CTTĐT - “Khảm hải” (vượt biển) nói riêng cũng như hát “Pựt” nói chung là một trường chuyện thơ dân gian của người Tày được sử dụng như một loại văn tế, có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội tộc người.
Trình duyệt không hỗ trợ xem trực tuyến
I. KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC TÀY Ở TỈNH YÊN BÁI
Người Tày ở Yên Bái có khoảng 120.000 người, chiếm 17% dân số toàn tỉnh. Đồng bào Tày sống tập trung đông ở 7/7 huyện, thị trong tỉnh (trừ 2 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải). Trong đó đông nhất là các huyện: Lục Yên 53,18% dân số; Văn Chấn 16,09%; Yên Bình: 15,56%; Văn Yên: 15% dân số toàn huyện.
Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành bản, thường ở ven các thung lũng và những nơi có điều kiện sản xuất nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Tuy vật, cũng có nơi người Tày sinh sống ở các xã vùng cao, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong việc lưu thông hàng hóa, phương tiện đi lại khó khăn, đời sống còn nghèo. Tên gọi dân tộc Tày là tên gọi chung và phổ biến nhất. Người Tày có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (dòng ngôn ngữ Nam Á).
Kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp, người Tày làm ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu đời cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên nông nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Cùng với việc thâm canh tốt 2 vụ lúa, đưa giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, người Tày phát triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các loại cây công nghiệp như: chè, quế, sắn.
Trong quá trình giao lưu văn hóa, người Tày đã sáng tạo ra những tác phẩm kiệt tác như Khảm hải (Vượt biển), các bài Khắp, Cọi, hát quan làng (hay hát đón dâu) có giá trị nhân văn sâu sắc.
Nhà ở truyền thống của người Tày là nhà sàn, mỗi bản có khoảng 15 đến 20 nóc nhà, người Tày dùng vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương như lá cọ hoặc cỏ giang để lợp nhà. Sàn nhà được dát mai, diễn hoặc ván, cửa làm bằng phên nứa hoặc lịa bằng gỗ. Nhà của người Tày thường có từ ba đến năm gian, hai trái. Trên sàn nhà chính, gian trung tâm thường là gian giữa (nếu số gian nhà là lẻ), nhà có số gian chẵn thường chọn gian trung tâm là gian thứ hai kể từ cầu thang ngoài vào và bếp được đặt ở gian giữa.
Trang phục của người Tày chủ yếu là vải bông nhuộm chàm đen cho cả nam và nữ. Phụ nữ Tày thường mặc áo ngắn với váy hoặc quần, áo ngắn may không cổ kiểu giống áo bà ba. Vào những ngày trọng đại như dịp cưới, ngày lễ và tết thì phụ nữ Tày thường mặc váy và áo năm thân có thắt lưng bằng vải chàm gấp lại buộc phía sau kèm theo khăn vuông gấp chéo được nhuộm màu chàm. Đàn ông mặc áo tứ thân cổ tròn có khuy vải hoặc cúc và quần lá tọa và chỉ đội khăn xếp dịp lễ tết, đặc biệt là lễ đón dâu, hoặc đi ở rể.
Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa dạng và được phát triển rất sớm, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cầm, nghề trồng bông để dệt vải và nghề nuôi tằm lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của người Tày nơi đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm hai mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có nội dung giáo dục tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục đá phát triển khá cao.
Hình thức Hắt tồng (tức kết bạn) rất phổ biến của đồng bào Tày, những người bạn trai, bạn gái hợp nhau về tính nết cùng trang lứa, mang lễ vật một con gà, một chai rượu đến nhà nhau, xin bố mẹ hai bên cho kết tồng (kết bạn). Khi bố mẹ hai bên đồng ý thì họ coi nhau như anh em ruột thịt.
Hôn nhân của người Tày được tiến hành qua nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống được thực hiện trong đám cưới là hát quan làng. Đây là một trong những nghi thức sinh hoạt đặc sắc nhất vẫn còn được lưu giữ cho tới ngày nay. Lễ cưới truyền thống của người Tày được trải qua các bước quan làng (ông mối); xem ngày qua thầy cúng (lễ bốn gà); lễ cưới, lễ lại mặt, tết quan làng, các bước này tiến hành trong một thời gian dài, thậm chí có khi đến mấy năm.
Tang lễ của người Tày có nhiều nghi thức và chịu ảnh hưởng nhiều của Tam giáo. Nhiều giá trị nhân văn được thể hiện thông qua tang ma truyền thống của đồng bào Tày. Hiện nay, tang lễ truyền thống của người Tày ở tỉnh Yên Bái đang tích hợp nhiều giá trị nghệ thuật dân gian đặc sắc như nghệ thuật tranh cắt giấy (qua nhà táng), nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật trang trí…Tuy nhiên, ở những bản xa các trung tâm xã, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thì tang lễ của người Tày lại chịu ảnh hưởng nhiều đến kinh tế và sản xuất của gia đình.
Ngày nay truyền thống văn hoá dân gian luôn được bảo tồn, khai thác và phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh người Tày ở tỉnh Yên Bái đang góp phần to lớn của mình trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái.
II. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN YÊN BÌNH
1. Khái quát chung về huyện Yên Bình
Yên Bình là huyện miền núi nằm ở phía Đông Nam tỉnh Yên Bái. Trung tâm huyện cách thành phố Yên Bái 8Km về phía đông nam, cách thủ đô Hà Nội 170Km về phía tây bắc, phía Đông giáp với huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp với huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang, phía Tây Bắc giáp với thành phố Yên Bái. Huyện Yên Bình có tổng diện tích tự nhiên là 77.319,67 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp có 57.690,43 ha chiếm 74,61% tổng diện tích tự nhiên, toàn huyện có 26 đơn vị hành chính, bao gồm 2 thị trấn và 24 xã.
Hiện nay, huyện Yên Bình có dân số là 107.398 người, với 5 dân tộc chính là Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan (Sán chay); lực lượng lao động xã hội trong toàn huyện là 45.037 người, trong đó lực lượng lao động nông thôn chiếm 76,5%. Huyện Yên Bình có 26 đơn vị hành bao gồm 24 xã và 2 thị trấn (1 thị trấn trung tâm huyện lỵ), trong đó có 1 xã vùng cao và 6 xã đặc biệt khó khăn.
Yên Bình cũng là huyện có nhiều tiềm năng về rừng và khoáng sản. Trên dãy Con Voi, núi Ngàng, núi Yến có nhiều gỗ quý như gỗ lát, nghiến, đinh, lim, sến, táu, lim xanh và các loại động vật như hươu nai, khỉ, lợn rừng, hổ, gấu, gà lôi, khiếu, vẹt, gấu. Do có diện tích mặt nước nhiều (hồ Thác Bà trên 15.000 ha) nên khí hậu ở đây mang tính chất vùng hồ: mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ, thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp, trồng rừng phòng hộ và rừng nguyên liệu; trồng cây công nghiệp chè, cao su, cây ăn quả và là tiềm năng để phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch dịch vụ.
Các tài nguyên thiên nhiên của huyện khá phong phú, ngoài tài nguyên nước và tài nguyên rừng còn có một số khoáng sản khác như: đá vôi hoa hoá có độ trắng cao, đá vôi vật liệu xây dựng, chì, kẽm, pyrit, cao lanh, fenpat; ngoài ra còn có đá quý và các loại cát, quặng vàng, than nâu... Đây là những tài nguyên có trữ lượng lớn và đang hứa hẹn một tiềm năng lớn cho huyện Yên Bình.
2. Khái quát về xã Xuân Lai
Xuân Lai là xã vùng sâu của huyện Yên Bình, nằm ở phía đông hồ Thác Bà. Phía Đông giáp xã Yên Thành huyện Yên Bình, phía Đông bắc giáp xã Hùng Đức và xã Bằng Cốc của huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên Quang, phía Tây bắc giáp xã Mỹ Gia, xã Cẩm Nhân, phía Tây vẫn tiếp giáp hồ Thác Bà và kéo dài đến xã Mông Sơn của huyện Yên Bình. Diện tích tự nhiên của xã gồm 2.867 ha trong đó đất nông nghiệp là 203,7 ha, đất lâm nghiệp là 1.109 ha, Xuân Lai là xã có địa hình khá phức tạp, chủ yếu là đồi núi bao bọc với dãy núi Ngàng trải dài. Toàn xã hiện có 634 hộ với 3.011 khẩu, với 5 dân tộc sinh sống trong 13 thôn là: Kinh, Tày, Dao, Cao Lan và Nùng.
Trong khu dân cư đã hình thành các bản Tày, Nùng như: Ca Mác, Ngòi Mọn, Cây Đa, Cây Tre, Xuân Lai. Trước đây, cư dân đến đây khai phá, đắp đập đưa nước về thành ruộng lúa nước từ nhiều đời nay, tại đây đã hình thành các thôn xóm như Vạn Trảng ngay sát bờ sông Chảy là nơi cư trú của người Kinh từ Nam Định, Thái Bình lên làm ăn sinh cơ lập nghiệp, người Tày ở Lạng Sơn về đây ở xóm Cốc Hóp và một phần ở xóm Ca Mác. Cư dân ở khắp mọi miền đến đây sinh sống, họ còn mang theo cả nét văn hoá, tín ngưỡng của dân tộc, địa phương mình đến góp cùng với nền văn hoá truyền thống ở đây là hát Then cùng cây đàn Tính nổi tiếng và đặc trưng của dân tộc Tày trong các dịp lễ, tết để cầu may, cầu phúc mỗi độ xuân về đã tạo nên những nét văn hoá các dân tộc vừa độc đáo lại đa dạng, phong phú.
3. Khái quát về người Tày ở xã Xuân Lai
* Lịch sử di cư của người Tày xã Xuân Lai, huyện Yên Bình
Theo kết quả khảo sát tại các địa phương thì người Tày là cư dân bản địa ở Việt Nam, có nguồn gốc từ lâu đời. Hiện nay người Tày đang cư trú trên địa bàn rộng lớn và chiếm số đông tại các huyện Lục Yên, Văn Yên, Yên Bình. Trước năm 1945 một số người Tày ở huyện Văn Yên có nguồn gốc từ tỉnh Lạng Sơn di cư sang. Người Tày ở huyện Văn Chấn và Trấn Yên có nguồn gốc di cư từ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên Yên Bái. Đối với người Tày ở vùng Lục Yên mang nhiều giá trị văn hoá độc đáo riêng biệt so với người Tày ở vùng Văn Chấn, Trấn Yên và khác biệt so với người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
* Người Tày ở xã Xuân Lai
Người Tày ở Xuân Lai chủ yếu sống bằng nghề nông, trong đó làm nương và trồng lúa nước là chủ yếu. Chăn nuôi là công việc chính trong các gia đình với những con vật quen thuộc vừa để làm sức kéo như trâu, bò, vừa làm thức ăn và bán trao đổi hàng hoá như dê, lợn, gà, vịt. Là xã có thuận lợi lưu thông của các dòng suối với các phai, đập nên ở đây có nhiều loại cá tự nhiên và từ đó nghề nuôi cá đã có sự phát triển. Cũng như các địa bàn và dân tộc khác xuất phát từ nghề làm nông và chăn gia cầm gia súc đã có tác động và ảnh hưởng chi phối khá sâu sắc đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc ở đây.
* Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Tày ở xã Xuân Lai
Với kho tàng văn hóa dân gian phong phú và tập tục có nhiều nét đặc trưng còn lưu giữ được như trường ca Khảm hải, lễ hội Lồng tồng, những điệu xòe cổ… người Tày đã chứng tỏ họ là những cư dân bản địa ở vùng sông Chảy và nhà sàn của người Tày vùng Đông hồ là một không gian văn hóa rất đặc biệt. Cầu thang giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu. Trong đời sống tâm linh của người Tày, 7 hay 9 bậc cầu thang là sự thể hiện số lượng con vía. Vía chính là sợi dây nối sự sống và cái chết của con người. Bởi vậy, bậc cầu thang chính là cầu nối giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài của ngôi nhà. Số lượng bậc thang và vị trí cầu thang có thể ở bên phải hoặc bên trái ngôi nhà tùy theo thế đất và vị trí dựng nhà, nhưng số bậc cầu thang nhất định phải là số lẻ.
Khi bước vào sàn ngôi nhà của người Tày, phía trước ngôi nhà là một bàn thờ nhỏ, đó là ban thờ ông tổ bảy đời của người Tày và trong quan niệm tâm linh của họ thì những người đời trước khi mất đi sẽ trở thành người canh cửa, bảo vệ cho con cháu khỏi những điều xấu từ bên ngoài vào. Gian ngoài gần cửa vào là nơi tiếp khách. Với người Tày bao giờ chủ nhà cũng ngồi ở phía trên cùng, bên trong, để tiện rót nước và tiện bao quát cả không gian ngôi nhà. Nhà sàn của người Tày có rất nhiều cửa sổ, thường là dãy cửa sổ nối tiếp nhau chạy bao quanh ngôi nhà. Những cửa sổ này vừa để đón gió, vừa mang ánh sáng vào ngôi nhà sàn của người Tày tạo nên sự thoáng mát và chan hòa với thiên nhiên.
Gian chính là nơi quan trọng nhất trong ngôi nhà sàn người Tày, vì đây là nơi cả gia đình quây quần tụ họp đông đủ, cùng ngồi trò chuyện hoặc sum vầy bên mâm cơm ấm cúng. Ban thờ tổ tiên của người Tày luôn có vị trí trang trọng nhất ở gian chính và lúc nào cũng phải đặt cùng phía với cầu thang lên nhà. Đây là một nét độc đáo riêng biệt so với kiến trúc nhà sàn của các dân tộc khác.
* Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Tày ở xã Xuân Lai
- Thờ cúng tổ tiên: Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là nghi lễ tín ngưỡng cơ bản của người Tày, đây là việc thờ chính trong nhà, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt ở gian chính giữa nhà là nơi trang trọng nhất và được trang trí đẹp. Trên bàn thờ tổ tiên người Tày thường đặt ba bát hương. Một bát thờ nguồn gốc tổ tiên; một bát thờ lộc mệnh (gia phả dòng họ); một bát thờ hàm (các chức sắc của tổ tiên). Dòng họ nào, gia đình nào có người làm thầy Tào, làm Bụt thì cũng có thêm một bát để thờ. Hàng tháng đến này mùng một, ngày rằm (âm lịch), gia đình thắp hương kèm theo hoa, quả, rượu. Trong các ngày tết, ngày giỗ hay có việc đại sự quan trọng như: đám cưới, làm nhà mới hay sinh con…các gia đình đều thắp hương mời tổ tiên về chứng giám. Đặc biệt vào ngày 30 tết, chủ nhà làm nhiệm vụ sửa sang bàn thờ, quét sạch bụi bẩn, rửa sạch ấm chén rót nước đặt bên dưới mỗi bát hương một chén. Trước các bát hương, bày khay ngũ quả vào chính giữa, gồm một nải chuối và các loại quả có hình thù đẹp (kiêng vị đắng, chua, cay); hai bên đặt bánh chưng, bánh khảo, mứt, kẹo...
