mỗi năm cũng đem về cho người dân trên dưới 60 tỷ đồng, một con số
không hề nhỏ.
Song song là phát huy lợi thế cây sơn tra,
trong trồng rừng phòng hộ nên đưa 100% cây sơn tra vào trồng. Đây là loài cây
rất phù hợp với vùng cao, với rừng phòng hộ vì chỉ 5 năm sau là cho thu hoạch
quả, rất có lợi cho cả môi trường và kinh tế.
Một ý kiến nữa là ngành nông nghiệp, huyện,
xã hãy xây dựng các mô hình liên kết chăn nuôi quy mô hàng hóa theo hướng các
nhóm hộ hay tổ hợp tác, hợp tác xã bởi lợi thế có nhiều đất đai, bãi cỏ tự
nhiên và trồng cỏ. Chăn nuôi chưa thực sự phát triển, bà con chủ yếu chăn nuôi nông
hộ, đã vậy còn hầu như không đầu tư chăm sóc mà thả rông vào rừng. Địa bàn
rộng, chăn nuôi đơn lẻ khâu phòng chống dịch bệnh rất khó khăn nên không thể
hiệu quả.
Cùng với đó là cần có cơ chế chính sách đào
tạo nghề, tạo việc làm cho lao động nông thôn; chính sách ưu đãi khuyến khích
các doanh nghiệp đầu tư chế biến quả sơn tra, ngô hay thảo quả cũng như dược
liệu..., tạo liên kết sản xuất, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông sản, kích thích
sản xuất. Trong xây dựng cơ sở hạ tầng, chủ yếu là huy động sức dân như mở đường,
san tạo mặt bằng chứ không thể huy động góp tiền, vì vậy, cũng cần tính toán
con đường nào, đoạn đường nào, trường học nào, chợ nào thiết thực cần xây dựng
trước thì làm.
Với hướng đi và cách làm như vậy, cùng với
các nguồn lực đầu tư của Nhà nước, chắc chắn, đời sống vật chất, tinh thần
người dân sẽ nâng cao, rút ngắn khoảng cách với vùng thấp.