Do vị trí quan trọng của cứ điểm A1, nên
Pháp bố trí ở đây những hỏa lực cực mạnh, dây thép gai nhiều tầng nhiều lớp,
được trấn giữ bởi những tiểu đoàn lê dương và Marốc thiện chiến nhất trong số
lính Pháp hiện có ở Đông Dương. Từ đồi A1, địch đào giao thông hào sang đồi A3,
để cơ động lực lượng và thực hiện các phương án ứng cứu khi cần thiết...
Về phía ta, mọi công tác chuẩn bị cho đợt
tiến công thứ ba đã tiến hành rất chu đáo. Các chiến hào được củng cố tới mức
bộ đội có thể di chuyển ban ngày ngay gần quân địch, cho phép các đơn vị mỗi
khi tiến đánh một vị trí, nhanh chóng bỏ qua giai đoạn đột phá tiền duyên. Cán bộ,
chiến sỹ thuộc địa hình cứ điểm mục tiêu như những đồn đã diễn tập nhiều lần.
Chiến sỹ vừa điều trị khỏi vết thương, chiến sỹ mới, nô nức về đơn vị để được
có mặt trong đợt tiến công cuối cùng. Đợt học tập chính trị đã mang lại cho mọi
người niềm tin vững chắc ở thắng lợi. Chưa lúc nào kho của mặt trận đầy đủ,
sung túc thóc gạo bằng thời kỳ này, hậu cần đã dự trữ đủ cho cả tháng Năm.
Mở đầu kế hoạch đợt 3 là thời gian chiến
đấu bắt đầu từ ngày 1 đến ngày 5/5/1954. Nhiệm vụ trọng tâm của đợt này là tiêu
diệt bằng được A1. Từ sau đợt tiến công khu đông, A1 trở thành nỗi nhức nhối
đối với các đơn vị tham gia chiến dịch. Đường hầm ở A1 đào chậm hơn dự kiến do
gặp khó khăn nhiều mặt. Trong khi đó, các đơn vị khác đều chuẩn bị xong, nhiều
mũi hào đã luồn sâu dưới hàng rào dây thép gai của địch. Bộ chỉ huy chiến dịch
quyết định đúng ngày “N” các đơn vị cứ nổ súng, triệt để áp dụng chiến thuật đánh
lấn để giảm nhẹ thương vong, riêng A1 sẽ đánh khi đường hầm ở A1 hoàn thành.
Ngày 1/5/1954, máy bay địch bắt đầu sử dụng
một loại bom mới của Mỹ (Hail Leaflet) chứa hàng ngàn mũi tên rất nhỏ sắc bén,
nhằm sát thương những đám đông. Loại bom này không gây nguy hiểm cho những
người ở trong công sự hoặc dưới chiến hào và khó sử dụng trong những trận đánh
khi quân ta và quân địch gần như trộn lẫn vào nhau. Lăng-gơ-le và Bigia đã điều
chỉnh, củng cố lại tổ chức phòng ngự ở khu trung tâm. Tại phía Đông, đơn vị 98
tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai. Brêxinhắc, vẫn đặt sở chỉ huy trên Êlian 4,
đã linh cảm trận đánh Êlian 1 sắp nổ ra trên đầu mình.
Ngày 1/5, Brê-xi-nhắc quyết định đưa Đại
đội 3 của Tiểu đoàn dù tiêm kích số 2 lên thay thế cho đại đội Clêđíeh (Clédic)
đã bị tiêu hao rất nhiều, đồng thời ra lệnh cho đại đội 1 sẵn sàng tham gia
phản kích. Đại đội 811 của ta đã có 20 ngày đêm phòng ngự tại C1, được lệnh rời
ra xa cách trận địa khoảng 200 mét cho hỏa pháo chuẩn bị.
Đại đội trưởng Lê Văn Dy thấy công sự đã
được củng cố vững chắc, đủ sức chịu đựng đạn pháo và tin vào sự chính xác của
pháo binh ta, nên quyết định chỉ cho bộ phận dự bị lui về phía sau, toàn đơn vị
vẫn bám trận địa để không lỡ thời cơ xung phong.
Những cao điểm ta chiếm được ở khu đông
phát huy tác dụng. Sơn pháo đặt trên đồi D1 nhắm từng hỏa điểm trên C1 bắn rất
chính xác. Dứt tiếng pháo, Đại đội trưởng Lê Văn Dy lập tức ra lệnh mở những
hàng rào cự mã ngăn cách giữa ta và địch, đưa bộ đội xông lên phía Cột Cờ. Thủ
pháo và lựu đạn của ta trùm lên trận địa địch, tiểu liên nổ ran. Chiến sỹ Thắng
cầm cờ lao lên cách mục tiêu chừng chục mét thì trúng đạn hy sinh. Chiến sỹ Ân
lấy cái chăn phủ lên người bạn, nhặt lá cờ thấm máu đồng đội, lỗ chỗ vết đạn,
tiếp tục tiến lên mỏm đất cao nhất trên đỉnh đồi.