Do tính chất thiêng liêng và trang trọng như vậy, nên người Tày thường nghiêm cấm phụ nữ nhất là con dâu, cháu dâu, những người lạ không được tới gần bàn thờ. Ở gia đình người Tày, mỗi người con dâu đều có một buồng riêng, đều có một bà mụ riêng cho con của mình. Có bao nhiêu con dâu có trẻ con thì có bấy nhiêu bàn thờ mụ.
Người Tày có quan niệm về ông Công, ông Táo rất gần với người Kinh, họ coi ông Táo không chỉ là thần Bếp mà còn là vị thần bảo vệ người và gia súc trong gia đình. Nơi thờ Táo quân rất đơn giản, chỉ là một ống tre được dán giấy đỏ làm ống hương. Nếu gia đình có việc đại sự, hoặc xảy ra những vụ việc như có người đau, ốm, gia súc bị bệnh dịch, mất trộm thì cúng thần bếp để xin phù hộ. Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng chạp (âm lịch) người Tày ở đây đều làm lễ tiễn đưa Táo quân về trời. Do đặc điểm cư trú ở vùng rừng núi, khí hậu lạnh, sẵn củi rừng nên bếp của người Tày quanh năm không bao giờ tắt lửa. Người Tày quan niệm bếp không có lửa thì không gặp được điều lành.
III. KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI TÀY XÃ XUÂN LAI
1. Lễ hội truyền thống.
* Lễ hội “Lồng Tồng” hay “Xuống đồng”.
Đây là lễ hội dân gian truyền thống của người Tày, được tổ chức với mong ước một năm mới mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu, mọi nhà ấm no hạnh phúc. Trong tiết trời se lạnh đầu năm, người Tày nô nức chuẩn bị cho lễ hội “Xuống đồng” cầu cho một năm mới mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, bội thu, thóc đầy bồ, lợn, gà đầy chuồng, mọi nhà được bình an, mạnh khoẻ.
Lễ hội “Xuống đồng” được tổ chức vào những ngày đầu xuân năm mới khoảng thời gian từ mùng 4 đến mùng 10 tháng riêng. Lễ hội “Xuống đồng” được tổ chức 2 phần phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm các nghi thức cúng thần nông, thành Hoàng làng cầu mong cho cả năm mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, gia súc đầy đàn; các gia đình mạnh khỏe. Phần lễ được bắt đầu từ tục rước đất, rước nước. Kiệu rước được trang trí sặc sỡ nhiều mầu theo biểu tượng âm dương ngũ hành và được hai đôi nam, nữ (chưa vợ, chưa chồng) khiêng kiệu rước. Đi đầu đoàn rước là thầy cúng, người được dân bản giao trách nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh, trên tay thầy cầm cây nêu biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở. Đi sau là kiệu rước nước, nước được đựng trong hai ống bương to một ống bố và một ống mẹ.
Sau kiệu rước nước là kiệu rước đất, đất thiêng được lấy từ trên núi cao gọi là đất mẹ. Sau đó là các mâm lễ để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn (bên trong các quả còn có đựng các hạt giống); mâm xôi 7 màu, bánh dày ngũ sắc và thủ lợn, gà luộc, hoa quả... Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để thầy cúng giao linh với thần linh. Khi đoàn rước về đến địa điểm làm lễ, thầy cúng ra hiệu cho đội nhạc lễ tấu lên ba hồi kèn trống vang vọng cả núi rừng, trời đất, tiếp đó thầy cúng thực hiện nghi lề cúng. Thầy khấn và phun nước làm phép để xua đuổi ma quỉ, xua đuổi điều không may, rồi thầy tung lộc (là các hạt giống) của thần linh cho dân bản.
Sau phần lễ là phần hội, phần hội được bắt đầu bằng các điệu múa và các tiết mục văn nghệ dân gian đặc sắc của người Tày như : múa quạt, múa khăn, múa gậy, hát đối, hát giao duyên....Nhưng nổi bật nhất, vui nhất, nhiều người tham gia nhất là những màn xoè, khi tiếng kèn trống vang lên các cô gái tày mở đầu màn xoè với những động tác xoè duyên dáng, điệu nghệ mời mọi người tham gia, vòng xoè cứ rộng mãi đi đều trong tiếng kèn, tiếng trống dập dìu. Khi các màn xoè kết thúc cũng là lúc mọi người tham gia các trò chơi. Các trò chơi ở đây đa số là trò chơi dân gian như: ném còn, đẩy gậy, kéo co, đánh quay…
2. Tết của người Tày
- Tết Nguyên đán: Khác với người dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa của dân tộc mình. Với người Tày cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Với người Tày, tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăn tết từ ngày 28/12 (âm lịch). Trước và trong ngày Tết, trên bàn thờ các gia đình được trang hoàng dán giấy đỏ, trai gái trong bản nô nức trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho căn nhà thêm mới mẻ và ấm cúng hơn. Bước sang ngày 29 tết đàn ông người Tày bắt đầu mổ lợn và chế biến ra những món ăn như: giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn... Phụ nữ tổ chức gói bánh và làm chè lam, bánh khảo. Sang đến ngày 30 tết tất cả các gia đình đã chuẩn bị xong mọi việc để đón năm mới và không quên cất các đồ đặc như dao, cày, bừa…vì theo quan niệm người Tày thì đó là các vật dụng đã gắn bó với con người suốt một năm lao động vất vả nên chúng cũng cần nghỉ ngơi.
Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thường và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vượng. Tết là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi xuân với những bộ quần áo mới nhất, còn người già và trẻ em thì đi xem các lễ hội đầu xuân như: Tung còn, múa và trao cho nhau những điệu hát Sli, hát lượn thật hay, thật tình tứ.
- Tết Thanh minh: Được bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng đến nay ở Việt Nam, ngày tết Thanh Minh đã trở thành một ngày lễ đặc trưng trong văn hóa Việt. Mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có một phong tục đón tết riêng. Với đồng bào Tày, ngày tết Thanh Minh được coi là dịp lễ thiêng liêng, thể hiện lòng thành kính của con cháu với tổ tiên. Vào ngày này, từ sáng sớm các gia đình người Tày đã chuẩn bị các lễ vật đi tảo mộ. Mâm lễ cúng tảo mộ được chuẩn bị chu đáo, gồm có: Gà luộc, xôi ngũ sắc, rượu, hoa, quả và các loại bánh như: bánh trứng kiến, bánh lá ngải, bánh mật, bánh gai…. Ngày tết Thanh minh là dịp duy nhất trong năm đồng bào dân tộc nơi đây sửa sang, quét dọn mộ phần của gia đình, dòng họ mình. Bên cạnh lễ tảo mộ, gia đình người Tày còn làm một mâm cơm gồm: Thịt lợn, xôi, hoa, quả và bánh trái, xôi, thịt, hoa quả để cúng gia tiên cầu mong bình an trong cuộc sống.
- Tết Đoan ngọ: Tết Đoan ngọ ở Việt Nam còn gọi là "ngày giết sâu bọ", theo quan niệm cổ truyền, có thể giết sâu bọ bằng cách ăn thức ăn, hoa quả, rượu nếp vào ngày 5.5 (âm lịch). Các loại thực phẩm được sử dụng nhiều để "diệt sâu bọ" thường là đào, mận, dưa hấu, dứa và một món ăn không thể thiếu đó là món rượu nếp cẩm. Với người Tày cũng vậy, tục ăn rượu nếp và hoa quả vào sáng sớm trong ngày mùng 5.5 (âm lịch) đã trở thành lệ, ngoài ra vào ngày này người Tày còn đi hái các loại lá cây vào buổi trưa (giờ Ngọ) đem phơi khô để làm lá uống cho cả năm. Vì theo quan niệm, ngày Tết Đoan ngọ thì trời đất phong quang, lòng người sáng sủa, trăm loại cây lá đều tốt lành, có thể đun nước uống, vừa mát ruột, vừa trừ độc giúp cho lòng người thanh thản.
Ngày nay người Tày có tục lệ khảo cây, tức là mang dao đến chặt vài nhát vào các loại cây ăn quả (đối với các cây ít hoặc lâu năm mới ra quả, quả không tốt hay thối hỏng…). Vừa chặt họ vừa hỏi với vẻ doạ nạt rằng tại sao lười ra quả hoặc ra quả không tốt. Chặt xong, họ khuyên bảo, vỗ về cây hãy chịu khó ra quả tốt, quả đẹp thì mùa sau sẽ không bị đánh đau nữa. Đặc biệt trong ngày này người Tày còn ăn các loại bánh và không thể thiếu được bánh tro, đây là loại bánh truyền thống của họ.
- Tết Xíp Xí: Cùng với ngày Xá tội vong nhân (Tết Vu Lan) của người Kinh, Tết rằm tháng bảy của người dân tộc Tày ngoài ý nghĩa thờ cúng tổ tiên, cúng các vong hồn đây còn là dịp để gia đình, dòng họ xum họp, con cái thể hiện lòng biết ơn, tình cảm và lòng hiếu thuận đối với cha mẹ. Cứ đến tháng bảy âm lịch hàng năm, đồng bào Tày ở nơi lại nô nức chuẩn bị cho cái tết lớn thứ hai sau tết Nguyên đán Tết rằm tháng bảy (người Tày gọi là Tết Slip slí). Vào những ngày này, người Tày thường gác lại các công việc khác, tất cả dồn vào chuẩn bị cho ngày tết. Phiên chợ ngày trước tết Xíp Xí bao giờ cũng náo nhiệt hơn với các mặt hàng đặc trưng như: Lá bánh, đỗ xanh, củ chuối rừng…và một món ăn không thể thiếu đối với người Tày trong rằm tháng bảy đó là thịt vịt.
Theo tục lệ, cứ đến rằm tháng bảy hàng năm, người Tày sẽ làm bánh trưng nhân cá lá gừng (bánh “Pẻng Tải”), làm bún tươi để ăn thịt vịt…để thờ cúng tổ tiên, cúng các vong hồn, cầu chúc sức khỏe, an lành đến với tất cả các thành viên trong gia đình, dòng họ. Ngoài bánh “Pẻng Tải” người Tày còn làm bánh “Pẻng Hó” – bánh trưng được gói bằng lá dong rừng với nhân cá chép. Những loại bánh này được cúng tổ tiên, thổ địa để cầu chúc những điều may mắn, tốt đẹp cho gia đình.
Trong những ngày này, người dân tộc Tày còn có phong tục con rể của gia đình sẽ đem biếu bố mẹ vợ một đôi vịt để tỏ lòng biết ơn, kính trọng và hiếu thuận, cảm ơn công dưỡng dục vợ mình. Ngày 14, 15 tháng bảy (âm lịch), đại gia đình sẽ quây quần cùng nhau ăn bữa cơm sum họp. Đây là một nét văn hóa đặc sắc của người Tày, thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó và lòng hiếu thuận của con cái đối với cha mẹ.
- Tết Cơm mới:Đã thành thông lệ, đến cuối tháng 9 đầu tháng 10(dương lịch) hàng năm, khi những cánh đồng tràn ngập một màu vàng óng của lúa chín. Khắp các bản làng của người Tày lại rộn rã tiếng giã gạo làm cốm, làm khẩu rang chuẩn bị cho lễ "ăn cơm mới" - một nghi lễ nông nghiệp truyền thống, một nét văn hóa độc đáo của người Tày. Ngay sau khi thu hoạch vụ lúa mùa, lúc ngô, lúa đã chất đầy bồ thì đó cũng là thời điểm để bà con người dân tộc bước vào mùa Tết "cơm mới" với ý nghĩa tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, con cháu mạnh khỏe và bày tỏ sự tôn kính lên ông bà tổ tiên đã khuất.
Theo phong tục truyền thống của người Tày, gia đình nào có "ma nhà", có cối hương thờ cúng cha mẹ, ông bà thì hàng năm đều phải tổ chức lễ cúng "cơm mới". Mặt khác, Tết "cơm mới" còn là một trong những nghi lễ quan trọng nhất của mỗi gia đình người Tày, nên được bà con chuẩn bị rất chu đáo, kỹ lưỡng. Ngay từ sáng sớm mỗi người trong gia đình dậy sớm để chuẩn bị các đồ lễ cúng. Đồ lễ cúng trong mâm là những sản vật do người dân tự chăn nuôi, trồng cấy, được như: gà, vịt, ngô, gạo... được làm chín, bày trên cỗ lá. Ngoài ra, mâm cỗ cúng cần có đầy đủ khoai lang, khoai sọ, mía và quả cọ. Đặc biệt, trong mâm lễ cúng không thể thiếu được hai món ăn truyền thống của người Tày trong lễ "ăn cơm mới" là cốm và khẩu rang. Cốm được làm từ thóc nếp non sau khi thu hoạch về có thể luộc hoặc rang vừa chín tới, sau đó để nguội rồi đem giã, sàng sẩy để loại bớt vỏ trấu rồi đem bỏ vào cối giã, tiếp sau đó đem đồ lên ăn có vị dẻo và thơm.
Lễ cúng "cơm mới" của người dân tộc Tày thường được tổ chức vào cuối buổi chiều và vai trò của thầy mo là rất quan trọng. Thầy mo phải là người chủ của gia đình, hoặc là những người cao tuổi, có kinh nghiệm, được chủ nhà và bà con trong bản tín nhiệm. Bài cúng "cơm mới" có nội dung cầu chúc một năm mới gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Các bài cúng thường kéo dài trước sự chứng kiến của cả gia đình và hàng xóm láng giềng. Thầy mo mặc quần áo truyền thống của người dân tộc Tày và sử dụng một chiếc quạt khi mo.
Tết "cơm mới" không chỉ là lễ tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, mà còn là dịp để anh em, họ hàng bạn bè gặp nhau cùng trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất.
V. “KHẢM HẢI” TRONG HÁT “PỰT” CỦA NGƯỜI TÀY, XÃ XUÂN LAI, HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI
1. Vị trí của “Khảm hải” trong hát “Pựt” của người Tày.
“Khảm hải” được đánh giá là đoạn hấp dẫn nhất trong hát “Pựt” của người Tày. “Pựt” là một trường thơ dân gian của cộng đồng được chuyển thành lời ca, dưới sự thể hiện của thầy cùng có tên là Bụt. Ông Bụt hay bà Bụt khi làm chủ lễ trong lễ cúng vía của một gia đình sẽ phải hát “Pựt” để cầu phúc, cầu may cho gia chủ.
“Pựt” được thể hiện từ khi bắt đầu đến lúc kết thúc lễ cúng vía nhưng “Khảm hải” chỉ là một đoạn trong trường ca đó. Đoạn này bao giờ cũng được diễn vào lúc đêm khuya nhất (thường là canh tư sang canh năm) nhưng luôn thu hút người nghe bởi sự hấp dẫn của nó. Nó hấp dẫn bởi nó miêu tả chân thực thân phận của những người tôi tớ cùng cực (sa dạ sa dồng) phục vụ các quan đưa lễ vật qua biển. Nó hấp dẫn bởi nó phản ánh chân thực một xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử tộc người.
2. Thời gian và địa điểm tổ chức nghi lễ.
Thời gian tổ chức: đêm mùng 10/7 rạng ngày 11/7 (âm lịch), tức đêm ngày 26 rạng ngày 27/8/2012. Lễ cúng này được tổ chức tại gia đình ông Hoàng Tương Lai, thôn Trung Tâm, xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
3. Công tác chuẩn bị cho nghi lễ.
Để chuẩn bị cho lễ cúng gia chủ phải tổ chức mời thầy Bụt và các 2 thầy phụ giúp. Đồng thời gia chủ phải chuẩn bị lễ vật, mời anh em họ hàng tới dự, nhờ người giúp việc bếp núc, nội trợ, trang trí, quét dọn, chọn người giúp việc cho các thầy trong quá trình làm lễ.
* Chọn ngày, giờ và chọn thầy, đón thầy.
Thời gian được chọn là đêm ngày 10 rạng ngày 11/7 (âm lịch). Các thầy gồm có: Thầy Bụt (chủ lễ): ông Lèo Văn Phùng (xã Cẩm Nhân, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái); Thầy phụ 1: ông Hoàng Tương Lai (xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái); Thầy phụ 2: ông Phùng Văn Rường (xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái).
Đến 16 giờ chiều ngày 10/7 (âm lịch) gia chủ tới nhà mời các thầy đến làm lễ. Khi đó, các thầy thắp hương khấn xin may mắn trong quá trình đi làm lễ tại gia đình ông Hoàng Tương Lai (xã Xuân Lai) trên ban thờ tổ tiên gia đình mình. Đồ dùng trong nghi lễ, các thầy đã sắm sửa đầy đủ và cùng gia chủ tới nơi làm lễ. Thầy Bụt bao giờ cũng phải đón trước, kế đó mới tới các thầy phụ.
* Lễ vật gia chủ chuẩn bị cho nghi lễ.
Gạo tẻ: 50 kg; Gạo nếp: 50 kg làm xôi trắng, bánh chưng, bánh dày, nặn con giống (trâu, bò); 2 con lợn từ 50 – 60 kg/ con; 5 con gà trống; 2 con vịt; Trứng gà; 50 lít rượu; Muối; Vàng, hương, 10 lít dầu và 10 đèn dầu; 3 lầu tết bằng cẫng và lá chuối tươi; 1 bồ vía có dán giấy trang trí bên ngoài; 9 lá vía (nếu là nữ), 7 lá vía (nếu là nam); 9 roi hoa; 3 sọt đựng bông lúa và giấy bản; Gốc tre làm cầu; Giấy để cắt hoa trang trí; Gương, lược, vòng tay của những người được cúng vía; Áo và túi vía của những người được cúng vía; Hình nhân giải hạn;1 cum thóc; 1 lưỡi cày nung đỏ.
* Gia chủ chuẩn bị cho thầy đến làm lễ: một ban thờ thấp có trải vải đỏ và ghế ngồi cho thầy khi làm lễ; một bát nước sạch và nhành thanh táo để thầy vầy khi quét dọn nhà cửa.
4. Các thầy chuẩn bị: Trang phục thầy cúng, mũ vải đỏ; Tranh thờ (thầy Bụt); Quạt Chùm nhạc làm nhạc đệm khi hát; Bộ xin âm dương; Bộ gieo quẻ. Anh em họ hàng tới dự mang theo gạo để chúc mừng gia chủ.
5. Gia chủ chọn người giúp các thầy trong quá trình làm lễ: Người phán khi có thần nhập: ông Hoàng Minh Châu. Người con trai thắp hương trên ban thờ tổ tiên: anh Hoàng Văn Giang. Nàng hương thắp hương phục vụ các thầy: chị Hoàng Thị Mai.
6. Tiến trình nghi lễ
* Công việc chuẩn bị cho nghi lễ chính thức:
Để chuẩn bị cho quá trình hành lễ, ông Bụt chuẩn bị bồ vía cho đầy đủ, chắc chắn. Ông đặt bồ vía vào thúng, ở giữa bồ vía có đặt một dóng tre thẳng, xanh. Ông Bụt giữ dóng tre để lần lượt anh em họ hàng được mời tới dự mang gạo của mình tới đổ vào bồ vía, chúc mừng cho gia chủ, gạo đổ đầy bồ vía sẽ tràn ra ngoài thúng. Sau khi mọi người đã đổ hết gạo vào thúng, thầy bắt đầu cài các lễ vật khác lên trên bồ vía, gồm có: 1 lầu được tết từ cẫng và lá chuối tươi, cầu tre, gương, lược, vòng tay, giỏ đựng bông lúa và giấy bản, cắm roi hoa, lá vía.
Khi xong, thầy đặt bồ vía ngay ngắn trước ban thờ. Phía trái ban có mâm hương để ba bát gạo, bánh chay, bát nước sạch và nhành thanh táo. Phía bên phải đặt áo và túi vía của các thành viên được cúng vía trong gia đình gia chủ.
Lúc này, người con trai đã được chọn bắt đầu thắp hương trên ban thờ tổ tiên và không lúc nào được để hương tắt cho đến khi lễ được hoàn tất.
Nàng hương cũng bắt đầu thắp hương ở ban dưới phục vụ các thầy, cũng không được để hương tắt. Xong việc, ông Bụt bắt đầu vầy nước thanh táo rửa sạch sẽ trong nhà và khu vực làm lễ.
* Nghi lễ chính thức:
Các thầy trong trang phục tế lễ, đầu đội khăn đỏ, tay cầm quạt và chùm nhạc, bắt đầu thỉnh chuông làm lễ. Tất cả các thầy cùng hát, thầy Bụt phải hát đúng, hát chuẩn và hát liên tục (trong suốt thời gian hành lễ thầy Bụt chỉ nghỉ 3 đến 4 lần), hai thầy phụ có thể ngưng nghỉ đôi lúc hoặc cũng có đoạn quên hoặc chưa thuộc thì thầy Bụt sẽ hát đỡ cho. Trước hương đèn rực rỡ, các thầy cùng ngồi và hát thỉnh:
…Hai cô ơi bốn nàng
Ăn miếng trầu tráng miệng
Ăn miếng cau tráng họng
Trầu ngọt miệng xin thưa
Trà ngọt họng sẽ kể
Kể về ông gốc nhà
Kể về bà chủ hộ
Rơi xuống chỗ này là
Y ên Bái chính là tỉnh
Y ên Bình là nơi huyện
Xuân Lai nay là xã
Trung Tâm hiện là thôn
Năm trước sống tốt
Năm ngoái ở yên
Chớp mắt sang năm nay
Cái đau sợ xuống quấy
Cái ốm lo đến gần
Hôm nay hoa mận nở trước nhà
Hoa đào tươi trước ngõ
Kể đến ông gốc nhà
Thứ đến bà chủ hộ
Hơn sáu mươi sợ tai nạn
Ngoài bảy mươi lo hạn
Mười người mười bao gạo
Chín người chín bao thóc
Bịch thiên địa đựng vía
Cả bịch gạo về cho
Cả bồ muối về nộp
Bịch tóc đắp ao trên
Bồ muối chắn khe dưới
Cả cầu sắt giải vận
Cả cầu đồng giải hạn
Cầu mục ta vứt đi
Cầu chắc, cầu tốt ta đem bắc
Cả gốc tre đem trồng
Cả chuối con trồng bên
Tre về trồng đất tốt
Chuối đem trồng đất mát đất lành
Đêm mọc một hai lá
Sáng đâm chồi ba ngọn
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt chồi…
Thứ nữa là con trai
Bên là chàng trai trẻ
Cả hai áo song thân
Cả hai cùng bố mẹ
Ba mươi lo tai
Hơn bốn mươi lo hạn
Trần thế dựng cây tre
Dựng cây danh giải hạn
Có cả lầu một cột
Cả biệt thự hai tầng
Tầng dưới đầy thịt cá
Tầng trên hoa quả đầy
Cả bánh dầy chiếc xinh
Cả bánh giò chiếc đẹp
Thứ nữa đến con trai
Bên là người vợ trẻ
Sinh con có nhiều bề
Sinh được con nhiều lứa
Cả hai áo hai thân
Hai ba người anh em
Lo được hai chén cơm ngũ sắc
Bốn chén nếp nhiều màu
Áo đẹp lên dâng mẹ
Có cả lầu bốn cột
Cả biệt thự nhiều tầng
Tầng dưới nhiều thịt cá
Cả bánh dầy tròn xinh
Cả bánh giò mịn đẹp
Có cả ba gánh rượu
Có cả chín gánh trà
Năm gánh hoa gánh quả
Rượu này ủ giờ ngọ men thơm
Ủ giờ trưa trước bản
Ủ rượu không mắng chó
Ủ trà không chửi trẻ
Ba trưa rỏ nước ngọt
Ba ngày ngọt nước đường
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường Phật
Rượu lên lễ Mường Sjay
Giọt rượu rơi xuống bàn thơm ngát
Giọt rượu rơi xuống bàn mát dịu
Đau yếu có bù nhìn đi thế
Cả hình nộm thế thân
Cả hình nhân thế mạng
Con tổ tổ hãy đỡ
Cháu tổ tổ hãy che
Nòi ta sinh nó khoẻ
Giòng giống ta ta quý
Ở dưới lên không chắp tay không
Không ngửa tay lên rỗng
Tiền đem lên nhiều trăm
Bạc đem lên đếm ngàn đếm vạn…
Hương thơm con lên tìm
Hương hoa con lên thỉnh
Con thỉnh mười thánh gốc
Con thỉnh chín gốc Sjay
Thỉnh đến Sjay xuống nước không trôi
Thỉnh đến quan vào lửa không cháy
Thỉnh đến thánh đầu ghế
Trình Sjay ngồi bàn thờ
Thỉnh Sjay không một lời nào giấu
Trình quan không có câu gì giữ
Mời Sjay xuống trần thế giải vận
Mời Sjay xuống gia đình giải hạn…
Con trẻ mới tập nói
Trai trẻ mới tập lời
Phép không biết cha đỡ
Chữ chưa hay cha bảo…
Thỉnh Sjay đưa đến Mường Tổ được thông
Thỉnh Sjay đưa đến chỗ Mường trên cho lọt…
Sau khi đã cúng thỉnh, bắt đầu lên đường và điểm lễ. Lúc này, các ông thầy trang phục tế lễ, tay phải cầm quạt, tay trái cầm chùm nhạc chuông đứng lên làm động tác mạnh mẽ tựa như tiếng ngựa ra roi hý vang cùng đoàn binh mã rầm rập lên đường:
… Chiếu thấy ta dọi thấy
Phóng tầm mắt ta nhìn
Ba vạn đội mũ sắt lên đường
Bẩy vạn đội mũ gang cùng tiến
Nhà Pựt nhà Sjay
Ba vạn ngồi bẹ chuối không rung
Bảy vạn ngồi đồng tiền không kín
Ngồi hạt đỗ không đầy
Phi ngựa qua lỗ chôn kim đi lại
Xin mời mười quan chủ
Nào mời chín quan Sjay…
Thỉnh Sjay xuống trần thế điểm quân
Thỉnh quan xuống hạ giới điểm lễ
Điểm quân mạnh quân hùng
Điểm lấy lễ chủ nhà cho đủ
Con Pựt chiếu thấy đã nhìn thấy
Phóng tầm mắt ta nhìn
Dây cương chở hai gánh ba khiêng
Nhạc ngựa lên ba khiêng bốn gánh
Một gánh lên dâng trà
Một ngả lên dâng rượu
Mang lên ba gánh rượu
Dâng lên bốn hũ trà
Năm gánh hoa gánh quả
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường tiên
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường Phật
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà dâng lên Mường Sjay
Một gánh lên bồ vía
Một lối lên đáp mệnh
Một lối lên giải vận
Một đường lên giải hạn
Một gánh lên cúng mụ
Một lối dâng mẹ sinh
… Mời tổ đến gian giữa đợi hoa
Mời tổ qua gian ngoài đợi trà
Chập tối sẽ có rượu đến nhà
Gà gáy sẽ có trà đến điện
Chuyển sang bàn nhà Phật
Quay sang bàn thờ Ham
Xin Ham quét gian trong đợi hoa
Quét gian giữa đợi rượu đợi lễ
Chuyển xuống gốc mẹ hoa
Xuống đến mười hai ngả mẹ sinh