Cả tiểu đội mũi nhọn bám sau anh, chỉ sau
năm phút ta đã chiếm được Cột Cờ. Đại đội dù tiêm kích số 3 mới thay thế choáng
váng trước đòn tiến công chớp nhoáng và quyết liệt. Quân dù bắn xối xả vào khu
vực Cột Cờ. Đại đội 1480 của ta từ phía dưới tiến lên đã kịp thời có mặt, cùng với
811 hình thành hai mũi tiến công chia cắt quân địch để tiêu diệt.
Những trận đánh giáp lá cà diễn ra. Viên
trung úy Lơghc (Leguère) chỉ huy Đại đội 3 cố chống cự, chờ lực lượng tiếp
viện. Brê-xi-nhắc quyết định đưa Đại đội 1 lên tăng viện, nhưng đã quá muộn.
Trung úy Pêriu (Périou) chỉ huy đại đội chết khi mới đặt chân lên đồi. Lát sau,
đến lượt trung úy Lơghc chỉ huy Đại đội 3 bị trọng thương. Quân địch ở C1 mất
dần sức chiến đấu. Có tên phủ bạt lên người nằm giả chết chờ tiếng súng yên sẽ
đầu hàng. Nửa đêm, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ
trận địa của địch, được quân ta trải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại vật
dày đặc, đề phòng quân địch phản kích.
Sau hơn 30 ngày đêm liên tục chiến đấu với
tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, trận đánh tại C1 lúc này đã kết
thúc. Phía Đông sông Nậm Rốm, hai tiểu đoàn 166 và 154 của Trung đoàn 209 tiến
công các cứ điểm 505 và 505A (Dominiquc 3). Một đại đội của tiểu đoàn Lê dương
dù 6 và những đơn vị lính Angiêri, lính Thái tại đây, do viên tiểu đoàn trưởng
Sơ-nen (Chenel) chỉ huy, chống cự rất quyết liệt. Ta và địch giành giật nhau
từng ụ súng, từng chiến hào. Vào lúc 2 giờ sáng ngày 2/5, Trung đoàn 209 tiêu
diệt hoàn toàn hai cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung tâm đề kháng
Đô-mi-ních.
Trên cánh đồng phía Tây, trận đánh tiêu
diệt cứ điểm 811A (Huguette 5) của trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Chiến
thuật đánh lấn tiếp tục được phát huy. Với những đường hào đã đào xuyên qua
hàng rào cứ điểm, bộ đội ta bất ngờ tổ chức xung phong. Toàn bộ đại đội Âu Phi
vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cứ điểm này, bị diệt gọn trong vòng
không đầy 80 phút. Như vậy, ngay trong đêm đầu của đợt tiến công thứ ba, địch
đã mất thêm bốn cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía Đông và 311A ở phía Tây. Tại Hồng
Cúm, trận vây ép đánh lấn khu C của Trung đoàn 57 đã tiêu hao nhiều sinh lực
địch, nên sáng ngày 2/5, địch phải vội vã rút chạy khỏi đây.
Ngày 2/5, Nava vội vã từ Sài Gòn bay ra Hà
Nội, triệu tập cuộc họp khẩn cấp bàn cách cứu vãn tình thế. Dự họp có Nava,
Cônhi, Crevơcơ, Tư lệnh lực lượng Lào và những sỹ quan thuộc lực lượng lục quân
ở chiến trường Bắc Việt Nam.
Ngày 4/5/1954, Cô-nhi điện cho Đờ-cát một
số chỉ thị về cuộc rút chạy theo quyết định của Tổng chỉ huy: “Chỉ huy trưởng
GONO được trao quyền lựa chọn cách thức và thời gian tuỳ theo sáng kiến của
mình sau khi nhận được lệnh”. Cô - nhi chỉ thị cho Đờ-cát phải phá hủy các xe
tăng, đại bác, tài liệu mật, mật mã và dụng cụ vô tuyến điện.
Nhưng vẫn không quên nhấn mạnh: “Cho
tới khi có lệnh mới, chỉ huy trưởng GONO phải duy trì nhiệm vụ chống cự tại
chỗ, không được có tư tưởng rút lui”, phải hết sức giữ bí mật về kế hoạch và
chuẩn bị thực hiện với sự thận trọng tối đa. Tuy nhiên, sau này báo chí được
biết là ngay chính thời điểm ấy, mặc dù điện cho Đờ-cát nhưng Cô-nhi vẫn cho rằng,
việc tháo chạy khỏi Điện Biên Phủ chỉ dẫn tới sự hy sinh vô ích...
17 giờ 30 phút ngày 7/5/1954, ta chiếm sở
chỉ huy trung tâm, tướng Đờ-cát-tơ-ri cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập
đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ kéo cờ trắng ra hàng. Lá cờ “Quyết chiến, quyết
thắng” của quân đội ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Chiến dịch lịch
sử Điện Biên Phủ toàn thắng.
Đây là chiến thắng mang tầm vóc thời đại,
góp phần to lớn vào phong trào đấu tranh vì hoà bình, tiến bộ của nhân loại, là
chiến thắng chung của các nước trên bán đảo Đông Dương, của phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế, của phong trào đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên
toàn thế giới.