Mẹ không lần dây tã xuống đòi
Mẹ đừng lần dây địu xuống khảo
Chập tối sẽ có lễ đến nhà
Gà gáy sẽ có hoa đến điện
Sẽ có áo nhiều màu
Có áo hoa nhiều sắc…
Áo hình vẽ lá hoa
Cơm nếp thơm trắng lốp
Chuyển xuống ghế thừng mực
Xuống đến tận chiếu hoa
Xuống tấm thát bên bếp
Xuống đuôi hổ đệm ngồi
Chuyển xuống nàng Táo Quân
Xuống đến ông Vua bếp…
Chuyển ra tổ bảy đời đại môn
Ra đến quan ngũ đại canh cửa
Tổ bảy đời đứng cửa kê ngoài
Gĩư chắc mình bên trong
Cửa giữ mình cho dầy
Che chở mình cho vững
Cái tốt đẹp về mình
Mọi buồn phiền rời xa
Chuyển ra thích cây tròn
Chuyển đến nơi giàn bắng
Chuyển ra thích gỗ bay
Chuyển xuống thang bảy bậc
Cầu thang ba ngày đóng
Cầu thang bảy ngày lắp
Mới thành lối lên xuống
Mới thành đường minh quân đi lại
Chuyển xuống chốn đất ruộng
Xuống đến chốn đất dày
Xuống đến chỗ thần linh thổ địa
Chuyển xuống chốn gà vịt râm ran
Chuyển qua chỗ trâu bò ngoài bãi
Ra đến giếng nước ăn
Quay sang lần nước uống
Giếng gánh nước đêm ngày
Gái cả bản cười vui
Trai cả mường về hội
Người đến giặt áo
Mọi người về rửa rau
Ngày tiếp ngày vui vẻ
Có anh thấy bóng mình dưới giếng
Đầu bạc trắng tựa hoa lau
Về lấy tay gối đầu quạnh vắng
Chuyển ra chỗ cây mận buộc bò
Chuyển ra chỗ cây bo buộc ngựa
Chuyển ra nơi cây mận hoa trắng
Chuyển ra chỗ cây đào hoa hồng
Quay ra chốn ba sinh
Quay xuống chốn ba sào
Chuyển qua bụi trầu không
Quay ra giàn trầu ngọt
Chuyển ra chốn bụi xỏm nhuộm đen
Chuyển xuống vùng khóm chàm nhuộm mũ
Búi xỏm nhuộm mũ đen
Cây chàm nhuộm mũ sáng
Chuyển xuống chốn gừng già dưỡng lực
Chuyển xuống chốn gừng gié chữa ho
Đến ra chốn thì là dậy phép
Nơi rau hẹ dạy lời
chốn rau dền cuống đỏ
Ngày xưa nàng còn trẻ chê chồng
Đêm nay thấy xôi hồng xôi tím
Chuyển ra nơi vườn mùng thẳng cọng
Chuyển qua nơi ao chuôm trước sàn
Chuyển qua nơi cây cơi cuối bản
Chuyển ra chốn cây dướng bờ ngòi
Lá cơi đem ruốc cá
Vỏ dướng ép giấy thơm
Giấy dướng để thư từ đi lại
Đêm nay viết công hàm đi Hác
Công hàm gửi đi Hác sắp về
Công hàm gửi tổ tiên sắp lại
Sau khi đã lên đường, công việc điểm lễ bắt đầu, lúc này các thầy có thể ngồi xuống và hát:
Xuống đến chốn ruộng lớn điểm quân
Xuống đến chốn ruộng tròn điểm ngựa
Ngựa Sjay đi nườm nượp
Binh quân quan cùng dậy nhất loạt
Ta điểm mỗi đầu ngựa một chữ
Điểm lấy mỗi đầu lừa một dấu
Chữ tam bảo đỏ tươi
Dấu Ngọc Hoàng đỏ chót
Chuyển sang chốn pò ải khiêng hoa
Chuyển đến chốn mường giang gánh lễ
Pò Ải hãy điểm lễ
Mường giang hãy điểm gánh
Điểm lấy của trần thế đủ đầy
Điểm lấy của chủ nhà cho hết
Điểm lây ba hũ rượu
Điểm lấy chín hũ trà
Điểm lấy năm buồng hoa tươi sắc
Điểm đủ người lũ lượt hành trình
Điểm lấy những mình vàng hành lễ
Điểm lấy cả bánh moọc mịn thơm
Điểm lấy cả bánh dầy ngon dẻo
Bánh bầu dợm đuôi én
Bánh ngọt lịm đuôi vàng
Hăm hai loại bánh ngon
Điểm lấy bánh thiên địa cột vàng
Điểm lấy cả bịch gạo lên phù
Điểm lấy cả bịch muối lên nộp
Bịch gạo chắn khe trên
Bịch muối đắp khe dưới
Điểm lấy đôi cầu sắt về đóng
Điểm lấy đôi cầu đồng về bắc
Cầu gãy ta loại ra
Cầu tốt ta bắc vào
Điểm lấy cả cây mệnh lên ươm
Cả chuối con về trồng…
Điểm lấy căn nhà sàn bốn góc
Điểm lấy cả ngôi lầu bốn tầng
Tầng dưới thịt với cá
Tầng trên quả cùng hoa
Cả bánh moọc hồng tươi
Cả bánh dầy tròn đẹp
Điểm lấy căn lầu hoa
Điểm lấy ngôi lầu hạn
Lầu hạn cả hai áo hai thân
Lầu hạn của cả chồng cả vợ
Trần thế dựng cây danh
Trên trời bắc cây vận
Điểm lấy hoa buồng dầy
Điểm lấy chùm buồng trĩu
Điểm lấy vải nhiều màu
Điểm lấy áo nhiều hoa
Áo nhiều màu trăm hoa dâng mẹ
Điểm lấy cả bánh moọc tròn xinh
Điểm lấy cả bánh dầy tròn đẹp…
Điểm lấy cỗ chủ nhà cho hết
Điểm lấy cả hình nộm thế thân
Điểm lấy cả bù nhìn thế hạn
Hình nhân đi thay người
Bù nhìn đi thế ốm thay đau
Thế ông bà cha mẹ con cháu
Thay rủi ro vận hạn cả nhà
Điểm lấy cả con chim con chuột
Cả con dơi con phượng
Con Pựt chiếu thấy ta dọi thấy…
Nhìn thấy chốn cây đa đầu bản
Nhìn thấy chốn cây nhãn đầu thôn
Nhìn thấy ông thổ công
Nhìn thấy ông công sào thổ địa
Ngựa ta đến thổ địa ta dừng
Sjay ta đến thổ công dừng bước
Dừng bước Sjay điểm lễ
Dừng ngựa quan điểm quân
Sau khi điểm lễ vật, nếu thần thánh nhập vào người phán, người đó sẽ phán về những việc hay dở diễn ra trong gia đình gia đình và căn dặn lý lẽ sống sao cho tốt hơn, gia đình giàu mạnh hơn, con người khoẻ mạnh hơn. Sau khi phán xong, thổ công phi ngựa bạch dẫn đường đưa quân lên dâng lễ tổ. Đoàn người lên dâng lễ tổ gồm có: Thổ công, Thổ địa, Công sào dẫn đường, các Pò ải, Mường giang gánh lễ vật, hai nàng Hương và noọng Hải Va mang tư trang, thắp hương, chăm lo cho Sjay. Thầy bắt đầu hát và làm những động tác thể hiện đoàn quân lên đường dâng lễ tổ:
Ngựa ta được thổ địa ta về
Sjay ta được công sào ta lên
Thổ công giữ đầu bản
Công sào quản đầu thôn
Bản người có quân hôn
Thôn mình không được động
Ngựa ta được thổ địa dẫn đường
Sjay ta được công sào dẫn lộ
Bản thổ thổ đi trước
Mường thổ thổ dẫn đường
Dậy thôi ông thổ công
Đi thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa trắng lên đường
Công sào phi ngựa bạch trước Sjay
Dậy thôi đôi Pò Ải gánh gồng
Đi thôi đôi Mường Giang gánh lễ
Pò ải nhấc đòn gánh lên vai
Mường giang đặt đòn gánh lên cổ
Khiêng nặng đi rầm rập
Gánh nặng đi ào ào
Gánh nặng bởi gạo nếp
Chở nặng bởi hoa quả
Gánh nặng đi trước quan
Gánh nặng đi trước Sjay
Dậy thôi ba nắm thóc nuôi ngựa
Sáu cum lúa nuôi lừa
Gà ve vẩy trên đường
Mỗi người mang mình vàng mình bạc
Hai nàng đeo túi áo lên đường
Bốn nàng mang túi vía cùng bước
Dậy đi bát gạo vía
Dậy đi quả trứng mệnh
Mình vàng mình bạc đi đón mệnh
Dậy đi ơi cô nàng pha trà
Dậy đi ơi cô nàng ủ rượu
Rượu này ủ giờ ngọ men thơm
Rượu này ủ giờ trưa men ngọt
Rắc men không mắng chó
Ủ rượu không chửi con
Chim nhạn xuống đỡ vén
Chim én xuống đỡ vùi
Ba trưa ngọt nước mía
Ba ngày rỏ nước đường
Giọt rượu rơi xuống bàn ngát hương
Giọt rượu rơi xuống bàn mát dịu
Dậy thôi nàng thắp hương
Dậy thôi cô chong đèn
Hương tắt em hãy thắp
Đèn tắt em hãy chong
Hương đừng tắt giữa lộ
Đèn đừng lụi giữa đường
Hương tắt em đi thắp
Đèn tắt em hãy đốt
Hương đừng tắt giữa lộ
Đèn đừng lụi giữa đường
Hương tắt em đi thắp
Đèn tắt em đi thế
Dậy thôi gốc Sjay già quản lễ
Đi thôi quan nha môn quản của
Dậy thôi mười thành tổ
Chín thành Sjay dậy cùng một lượt
Chuyển lên gốc nghiến cao
Lên chỗ ngọn diễn cong
Thân diễn làm ống lần ruộng mạ
Ngọn diễn làm vỏ dao chạm rồng
Gốc diễn làm âm dương trần thế…
Chuyển lên nương lưng núi
Chuyển lên ruộng bậc thang
Lên nơi cây dáy dại trên đá
Cây dáy ngứa trên vực
Sinh cạnh gốc cây dáy phát đờm
Ai rơi phải cây dáy sinh ho
Ho lục khục trong miệng
Ho khục khặc trong cổ
Ho thắt cổ gầy còm
Quan Sjay ném cây dáy xuống vực
Quẳng cây dáy xuống khe
Biến thành con cất vó dưới nước
Lên nơi trẻ chăn trâu ruộng thang
Gái chăn trâu ruộng trũng
Trẻ chăn ngựa quên ăn
Gái chăn trâu quên chạc
Trẻ chăn ngựa quên nhà
Gái chăn trâu quên chồng
Đàn ông mắc dây yếm khó về
Đàn bà vướng dây địu khó lại
Chuyển lên xứ cỏ lác cứa chân
Chuyển lên chốn cỏ đa cứa cẳng
Sjay lên không cứa chân
Sjay về không cứa cẳng
Ngựa Sjay quen lên xuống
Quân quan quen đi về
Qua chỗ vịt lặn nước sì sầm
Trâu đằm nước ì oặc
Vịt lặn nước đầm trên
Trâu ngụp nước đầm dưới
Lên chỗ vực quăng chài
Quay lên chỗ câu cá
Được hai ba con cá nàng cười
Giật mấy lần được cá nàng khóc
Khóc đi lại khóc về
Biến thành con cất vó mặt nước
Mới thành cô áo đỏ bờ mương
Mới thành cô áo vàng bến nước
Mới thành nàng yêu tinh hà bá
Con Pựt nhìn thấy rừng hoa trắng
Nhìn thấy xứ gái trai áo trắng
Con đỉa bằng cổ chầy
Con vắt tựa mõ trâu
Cớ sao em lại chết ao trắng
Bởi bố tiếc con vịt đuôi biếc
Bởi bố tiếc con gà hoa mơ
Em phải về chết ở ao trắng
Chỗ này mệnh trời thế chớ câu
Nơi này lậu đường gia đừng ở
Chuyển lên nàng chém cành dọn lối
Chuyển lên cô Lìm là giăng bẫy
Lưới người bày mọi chốn
Lưới người hãy giăng xa chốn này
Chỗ này đường dâng hoa nhà Sjay
Chỗ này lễ hương nhang nhà Bụt
Nơi này nơi con lộ Sjay về
Chốn này nơi con đường Sjay lên
Chuyển lên xứ cây bứa
Vùng rừng xanh cây bền
Vùng rừng xanh cổ thụ
Đến rừng sâu hương quế
Chốn rừng già hương trầm
Miền rừng thơm ngào ngạt
Ngựa Sjay vào rừng cây xanh thẳm
Nhà Sjay gọi lục nhâm thu vía
Lên đến chốn chim én lượn sà
Nơi hang dơi trú ngụ
Chuyến xuống vùng chuối rừng
Ngoặt xuống miền lá dong
Gái đẹp người vào rừng lấy chuối
Gái xinh người xuống khe lấy lá
Tàu dưới vương phân hổ
Tàu trên dính cứt chim
Tàu giữa lá non mềm em chọn
Hái hoa về cống nàng
Ngắt nụ về cống mẹ
Con Pựt nom thấy ta nhìn thấy
La soi thấy la nhìn
Nhìn thấy gốc mồ mả giữa rừng
Nom thấy chốn tổ tiên bên suối
Mồ mả có nhiều ngôi
Ngôi thấp ngôi ông bác
Ngôi cao ngôi ông chú
Ngôi hai bên chú thím
Ngôi chính giữa ông tổ
Ngựa Sjay đến đất mộ ta dừng
Lên đến chốn tổ tông ta xuống
Dừng ngựa Sjay vào trình
Dừng bước quan vào tâu
Dừng chân ông thổ công
Dừng thôi ông công sào thổ địa
Thổ công cưỡi ngựa bạc dừng chân
Công sào phi ngựa trắng dừng bước
Dừng chân hỡi các chàng khiêng lễ
Dừng chân hỡi các giang gánh của
Các chàng khiêng lễ đặt đòn gánh
Các giang nhấc đòn gánh khỏi vai
Hai em đeo túi vía dừng chân
Bốn nàng mang túi vía dừng bước
Dừng thôi bát gạo vía
Dừng thôi quả trứng mệnh
Dừng nhé em pha trà
Dừng ơ cô rắc men ủ rượu
Dừng ơ cô thắp hương
Dừng ơ cô chong đèn
Hai em sửa mâm hoa cho đẹp
Bốn nàng coi đèn hương cho sáng
Dừng thôi gốc Sjay già quản lễ
Dừng thôi quan nha môn quản của
Chín vị thánh cùng dừng
Đoàn đi trước đứng đợi
Quân mã đều dừng chân
Ghìm cương ngựa dừng vó
Quay ngang ngựa đứng lại hết thảy.
Khi đoàn quân lên tới nơi là lúc vào trình tổ, khi vào trình tổ, các thầy ngồi xuống, trang nghiêm trình tổ, đoạn ca trình tổ bắt đầu:
Chập tối từ trần thế lên đến
Khuất mặt gà từ gia đình lên
Xin tổ mở cánh cửa hai bên
Giang cánh cửa hai phía
Mở cửa vàng cửa bạc hai ngả
Hai cô ơi bốn nàng
Mau têm trầu đầy cơi
Hãy bổ cau đầy đĩa
Mời tổ ăn miếng trầu tráng miệng
Ăn miếng cau tráng họng
Trầu ngọt miệng xin thưa
Trà ngọt họng sẽ kể
Kể về ông gốc nhà
Kể về bà chủ hộ
rơi xuống chỗ này là
Yên bái chính là tỉnh
Yên Bình là nơi huyện
Xuân Lai nay là xã
Trung Tâm hiện là thôn
Năm trước sống tốt
Năm ngoái ở yên
Chớp mắt sang năm nay
Cái đau sợ xuống quấy
Cái ốm lo đến gần
Hôm nay ngày 10 tháng 7
Hoa mận nở trước nhà
Hoa đào tươi trước ngõ
Kể đến ông gốc nhà
Thứ đến bà chủ hộ
Hơn sáu mươi sợ tai nạn
Ngoài bảy mươi lo hạn
Mười người mười bao gạo
chín người chín bao thóc
Bịch thiên địa đựng vía
Cả bịch gạo về cho
Cả bồ muối về nộp
Bịch tóc đắp ao trên
Bồ muối chắn khe dưới
Cả cầu sắt giải vận
Cả cầu đồng giải hạn
Cầu mục ta vứt đi
Cầu chắc, cầu tốt ta đem bắc
Cả gốc tre đem trồng
Cả chuối con trồng bên
Tre về trồng đất tốt
Chuối đem trồng đất mát đất lành
Đêm mọc một hai lá
Sáng đâm chồi ba ngọn
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt chồi
Đàn gà trời chẳng lông
Lũ gà trời giang cánh
Thứ nữa là con trai
Bên là chàng trai trẻ
Cả hai áo song thân
Cả hai cùng bố mẹ
Ba mươi lo tai
Hơn bốn mươi lo hạn
Trần thế dựng cây tre
Dựng cây danh giải hạn
Có cả lầu một cột
Cả biệt thự hai tầng
Tầng dưới đầy thịt cá
Tầng trên hoa quả đầy
Cả bánh dầy chiếc xinh
Cả bánh giò chiếc đẹp
Thứ nữa đến con trai
Bên là người vợ trẻ
Sinh con có nhiều bề
Sinh được con nhiều lứa
Cả hai áo hai thân
Hai ba người anh em
Lo được hai chén cơm ngũ sắc
Bốn chén nếp nhiều màu
Áo đẹp lên dâng mẹ
Có cả lầu bốn cột
Cả biệt thự nhiều tầng
Tầng dưới nhiều thịt cá
Cả bánh dầy tròn xinh
Cả bánh giò mịn đẹp
Có cả ba gánh rượu
Có cả chín gánh trà
Năm gánh hoa gánh quả
Rượu này ủ giờ ngọ men thơm
Ủ giờ trưa trước bản
Ủ rượu không mắng chó
Ủ trà không chửi trẻ
Ba trưa rỏ nước ngọt
Ba ngày ngọt nước đường
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường Phật
Rượu lên lễ Mường Sjay
Giọt rượu rơi xuống bàn ngát hương
Giọt rượu rơi xuống bàn mát dịu
Đau yếu có bù nhìn đi thế
Cả hình nộm thế thân
Cả hình nhân thế mạng
Con tổ tổ hãy đỡ
Cháu tổ tổ hãy che
Nòi ta sinh nó khoẻ
Giòng giống ta ta quý
Ở dưới lên lhông chắp tay không
Không ngửa tay lên rỗng
Tiền đem lên nhiều trăm
Bạc đem lên đếm vạn
Các em hãy đem chậu ra lót
Đem mâm đồng ra đựng
Chẳng đốt tiền không hoá
Chẳng hoá chẳng thành bạc thành tiền
Bạc về giao chỗ mộ được yên
Tiền về đặt tổ sơn được mát
Được tiền hãy giúp thân
Được bạc xin giữ mệnh
Nhà Sjay đeo túi áo bên mình
Nhà quan ôm túi vía theo Sjay
Con Pựt chào mộ tổ ta về
Ngựa ta nhắc tổ sơn ta lên
Mộ hãy ăn hãy ngồi
Sjay nhắn Sjay lên đường
Tổ vừa ăn nhẩn nha thư giãn
Quan nhắn quan hành lộ…”
Sau khi trình tổ xong, các quan sẽ thu vía lại, các thầy làm động tác thu vía đồng thời ca đoạn hát thu vía:
“…Tổ sẽ đưa vía về
Sjay sẽ đón vía lại
Ba lần xin âm dương
Sáu lần được cả sáu
Bố con rủ nhau về
Anh em rủ nhau lại
Ông con rủ nhau đến
Bà cháu rủ nhau lại
Tốt lắm khi vía về
Anh em rủ nhau đến
Chị em rủ nhau lại
Rủ nhau lời tha thiết
Vung tay lại lon ton
Vía về nhiều không ít
Vía về nhiều khôn buồn
Vía ở tối về sáng
Vía ở đồng về nhà
Tốt lắm…ơi vía về… đón vía lại…
Tiếp đó, nhà Sjay còn hát ghẹo nàng hương:
…Ơ… nắng mường trời nắng gắt
Nắng mường thiên nắng khô nắng khát
Đường mường trời còn dài
Đường mường thiên còn rộng
Cho Sjay xin chén nước lấy sức
Cho quan xin chén trà hương đỡ mỏi
Mấy khi búp hoa nở đẹp hay
Vất vả với nhà Sjay một đám
Ơ… hầu Sjay hầu có mùa
Hầu chồng hầu suốt đời ơ em…
Nàng hương xấu hổ không đối đáp nổi, nhà Pựt lại ghẹo tiếp:
…Ơ… Sao em lấy bẹ chuối làm củi
Lấy rêu chuối làm nước vậy em
Hòn đá ném xuống nước thành quầng
Sao không đáp lại vài câu thế nhỉ?
Sau khi vào trình mộ tổ đã xong, đoàn người lại tiếp tục rời mộ tổ lên đường, qua rừng, qua núi, lên đến xứ kể chuyện tình yêu, lên đến xứ trai côi, gái goá, vào đến mường trai tài, gái giỏi, lên đến xứ 12 em pha trà, 12 cô ủ rượu :
Con Pựt vào trình mộ đã xong
Cương ngựa nhằm mường trên cất bước
Dậy thôi ông thổ công
Lên thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch lên đường
Công sào phóng thuyền hoa vun vút
Dậy thôi đôi trai ải vai khiêng
Đi thôi đôi trai giang vai gánh
Dậy thôi cô thắp nhang
Đi thôi cô giữ lửa
Hai cô rửa mâm hoa cho sáng
Bốn nàng trông mâm hương cho tỏ…
Lên thôi gốc Sjay già quản lễ
Lên thôi quan nha môn giữ của
Dậy thôi mười quan thánh
Chín quan Sjay dậy cùng dậy hết
Chuyển lên chốn bà vượn đuôi dài
Bước đến chốn bà gấu ăn cưới
Ngày xưa bởi dệt vải được giàu
Nay mới thành bà gấu ăn cưới
Lên đến chốn lũ rùa lặn ruộng
Chốn ba ba lặn giếng
Khỉ mẹ dạy khỉ con hái quả
Rái cá dạy rái cá lặn ao
Chó mẹ dạy chó con săn bắt
Rùa mẹ dạy rùa con lặn nước
Ba ba dạy ba ba lặn giếng
Ngọn cây đan ngọn cây dày tán
Lông chân buộc hàng rào gỗ nghiến
Lễ đắt mới thả rùa xuống ruộng
Thả ba ba xuống giếng
Phóng ngựa qua lưng rùa kêu xoà
Phi ngựa qua ba ba kêu xồng
Lên đến chốn khỉ già mặt đen
Lên đến xứ căng bầy đít nhọ
Khỉ lượm quả rừng già
Dựa lưng nhau ăn quả
Sải tay hái từ ngọn đến gốc
Ăn xong lên sườn dốc nằm ngủ
No bụng vào hang lớn nghỉ ngơi
Khỉ mẹ sinh con không tã cũng không địu
Cõng con lấy ngoẵm chân về cõng
Con Pựt nom thấy chốn rừng thiêng
Nhìn thấy xứ rừng già
Cây to bằng cái sàn
To bằng cả cái nhà người ở
Cây rằng: cao hơn lúa
Lúa rằng: cao hơn cây
Cây rằng: cao hơn nhà
Nhà răng: Cao hơn bịch
Cây queng quý làm nhà
Bìm bịp đậu còn rung
Chim chèo bẻo đu vóng còn đổ
Chốn này không có trầu vào lễ
Không có cau vào mời
Gửi lời chào tất cả Sjay qua
Lên chốn anh ngủ mê
Lên nơi gã ngủ gật
Ngủ ba ngày không gật
Ngủ sáu ngày không xoay
Nhà Sjay đổ về trước
Gã quờ quạng đằng sau
Nhà Sjay đổ về sau
Hắn nghều ngoào về trước
Lửa cháy nó biết giúp
Hổ vồ nó biết doạ
Gái đẹp đi qua ngõ
Phải mùi đàn bà liền sinh ốm.
Lên đến xứ kể chuyện tình yêu
Chốn những người con gái con trai
Chốn trâu đực không chuồng
Chốn trai tơ không vợ
Bước lên xứ trai khôn
Lên đến mường gái khéo
Khôn nó khôn lắt léo
Khéo nó khéo đủ đường
Giỏi nó giỏi đủ thứ
Gái này may áo chồng không mướn
May áo quan áo quân không mượn không nhờ
Tay vục nước thành hoa
Tay khoả nước thành lúa
Lên đến xứ trai đần
Chuyển sang mường trai vụng
Đần nó đần đủ thứ
Vụng nó vụng đủ đường
Đóng chuôi dao phải nhờ
Tra cán rìu đi mướn
Đóng con dao nén tám
Tra hái nhét nén ba
Ai muốn lấy thêm còn cho nữa
Chuyển đến xứ gái vụng
Vụng nó vụng đủ thứ
Đần nó đần đủ đường
Lao con thoi một năm
Chải mái tóc một ngày
Sợi vải bằng bờ ruộng
Mặt vải như bờ rào bờ dậu
Chẻ lạt thành lạt lẹm
Trai bá cổ còn khóc
Bước vào mường trai khéo
Khôn nó khôn lắt léo
Khéo nó khéo đủ đường
Lanh nó lanh đủ thứ
Đóng con dao nén tám
Tra hái nhét tám tiền
Ai bán còn mua thêm
Chuyển lên xứ goá vợ quản nhà
Lên đến chốn bà goá quản bản
Trai goá vợ có chày có cối
Lại không sàng không nia
Soỏng rách không biết dặm
Dậu thủng không biết đan
Nhà bà goá không chày không cối
Lại có sàng có nia
Soỏng rách biết dặm đan
Dậu thủng biết chêm sửa
Mỗi người khác bịch thóc cũng ngán
Mỗi người khác căn nhà cũng buồn
Ông goá với bà goá
Lân la hoá vợ chồng
Ví bằng người yêu với người vợ về bén
Vợ đẹp ở cái trán
Người yêu đẹp ở đôi mắt
Chồng chết vợ khóc lăn khóc lóc
Người yêu trên lưng đèo nghe tiếng
Mai có còn chết nữa hay không
Đội tang lây khăn đỏ về thắt
Lấy khăn hồng về đội
Lấy vịt gà ăn chay
Thịt trâu làm đậu phụ
Kẻ giàu chớ vội chê người nghèo
Có việc họ đỡ đần
Hổ bắt lợn giúp đuổi
Kẻ nghèo hãy khoan chê người có
Có cái gì họ cho
Mọi người phi rồng bay phía trước
Phóng lừa bay thẳng đường
Mỗi người mang mình vàng hành lộ
Lên xứ mười hai em pha trà
Mười hai cô ủ rượu
Lên đến cô thứ nhất
Nàng này đưa con thoi một năm
Mắt vải như mắt rào mắt dậu
Khâu áo chồng còn mướn
May áo quân áo quan còn nhờ
Lấy dây sắn về xâu
Lấy cỏ rác về may
Khâu hý ha hý húi
Kim liền đâm vào tay
Lên đến nàng thứ hai
Cô này chân đụng liền đá
Tay cầm ống là quăng
Mắt liếc ngang liếc dọc
Lên đến nàng thứ ba
Cô này ăn hết ba gắp cá nướng
Không bỏ xương cho mèo
Vu cho mèo ăn vụng
Bấm cổ mèo chảy máu
Lên đến nàng thứ tư
Cô này ăn hết bốn quả mít
Không bỏ xơ cho con…
Lên đến nàng thứ năm
Ông vãi đến đầu bản mắng gà
Bà vãi đến đầu nhà mắng chó
Lên đến nàng thứ sáu
Cô này bước ra cửa xiêu nhà
Ra ruộng làm nhà đổ…
Lên đến nàng thứ bảy
Nàng này anh em qua cuối đồng gọi về
Chú thím qua dưới ruộng mời lên
Lên đến nàng thứ tám
Anh em qua cuối đồng sợ lên
Chú thím qua cuối đồng sợ đến
Lên đến nàng thứ chín
Cô này tay khoả nước thành hoa
Tay vục nước thành quả
Chân vẽ thành rồng phượng
Lên đến nàng thứ mười
Nàng này viết chữ được con trâu
Bật dây thành số một
Phát dấu chiếu mặt trời
Lên nàng thứ mười một
Nàng này ra đồng khiến nhà xiêu
Ra ruộng làm nhà đổ
Lên đến cô mười hai
Nàng này đem hoa lên dâng cô
Đem quả về dâng mẹ
Nàng uyển chuyển múa ca
Cô thiết tha dịu dàng
Đem hoa lên dâng cô
Trẩy quả lên dâng mẹ
Hoa sắc đẹp cô nhìn
Qủa ngọt tươi mẹ ngắm
Trời nắng đem ra hong
Trời trong đem ra phơi
Hoa nở tươi cô nhìn
Khuất mặt gà hoa đã đến nơi
Chập tôi liền có quả đến nhà
Em này về nộp của mới an
Nàng này theo nộp lễ mới dứt..
Nhà Sjay hướng đầu rồng phía trước
Giật cương phi ngựa Sjay hành lộ
Nhà Sjay nhìn thấy la nhòm thấy
Nhìn thấy đồng bao la
Nhìn thấy xứ lắc lơ
Nhìn thấy xứ sở này
Khuất mặt gà vào nghe giấc mơ
Ba mươi tết sang giêng
Lấy con gì kêu trước cho tốt
Lấy con gì khai xuân cho phải
Tháng giêng, ba mươi tết
Con gà đen gáy trước
Con gà đen khai xuân
Con gà đen gáy trước không tốt
Con gà đen khai xuân không phải
Con trần thế không yên
Cháu trong nhà không ổn
Chập tối vào nghe mơ
Khuất mặt gà nghe mộng
Xem con gì kêu trước thì tốt
Xem con gì gáy trước thì phải
Con bìm bịp gáy trước
Con bìm bịp khai xuân
Con bìm bịp kêu trước không tốt
Con bìm bịp gáy trước không phải
Con trần thế không yên
Cháu gia đình đau ốm
Vắng gà vào nghe mộng
Xem con gì kêu trước
Con gì về khai xuân
Con mèo đen kêu trước
Con mèo đen khai xuân
Con mèo đen kêu trước không tốt
Con mèo đen khai xuân không phải
Trần thế lắm miệng bằng về sau
Nhà cửa lắm đuôi vằn về quấy
Chập tối vào nghe mơ
Vắng nhà vào nghe mộng
Con chó đen khai xuân
Con chó đen sủa trước không tốt
Con chó đen khai xuân không phải
Chập tối vào nghe mơ
Khuất mặt gà vào nghe mộng
Con gì về kêu trước thì tốt
Con gì về khai xuân thì phải
Nghe thấy con trâu đen kêu trước
Trâu cà đen khai xuân
Con trâu đen khai xuân là tốt
Trâu cà đen khai xuân là phải
Con Pựt nhìn thấy la nhìn thấy
Nhìn thấy chốn đầu rồng nắng đỏ
Nhìn thấy ngả đầu mường khói hồng
Nhìn thấy ba mươi xứ lôi nắng
Tám mươi xứ lôi vàng
Ông lôi con nối vải không tới
Con dệt áo không đụng
Xứ này chín mươi hai mặt trời
Dội nắng xuống trần gian cạn kiệt
Lợn uống nước ống giang
Nai uống nước ống nứa
Mòng chết nắng giữa nương
Khỉ căng chết co quắp cành cây
Gà vịt không nước uống
Trần thế không biết làm thế nào
Chẳng biết tính sao đây
Tìm đến ông lôi nắng
Cậy đến ông lôi lớn
Ông lôi liền giương cung lên bắn
Bắn lên hơn ba chục tầng lầu
Bắn thẳng chín mươi hai mặt trời
Mặt trời lặn xuống biển bặt tăm
Mọi người trên mặt đất tối mù
Chẳng biết đường đi lại làm ăn
Lợn, nai chốn rừng già chết đứng
Chúng sinh nơi trần thế héo hon
Lợn uống nước ống giang
Vịt uống nước ống nứa
Ống giang cứa cổ nai xây sát
Ống nứa cứa cổ vịt có khoang
Mới thành vịt cổ vằn
Mới thành ngỗng cổ dài
Mới thành nai cổ thắt
Vịt ơi, vịt cõng gà sang biển đi gáy
Một mặt trời toả sáng xuất hiện
Mọc nó mọc phương Đông
Lặn nó lặn phường Tây
Khi ấy mới lập tạo đêm ngày
Khi ấy ba mươi ngày mới kể làm tháng
Mười hai tháng là một năm
Khi ấy mới đặt làm ngày canh ngày giáp
Mới đặt làm ngày giáp ngày canh
Ba mươi ô cán vàng
Ba mươi dù tán hoa
Tháng giêng sai giáp nào đi trước
Giáp nào bước theo sau
Mới thành ra lục nhâm thu mệnh
Tháng giêng sai giáp tý đi trước
Giáp dần bước theo sau
Mới phải là lục nhâm thu mệnh
Ba mươi ô cán vàng
Tám mươi dù tán hoa
Tháng giêng sai giáp nào đi trước
Giáp nào bước theo sau
Mới thành ra lục nhâm thu mệnh
Tháng giêng sai giáp tuất đi trước
Giáp tý bước theo sau
Mới phải là lục nhâm thu mệnh
Ba mươi ô cán vàng
Tám mươi dù tán hoa
Tháng giêng sai giáp nào đi trước
Giáp nào tiếp theo sau
Mới thành ra lục nhâm thu mệnh.
Con đường vẫn tiếp tục, khi đoàn người vào mường ngũ cốc thuần hoá các con vật thành vật nuôi trong nhà:
Nhà Sjay hướng rồng bay phía trước
Ra roi phi ngựa bay lên đường
Mọi người mang mình vàng hành lộ
Nom thấy xứ ngũ rồng
Nhìn thấy mường ngũ cốc
Ngũ cốc đang vò đầu
Ngũ cốc tính sao đây
Lấy con gì cày nương nuôi nhà
Lấy con gì cày ruộng nuôi thân
Ngũ cốc lao xuống sàn
Ngũ cốc phóng xuống bãi
Bắt gà đi mắc vạy
Gà mắc vạy chẳng đi
Gà thắng ách chẳng bước
Roi trong tay liền vụt
Gà bay vút vào rừng
Biến thành con gà cỏ
Ngũ cốc lại vò đầu
Giờ biết làm sao đây
Lấy con gì làm nương nuôi nhà
Lấy con gì cày ruộng nuôi thân
Ngũ cốc bắt con mèo thắng ách
Lôi con mèo mắc vạy
Mèo mắc vạy khhông đi
Mèo thắng ách chẳng bước
Roi trong tay liền vụt
Mèo chạy tót vào rừng
Hoá thành cáo bắt gà
Ngũ cốc lại bứt tai
Ngũ cốc lại vò đầu
Gìơ biết làm sao đây
Lấy con gì cày nương nuôi nhà
Lấy con gì làm ruộng nuôi thân
Ngũ cốc phóng xuống sàn
Ngũ cốc lao xuống bãi
Liền bắt chó đi cày
Chó mắc vạy không đi
Chó thắng ách chẳng bước
Tay cầm roi liền vụt
Chó chạy tọt vào rừng
Biến thành con gấu chó
Ngũ cốc lại vò dầu
Ngũ cốc phóng xuống sàn
Ngũ cốc lao xuống bãi
Ngũ cốc bắt bò đi mắc vạy
Bò nào bò mắc vạy chẳng đi
Bò gì bò thắng ách không bước
Quen tay roi liền vụt
Bò chạy tót vào rừng
Hoá thành ra con nai
Ngũ cốc lại bứt tai
Lấy con gì làm nương nuôi nhà
Lấy con gì cày ruộng nuôi thân
Ngũ cốc lao xuống sàn
Ngũ cốc phóng xuống bãi
Ngũ cốc bắt con dê mắc vạy
Dê mắc vạy không đi
Dê thắng ách chẳng bước
Roi trong tay lại vụt
Dê chạy tót vào rừng
Hoá thành con sơn dương
Ngũ cốc lại vò đầu
Gìơ biết tính sao đây
Ngũ cốc phóng xuống sàn
Ngũ cốc lao xuống bãi
Ngũ cốc bắt lợn đi mắc vạy
Lợn nào lợn thắng ách nó chịu
Tay cầm roi liền vụt
Nó chạy tọt vào rừng
Hoá thành con lợn lòi
Ngũ cốc lại bứt tai
Lấy con gì làm nương nuôi nhà
Lấy con gì làm ruộng nuôi thân
Ngũ cốc bước xuống thang
Ngũ cốc lao vào bãi
Ngũ cốc bắt ngựa đi mắc vạy
Ngựa gì ngựa mắc vạy không đi
Ngựa gì ngựa thắng ách chẳng bước
Roi trong tay quen vụt
Ngựa chạy tót vào rừng
Hoá thành con sói núi
Ngũ cốc lại vò đầu
Giừo biết tính sao đây
Ngũ cốc lại xuống thang
Ngũ cốc lao vào bãi
Ngũ cốc bắt trâu đi mắc vạy
Trâu mắc vạy liền đi
Trâu thắng ách liền bước
Con chuột trong bui chuối mách rằng:
“ Lấy dây về xiên mũi mới được”
Con trâu hắt xì hơi ba cái
Từ đấy trâu ra ruộng trước chủ
Chủ chỉ biết vác cày theo sau
Cày bừa đến giờ ngọ
Thả trâu lên lưng đồi ăn cỏ
Ăn hết đồi dây ngọt
Ă hết rừng cỏ thơm
Trâu ăn đến giờ dậu
Khác rủ nhau về chuồng
Con lớn chúng nghiêng sừng vào cửa
Con nhỏ chúng nghiêng tai vào bãi
Khác conkhác cái cọc chúng chầu
Mỗi con mỗi chiếc cột chúng đứng
Từ đó mới nằm sấp đếm trâu
Mới nằm ngửa đếm của
Bờ ao trồng cây luồng
Ngon buông gió đung đưa
Khi ấy gà nhìn vịt đùa phai
Trâu gọi trâu lặn nước
Tạm biệt xứ ngũ cốc
Bước sang mường ngọ cáo
Giết gà mổ vịt lấy cái gì về tra
Lấy chiếc lẹm về tra
Tra đi rồi khảo lại
Tra trước mặt thiên đình
Tra trước mặt tiên sinh
Tra trước mặt tiên sinh tiên đình
Giết mèo lấy cái gì về giết
Giết mèo lấy ống lẹm về tra
Tra đi rồi khảo lại
Tra trước mặt tiên sinh thiên đình
Giết chó lấy cái gì về tra
Giết chó lấy dùi đục về khảo
Khảo đi lại khảo lại
Tra trước mặt tiên sinh thiên đình
Mổ lợn lấy cái gì về mổ
Mổ lợn lấy ống lẹm về khảo
Khảo đi rồi khảo lại
Khảo trước mặt tiên sinh
Khảo trước mặt tiên sinh thiên đình
Ba mươi trâu nhọc vai gieo mạ
Chín mươi trâu nhọc lưng cày nương
Tháng giêng kiếm cây lý
Tháng hai kéo cây phay
Tháng ba bắc máng đưa nước về ruộng mạ
Tháng tư người người đưa gieo mạ
Tháng năm người nhổ mạ đi cấy
Tháng bảy lúa ra đòng
Tháng tám lúa đầy bông
Tháng chín lúa vồng lên trĩu hạt
Tháng mười lúa vàng trải khắp đồng
Người nhộn nhịp đầy mường liềm hái
Người đòn gánh, dậu, bung đầy bản
Gánh về để bịch lớn sau nhà
Gánh về để bịch to trước cửa
Trời mưa hong gác bếp
Trời nắng đem phơi giàn
Khô tốt đem xuống máng đi choỏng
Đem vào cối mới giã
Gĩa nhịp chầy vung vẩy
Gĩa đung đưa uốn mềm
Xôi chín thành dẻo thơm
Mới đem đi xuống cối mà giã
Đưa lên tay nặn vo
Mới thành ra bánh dày chiếc đẹp
Mới nên thành bánh moọc chiếc xinh
Mới thành chiếc bánh dầy đắp vía
Mới thành chiếc bánh moọc bồi mệnh
Bánh dẻo mềm đuôi én
Bánh thơm ngọt đuôi xoè
Mười hai thứ bánh ngọt
Bánh ngọt lên dâng cô
Bánh thơm lên dâng mẹ
Sau khi thuần hoá các con vật trong mường ngũ cốc, đoàn người tiếp tục đến xứ quỷ “ Dà Dìn”. Tại đây, đoàn người phải lừa để lấy cho được cây gậy thần mới mong qua được sông:
Con Pựt nom thấy đã nhìn thấy
Nhìn thấy xứ Dà Dìn ngủ trưa
Mường Dà Dìn ngủ vắng
Dà Dìn ngủ ba ngày không trở
Ngủ sáu, bảy ngày không lật
Dà Dìn ăn là nuốt
Dà Vài ăn chẳng nuốt
Ăn như cò mổ, mổ ba lần mới nghỉ
Rỉa ba lần nó nuốt nó đi
Sjay động đến mới thức
Sjay chạm đến mới tỉnh
Bà cựa làm trời rung
Quẳng tay thành trời chớp
Dà Dìn có chiếc gậy
Chỉ gốc muôn vật chết
Chỉ ngọn liền sống lại
Gậy này đi dâng lễ mới an
Gậy này lên dâng lễ mới lọt
Con Pựt vào cửa trước
Bà lủi ra cửa sau
Con Pựt vào cửa sau
Bà loằng quằng cửa trước
Trộm được dậy Dà Dìn qua phai
Vớ được gậy Dà Vài vượt sông
Dà Dìn ơ… hãy lấy hai ống bắng khoác cổ
Hai cái vò treo khoeo!
Nước ơi… cạn! Cạn! Cho Dà Dìn qua phai
Cạn…Cạn! Cho Dà Vài qua sông!
Nước trên phai liền rút
Nước lòng sông liền cạn
Dà Dìn hai ống bắng khoác cổ
Hai chiếc vò treo khoeo
Nước ơi…dâng! Dâng cho Dà Dìn chết
Dâng!...Dâng! Cho Dà Vài bỏ thân
Nước đầu sông ùa về
Nước mặt phai tràn tới
Dà Dìn ngã bỏ thân
Dà Vài hồn lìa các
Phần nào cuốn theo nước thành đỉa
Mảnh nào rơi trên cạn thành vắt
Đoạt được gậy Dà Dìn qua phai
Lấy được gậy Dà Vài qua sông
Trộm được gậy Dà Dìn hành lễ
Lấy được gậy Dà Vài nộp của.
Sau khi lấy được cây gậy, ra được cửa sông, đoàn quân mới dừng lại để chuẩn bị gọi “sa dạ sa dồng” chuyển lễ vật, bắt đầu công cuộc vượt biển đầy gian lao. Ra đến cửa biển, đoạn hát bắt đầu:
Con Pựt nhìn thấy đã nom thấy
Nhìn thấy chốn chửa biển nắng hồng
Nom thấy chốn bến than cuồn cuộn
Chốn này trăm cửa biển vể thônng
Đôi bên những núi cao lồng bóng
Nước biển đỏ như máu
Nước biển nóng như lửa
Nước giằng đi xé lại
Người phàm không biết sang
Trần tục không biết vượt
Ngựa ta vấp cửa biển phải dừng
Ngựa ta vấp bến than phải đứng
Dừng để gọi Dạ Sa qua than
Dừng để gọi Sa Dồng vượt biển
Dừng thôi ông thổ công
Dừng thôi ông công sào, thổ địa
Thổ công cưỡi ngựa bạch dừng chân
Công sào cưới ngựa trắng dừng lộ
Dừng thôi đôi người khiêng
Dừng ơ… đôi người gánh
Đôi Ải nhấc đòn khiêng khỏi vai
Các Giang nhấc đòn gánh khỏi cổ
Hai cô đeo áo vía dừng đường
Bốn nàng đeo áo via dừng lộ
Dừng ơ… bát gạo vía
Dừng thôi quả trứng mệnh
Hai cô sửa mâm hương dừng đường
Bốn nàng sửa mâm hoa dừng lộ
Dừng ơ… cô pha trà
Dừng thôi cô hầu rượu
Dừng thôi gốc Sjay già quản lễ
Dừng thôi quan nha môn quản của
Mười Sjay gốc cùng dừng
Chín Sjay cùng dừng lại tất cả
Đoàn đi trước đứng đợi
Số đi ngựa dừng quân
Cầm cương ngựa quay ngang
Cầm đầu yên dừng lại tất cả”
Ra tới cửa biển, câu chuyện tiếp tục với đoạn hát “Đốt vàng gọi sa dạ sa dồng” đi biển. “Khảm hải” (vượt biển) bắt đầu từ đây với những đoạn ca bất hủ kể về những cuộc đời và thân phận có thật trong đời sống xã hội tộc người:
Mo choòng liệc sa dạ sa dồng
Ngò liệc thâng sa dạ khảm thông
Ngò liệc thâng sa dồng khảm hải
Làu sjư đếch làu sjư
Làu sjư đếch làu sjó
Sjư mừa sa sa dạ khảm than
Sjư mừa liệc sa dồng khảm hải
Sa dạ dú pù thin liền khan
Sa dồng dú pù sung liền ngoạc
Khoái mà pây khảm hải hẩư quan
Khoái khoái mà khảm than hẩư sjay
Khoái khoái chuyển thu kháu bưởng soa
Khoái khoái chuyển thu khen thu kha bưởng soại
Sa dạ ơi sa dồng
Nhập hồn khảu pựt va khảm hải, lố nò!
Dịch nghĩa :
Đốt vàng gọi sa dạ sa dồng đi biển
Ta gọi đến sa dạ sang than
Ta gọi đến sa dồng vượt biển
Chữ tiếp chữ, lời tiếp lời
Giấy gọi tờ tiếp tờ
Chữ lên tìm sa dạ vượt than
Công hàm tìm sa dồng vượt biển
Sa dạ ở núi đá liền thưa
Sa dồng ở núi cao liền đáp
Mau về đi chèo thuyền vượt biển cho quan
Mau về khuân của sang lò than cho sjay
Mau mau nhập gối phải
Chuyển gối trái, hai tay
Sa dạ ơi sa dồng
Mau mau nhập hồn ta vượt biển…
Sau khi đã gọi ‘‘sa dạ sa dồng’’ đi biển, ‘‘sa dạ sa dồng’’ tự khái quát lên thân phận của mình với những nỗi cay đắng, cực nhục khôn tả xiết, ăn đói, mặc rách, nước mắt lúc nào cũng chảy hai hàng, đi làm việc cho quan không hẹn ngày trở lại, không mong gặp anh em. Đoạn hát giúp người nghe hình dung một cách chân thực nhất về thân phận nhân vật này:
À lới! Đét nàng ơi
Khôm lai đếch khôm lai
Khôm lai them khôm quả lố nò
Chiều lăng pền sa dạ khảm thông
Chiều lăng pền sa dồng khảm hải lố nò
Ngò hăn khôm ăn mính ngò lai
Ngò hăn khôm ăn thân ngò quả lố nò
Công pò mé sinh mà
Chiều lăng au nặm tha dào nả lố nò!
Vằn vằn pây khảm hải hẩư quan
Vằn vằn pây khảm than hẩư sjay lố nò
À lới! Đét nàng ới!
Mọi vằn dám kha pây
Chắc đảy mà là vạ
Chắc nhằng hăn pì noọng lụ đai
Chắc nhằng hăn pì chài rụ bấu, lố nò
Sửa khoá véng pín tao
Khừn vằn hác hộn háo đâư mỉnh, lố nò
Vằn vằn quan xa mà
Chèo lừa va khảm hải
Khỏ bấu thai chằng nhằng
Pó mé sinh hắt lăng pện nỏ
Vằn nạy quan tẻo xa
Vèo ngò mà khảm hải
Bấu kể cần bấu chắc
Bấu bắc mỉnh thâng cần bấu rụ lố nò
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Cay đắng lắm, cực nhục thay
Thân phận nỗi này, sống chết làm sao
Đời hoá thành Sa Dạ sang sông
Kiếp người làm Sa Dồng qua biển
Tôi thấy cay cho phận tôi lắm
Tôi thấy đắng cho phận tôi nhiều
Trời đất ơi, cha mẹ hỡi
Sinh con về nỗi khổ con mang
Lấy nước mắt rửa mặt
Đêm ngày chảy hai hàng
Ngày ngày đi chèo thuyền qua biển cho quan
Ngày ngày khuân của sang lò than cho Sjay
Mỗi ngày bước chân đi
Được trở về, may hoạ
Không mong quay về gặp anh em
Không tưởng được nom mặt anh cả
Quần áo rách lá đao
Đêm ngày bụng cồn cào đói lả
Ngày ngày, quan tìm về
Bắt chèo thuyền qua biển
Khổ không chết mới sống
Cha mẹ sinh ta để làm gì
Hôm nay, quan lại tìm
Gọi tôi về chèo thuyền qua biển
Không nói chẳng ai biết
Không tỏ, chẳng ai rõ thân tôi
Tiếp đó, câu chuyện bắt đầu kể về hai anh em trai nhà nọ sớm mồ côi cha mẹ, sống nghèo khổ nhưng hết mực yêu thương nhau:
À lới! Đét nàng ới!
Vằn cón soong pì noọng
Liệng căn đảy quá kéo cà dèng
Dịch nghĩa :
Ngày nọ, tôi có hai anh em
Như đôi chim tha mồi
Cùng kiếm củi lần hồi nuôi nhau
Thế nhưng sau khi người anh lấy vợ, trở nên giàu có thì bi kịch bắt đầu ập đến, anh sung sướng bao nhiêu thì em khổ cực bấy nhiêu nhưng anh vẫn bỏ mặc người em tội nghiệp, đói nghèo :
Pì chài au đảy mìa
Vằn vằn chắc kin dú hôn hỷ lố nò!
Nhằng noọng khỏ pền thai
Pì bấu dai bấu dử lô nò!
À lới! Đét nàng ới!
Dịch nghĩa:
Rồi anh lấy được vợ
Vun vén ngày càng giàu
Ngày ngày, anh sung sướng
Em khổ tưởng chết đi
Anh không hề nhòm ngó
Bỏ mặc em đói nghèo
Thấy người em chồng khổ cực, rách rưới, chị dâu thương tình, lén mang kim chỉ vá áo cho em:
Pây chèo lừa tặm đăm
Noọng mà thâng pác tu
Pì lùa noọng quảy xỏm tin suôn
Hăn noọng bặng dào dần khát quả lố nò!
Pì lùa tốc nặm tha
Mừng tốp khảu tuổng bá cạ noọng:
“Sjửa áo khát đúc lăng
Khửn lườn pí xa khêm phung hẩư”
Dịch nghĩa:
Đi chèo thuyền đến tối
Em về tới cổng nhà
Tưởng xót em đi xa lâu lại
Tưởng thương em, mong mỏi gặp nhau quý nhau
Chị dâu quấy cong chàm
Bên góc vườn, tay đen
Nom thấy em rách rưới
Chị thương em nước mắt ứa ra
Chị lại gần, khẽ bảo
Vừa nói, tay chỉ lưng áo em:
-“ Rách hết rồi
Lên nhà, chị lấy kim khâu lại, mau em”!
Thế nhưng, chẳng may bàn tay chị dâu đang nhuộm chàm đã in vết chàm đen lên lưng em, người anh về biết được đã ghen tức và giết em trai mình một cách tàn nhẫn:
Ngợ pì noọng điếp căn chắng dèng
Khâư chắc vằn lộm thân tả xác lố nò
Pì chài liền yếm hăn
Phả mừng xỏm đúc lăng noọng áo lố nò!
Pì phát sính bì bồm
Bấu tươn noọng khỏ khôm chập nả lố nò
Liền cạ: “ Nộc choóc kin khảu nua
Pì lùa chùa áo nhạu, lố nò!
À lới! Đét nàng ới!
Phăn phằn pí béc gươm lồng khả
Phăn phăn pí béc chạ lồng au
Hẳm thua noọng pây hỏi chai riềng
Au kha noọng pây khoen chai cọ lố nò!
À lới! Đét nàng ới!
Dịch nghĩa:
Không ngờ tay nhuộm chàm
Lưng em in dấu bàn tay chị
Ai ngờ dấu chàm đen
Anh làm em nên tội
Anh thấy bàn tay chàm
In trên lưng em chú
Anh giận dữ hằm hằm
Xa nhau nay gặp, chẳng chút lòng thương em
Rằng: “Chim sẻ ăn gạo nếp
Em chú tằng tịu với chị dâu”
Hằm hằm anh mang gươm đến chém
Chặt đầu em đem treo ngọn cọ
Chân em treo ở ngọn vông
Mâu thuẫn lúc này đã được nâng lên đến cực điểm và kết thúc rất bi thảm. Đó không còn chỉ là mối quan hệ anh em, mâu thuẫn anh em mà đó là quan hệ giai cấp, mâu thuẫn giai cấp, quan hệ giữa kẻ giàu với người nghèo, mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và bị trị trong xã hội cũ. Thân phận người em được khắc hoạ rất rõ nét, khi sống thì đói rách thảm thương, bị hắt hủi, không nơi nương tựa, khi chết cũng chưa hết khổ. Ở cõi âm, quan phủ lại bắt người em về làm ‘‘sa dạ sa dồng’’ (nô lệ chèo thuyền) cùng đoàn người vượt biển cõi âm, mang lễ vật lên công nạp cho vua Trời:
Vằn thai tằng mường phạ khảu chồm
Vằn thai tằng mường cần khảu dỏm
Noọng thai mừa mường phạ
Chắng biển pền sa dạ khảm thông
Chắng biển pền sa dồng khảm hải
Dịch nghĩa:
Em chết cả mường bản lại xem
Em chết cả mường người đến ngó
Hồn em bay trên không
Mới hoá thành sa dạ sang sông
Mới biến thành sa dồng qua biển
Bắt đầu từ đây, Khảm hải hiện lên cảnh ẩm phủ, cảnh vượt biển ma hung dữ cùng với số phận của ‘‘sa dạ sa dồng’’ trong cái khổ cực, gian nan ấy:
Vằn mừa bấu phén phục loòng đang
Vằn thai noọng kẻ càng chầy nò!
Thua nhằng hỏi chai riềng
Kha nhằng khoen chai cọ
Khôm lai đếch khôm lai
Khôm lai thêm khôm quả lố nò
Dịch nghĩa:
Ngày chết chẳng tấm chiếu bó thân
Ngày chết mang mình trần em đi
Đầu còn treo ngọn cọ
Chân còn treo ngọn vông
Trời đất…ơi, cha mẹ hỡi
Cay đắng lắm, cực nhục thay
Đúng là cái khổ chồng chất cái khổ, chết rồi mà vẫn khổ hơn khi sống khi phải làm thân nô lệ chèo thuyền phục vụ quan:
Thai pây ngợ cạ soác mỉnh thân
Quan tẻo pắt mà thâng hắt tở lố nò
Vằn vằn pây khảm hải hẩư quan
Vằn vằn pây khảm than hẩư sjay, lố nò
Dịch nghĩa:
Ngỡ chết đi là đời được yên
Lại bị quan bắt về làm tớ
Ngày ngày đi chèo thuyền vượt biển cho quan
Ngày ngày khuân của sang lò than cho sjay
Cái đói, cái khổ của thân phận nô lệ chèo thuyền vượt biển được khắc hoạ rõ nét trong lời hát:
À lới! Đét nàng ới!
Khảu bấu nhằng sắc boóc sắc chang
Au lăng pây kin tàng khảm hải
Mìa ngò nhằng bâư yểm đâư đang
Au pây tối đảy sắc boóc sắc chang
Sắc boóc vạy hung hang
Sắc chang vạy pây tàng khảm hải lố nò
À lới! Đét nàng ơi!
Mình ngò pây khảm hải chắng an
Mình ngò pây khảm than chắng mát lố nò!
Vằn lảu sjay chắng xa
Vằn trà sjay chắng liệc lố nò!
Au pẻng đeéc ăn đây
Au pẻng dày ăn miạc
Au lừa bióoc pù va
Pất cáy thêm phòng sa lừa ngần
Mừa chầu sjay mường nưa
Khôm lai tởi chèo lừa khảm hải, lố nò!
Dịch nghĩa:
Gạo chẳng còn đầy ống
Lấy gì để ăn đường qua biển
Vợ chỉ còn chiếc yếm che thân
Cởi trao mang theo đường đổi gạo
Được ống để nấu ăn
Nửa ống để dành phần vượt biển
Chao ơi! Trời đất ơi!
Thân tôi đi vượt biển mới an
Mệnh mình phải chèo thuyền mới mát
Việc lớn Sjay mới tìm
Ngày khó Sjay mới gọi
Mang pẻng đéc cỗ đẹp
Mang bánh giã tròn xinh
Đun đẩy thuyền đầy hoa
Thuyền vàng, bạc, vịt gà… bắt phải chèo đi
Đi hầu chúa bên trên
Cống quan Sjay mường trời
Cay đắng lắm, làm người chèo thuyền qua biển
Cay đắng, khổ sở là thế nhưng vẫn phải ra đi mà còn ra đi nhưng không hẹn ngày trở lại, không biết bao giờ được đoàn tụ, đành để lại lời nhắn với anh em họ hàng, với gia đình vợ con:
À lới! Đét nàng ới!
Vằn pây chắc đảy tẻo rụ đai
Sắng mọi cần dú lăng mát mẻ lố nò
Vằn vằn pây khảm hải nàn mà
Mạy sum cắp mạy sa oóc lèng
À lới! Đét nàng ới!
Mừa hâư chắng đảy quản dảo lườn
Mừa hâư chắng đảy tươn mìa lục
Cỏi dú nớ cỏi dú
Cỏi dủ nở tằng pú đẳm luông
Cỏi dú nớ tằng mường đẳm táng
Cỏi dủ nớ ăn lườn sjí coóc
Cỏi dú nớ ăn đoóc sjí sâu
Còi dú nớ pình ohày sjí chím
Cỏi dú nớ cạu phừn soong sảng
Còi dú nờ ăn mỏ pác phiêng
Cỏi dú nớ ăn kiềng sam lịn
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Hôm nay đi có còn trở lại hay không
Xin chào nhắn anh em ở lại mát mẻ
Đời người đi vượt biển khó về
Không nhìn thấy cây sum cây sa ra quả
Bao giờ được vun vén cửa nhà
Lúc nào được bế con cùng vợ
Hãy ở nhé, xin chào, ở nhé
Ở lại nhé, ông tổ nhà
Ở lại nhé, ông tổ nội
Ở lại nhé, bốn cột bảy kèo
Ở lại nhé, cái nhà bốn góc
Ở lại nhé, cây củi đương hồng
Ở lại nhé, khuôn bếp bốn thanh
Ở lại nhé, cái nồi miệng bằng
Ở lại nhé, cái kiềng ba lưỡi
Trong nhà đã dặn, ngoài ngõ cũng nấn ná chia tay:
Chuyển oóc thâng pác tu
Tằng mọi dường cỏi dú hẩư an
Còi dú nớ pài hà bưởng noọc
Cỏi dú nớ khót thoóc bưởng đâư
Còi dú nờ noọng chắng mà vằn ngoà
Cỏi dú nớ a chắng mà vằn cón
Cỏi dú nờ chất chỏ tu ải
Cỏi dú nớ ngọ tài tu mòn
Cỏi dú nớ ăn sích mạy bay
Cỏi dú nớ ăn đây mạy viền
À lới! Đét nàng ới!
Ăn đây sam vằn hắt
Ăn đây chất vằn tó
Chắng pền ló khửn lồng
Chắng pền tàng pì noọng pây tèo
Dịch nghĩa:
Ta bước chân ra cửa
Nhắn mọi thứ đằng sau hãy ở cho yên
Ở lại nhé, mái cọ bên ngoài che dột
Ở lại nhé, sợi lạt buộc chắc bên trong
Ở lại nhé, em mới đến hôm qua
Ở lại nhé, em mới về hôm trước
Ở lại nhé, tổ bảy đời đại môn
Ở lại nhé, quanh năm đòi canh cửa
Ở lại nhé, sàn ghép gỗ bay
Ở lại nhé, thang cây gỗ viền
Chiếc thang ba ngày làm
Cầu thang bảy ngày đóng
Mới thành lối đi lại
Mới thành lối anh em lên xuống
Đúng là một sự ra đi đầy hiểm nguy rình rập, không biết liệu mình có được quay về nữa không nên đi đến đâu cũng thấy nhớ, nhìn thấy gì cũng thấy thương, chỗ nào cùng thấy gắn bó, yêu thương:
À lới! Đét nang ới!
Dám lồng tháng tài ất
Mừng sjoại ủm lục ỷ thả rà
Mừng soa ủm lục va thả ngò
Chuyển lồng tháng tải soong
Mầư còi ngòi lục ỷ thả rà
Mầư cói ngòi lục va thả ngò lố nò
Dám lồng tháng tải sam
Cỏi dú nớ noọng nhí tằng lai
Cỏi dú nớ noọng chài tằng bản
Dám lồng tháng tài sjí
Cỏi dú nớ bác pả tằng lai
Cỏi dú nớ pì chài tằng mường lố nò
Chuyển lồng tháng tài hả
Cỏi dú nờ bàn khoả tằng lai
Cỏi dú nớ bạn tồng tằng mường lố nò
Chuyển lồng tháng tải hốc
Còi dú nờ pất cáy tẩư cai
Cỏi dú nớ mò vài tẩư làng
Chuyển lồng tháng tài chất
Còi dù nờ tằng sam mặt đí
Cỏi dú nớ tằng sjí mặt đin
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Bước xuống bậc thứ nhất
Tay trái bế con nhỏ đợi chồng
Tay phải ôm con thơ còn dại
Chuyển xuống bậc thứ hai
Mình hãy trông con nhỏ đợi chồng
Mình hãy bế con thơ quay lại
Bước xuống bậc thứ ba
Ở lại nhé, gái nhỏ cả mường
Ở lại nhé, trai tơ cả bản
Chuyển xuống bậc thứ tư
Ở lại nhé, bác bá cả mường
Ở lại nhé, các anh của bản
Chuyển xuống bậc thứ năm
Ở lại nhé, bè bạn khắp mường
Ở lại nhé, bạn bè trong bản
Chuyển xuống bậc thứ sáu
Ở lại nhé, gà vịt dưới sàn
Ở lại nhé, trâu bò dưới bãi
Chuyển xuống bậc thứ bẩy
Ở lại nhé, ba tấc đất chôn nhau
Ở lại nhé, miếng đất bằng ta đứng
Nhắn lại tất cả, gửi lại tất cả để ra đi nhưng ‘‘sa dạ sa dồng’’ vẫn không ngừng than thân trách phận cho số kiếp cực khổ:
Mình ngò khỏ pền thai
Tẩư làng bấu mặt nhù
Pác tu bấu mặt kép
Vằn pây chắc đảy tẻo rụ đai
Lườn cần dú bưởng lăng mát mẻ, lố nò!
Dịch nghĩa:
Thân tôi khổ đến chết
Dưới bãi chẳng sợi rơm
Cổng vườn chẳng vỏ trấu
Ngày đi được trở về may hoạ
Nhắn nhà người ở lại mát mẻ đằng sau
Đoạn đường gian nan, từ biệt gia đình, bản làng để ra đi bắt đầu hiện lên, từ nhà ra đến cổng, từ cổng xuống đến đồng, rồi từ đồng ra biển lớn mênh mông:
À lới! Đét nàng ới!
Chuyển oóc thâng cum tù
Qúa pác tu dí dèng
Lồng thang nà dí dọi
Óóc pác hải dí dường
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Ta bước khỏi mái nhà
Ta chuyển qua cổng lớn
Xuống cuối đồng dùng dằng
Ra cửa biển mênh mông
Ra đến biển là hình ảnh của thuyền, của biển hiện ra với đầy những khó khăn, nguy hiểm cùng với đó là tâm trạng của ‘‘sa dạ sa dồng’’:
À lới! Đét nàng ới!
Nặm hải đeng pền lượt
Năm hải đướt pền phầy
Hắt rừ đây ca nò!
Quân quan dặng pắc hải lý lường
Binh mạ dú pé luông chắc chạy
Lừa ơi! Pây tỷ hâư
Hẩư ngò thả khát châư pện nò
À lới! Đét nàng ới!
Lừa sjay pây puốn bióoc sằng mà
Lừa sjay pây puốn va sằng tẻo
Pé quảng lắc quảng lý
Năm pắn pí sjí phừn
Nặm phoòng tứn lai kha
Mưa hâư lừa chắng mà lố nò
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Nước biển đỏ như máu
Nước biển nóng như lửa
Làm sao được bây giờ
Quân quan đứng cửa biển chói hồng
Binh mã đừng theo hàng sửng sốt
-“ Thuyền ơi, thuyền đi đâu
Để tôi đợi ruột rầu nát tan”
Ôi thôi! Đất thấp hỡi trời cao
Thuyền Sjay đi buôn hoa chưa về
Thuyền quan đi buôn quả chưa lại
Biển rộng lắc rộng lơ
Nước xoáy lao nhiều luồng
Bao giờ thuyền trở lại, thuyền ơi
Đoạn ca tiếp nói lên sự hung dữ của biển cả mênh mông, sự lênh đênh, gian khổ của những thân phận nô lệ chèo thuyền, đồng thời khắc hoạ sự mong manh giữa cái sống và chết:
À lới! Đét nàng ới!
Nặm nhì nhược tò pây
Nặm hải luây tò tèo
Nặm hải đeng pền lượt
Nặm hải đướt pền phầy
Hắt rừ đây hợi mỉnh lố nò
Dịch nghĩa:
Ôi chao, nước hỡi biển trời
Nước “ bì bời” giằng đi
Nước gầm xô vật lại
Nước biển đỏ như máu
Nước biển nóng như lửa
Biết làm sao thân hỡi
Nước đừng kéo lấy tôi, nước nhé
Biết là gian nan, khổ cực là vậy nhưng thuyền tới là phải đi:
À lới! Đét nàng ới!
Lừa sjay pây puốn bióoc ngám mà
Lừa sjay pây puốn va ngám tèo
Mà làu lồng pác hải lồng lừa
Mà làu ham au cúa lồng tảng lố nò!
Dịch nghĩa:
A! Thuyền kia đã về rồi
Thuyền Sjay đi buôn hoa đã về
Thuyền quan đi buôn quả đã lại
Về, ta xuống cửa biển giập giờn
Về, ta khiêng của Sjay xuống tảng
Hiểm nguy không thể tránh khỏi, đường đi vẫn phải đi, ‘‘sa dạ sa dồng’’ tự an ủi, động viên mình vượt qua sóng gió trùng khơi:
Dá lao lăng hợi mính
Dá lao lăng nặm phựn dá lao
Dú bốc bấu kin nguộn mất mính
Bấu kin nguộn tằng kính mất thân
Nặm tốc tát dá lo
Nặm fòng ba dá động lố nò
Dịch nghĩa:
Đừng sợ gì, ta hỡi
Đừng lo gì nước xoáy nước lật, đừng sợ
Ở cạn ta đã không ăn nguộn bỏ thân
Ta đã không ăn nguộn cả cành bỏ xác
Nước dậy thác chớ lo
Nước phong ba “ nàng hương” đừng sợ
Hàng loạt các lễ vật dâng lên quan nhà Trời được các nô lệ chuyển lên thuyền, chuẩn bị vượt biển:
Mà làu ngoày hua lừa oóc bốc
Tốc hua lừa oóc phắng
Lồngg lừa mời thâng pú thổ công
Lồng lố ông công sào thổ tỳ
Thổ tỳ khuý mạ pẹc lồng lừa
Công sào khuý mạ khao lồng tảng
Lồng lố tối pò ải thư tham
Lồng lố tối mường giang thư tháp
Lồng lố pát khảu khoăn
Lồng lố ăn kháy mỉnh
Lồng lố quan tang chế cảo pang
Lồng lố quan nha môn cáo cúa
Lồng lố soong noọng bióoc seo la
Lồng lố soong noọng á seo sjay
Mời nàng nẳng lừa bióoc hẩư an
Mời nàng nẳng lừa va hẩư định
Chèo pây lố chèo pây
Dịch nghĩa:
Về ta kéo đầu thuyền khỏi cạn
Dắt con thuyền ra bến
Xuống thuyền mời đến ông thổ công
Xuống thôi mời đến ông công thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch xuống thuyền
Công sào phóng ngựa trắng xuống tảng
Xuống thôi đôi trai ải vai khiêng
Xuống thôi các trai giang vai gánh
Xuống thôi bát gạo vía
Xuống thôi quả trứng mệnh
Xuống thôi quan Sjay già quản lễ
Xuống thôi quan nha môn quản của
Xuống thôi hai nàng hương
Xuống thôi hai cô nàng hầu Sjay
Mời em xuống ngồi thuyền cho yên
Mời em ngồi tảng bióoc cho vững
Chèo đi thôi, chèo đi
Đã ra đi, lênh đênh trên biển khỏi, các nô lệ chèo thuyền chảng còn biết làm gì ngoài cầu may cho minh được bình an trở về:
Óoc phắng hải nặm luây tó tèo
À lới! Đét nàng ới!
Cụm lừa pây hẩư an
Dá hẩư lừa đúng đính pan khoang
Cụm cùa pây hẩư an thâng tỳ ca nò!
Dịch nghĩa:
Ra cửa biển, nước xô đuổi lại
Hãy thương tôi, đất hỡi trời ơi
Phù hộ cho thuyền đi bình yên
Đừng để thuyền lật ngang chìm người
Đừng để thuyền tròng trành ngả ngiêng
Phù hộ cho thuyền tôi sang bên kia bờ
Lúc này, đoàn người phải vượt qua mười hai rán nước, với nguy hiểm ngày càng nhiều, sự sống ngày cang mong manh hơn. Ở hai rán nước đầu tiên, họ đã phải chống chọi với các loại cá độc hung dữ, nước to, sóng lớn luôn làm con thuyền chao đảo. Các ‘‘sa dạ sa dồng’’ phải gắng sức lắm mới có thể vượt qua:
Rán đầu tiên :
Chèo oóc giàn tài ất
Hăn pia tất kết băng
Pia phặt thang bì bồm
Nặm khửn sung cợ fạ
Dịch nghĩa:
Chèo ra rán thứ nhất
Thấy cá tất vảy mỏng
Đuôi quật búng nước sôi
Nước bắn lên lưng trời
Rán thứ hai:
Chèo pây giàn tải soong
Hăn pia mjàng kết sáy
Pia kẻo pây pền sá
Nặm phòng ba tỳ từn
Nặm phựn khửn nhí nhắng
Mọi cần nẳng hẩư đây dá động
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ hai
Thấy cá miàng vẩy nhỏ
Cá từng lũ kéo đi
Nước ầm ỳ lắc lư
Nước sôi to phùn phụt
Mọi người ngồi cho vững đừng run
Ở rán thứ ba, mối nguy hiểm đã tăng lên với cảnh thuồng luồng nổi cơn thịnh nộ, nước biển đã trở thành biển máu, các ‘‘sa dạ sa dồng’’ kinh hoàng, chỉ còn biết hối thúc mình mau vượt quan sóng gió:
Chèo pây giàn tải sam
Hăn mì ngược hò sjáy kin cần
Nặm sì sùm fòng đeng
Khoái khoái làu chèo pây hẩư khói
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ ba
Thuồng luồng nổi phong ba ăn người
Nước trồi lên như máu
Ta chèo mau vượt khỏi nơi này
Đến rán thứ tư, mọi thứ có về hiền hoà hơn, ta đã nghe tiếng gà gáy, nước biển chỉ còn vỗ ầm ì, sự sống dường như đã hiện ra:
Chèo thâng giàn tài sjí
Đảy nhìn cáy thủ thí khăn tàn
Đảy nhìn cáy dương gian khăn rọn
Nặm pé coỏng nhí nhắng
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ tư
Nghe tiếng gà dương thế gáy ran
Nghe tiếng gà dương gian gáy rộn
Nước biển vỗ ầm ỳ
Sang rán thứ năm, tiếng gà mường Trời đã rõ hơn như thúc giục các ‘‘sa dạ sa dồng’’ mau mau tới đích:
Chèo pây giàn tài hả
Đảy hăn cáy mường fạ khăn sung
Đảy hăn cáy mường bân khăn dặng
Chèo pây dá đảy chắng tó tèo ca nờ!
Dịch nghĩa :
Chèo đi rán thứ năm
Nghe tiếng gà mường trời gáy cao
Nghe tiếng gà mường thiên hỗn độn
Chèo đi, đừng nấn ná nơi này
Tưởng được bình an nhưng không đó chỉ như một bước chuẩn bị để đón nhận sự nguy hiểm mới mà rán thứ sáu đang chờ đợi:
Chèo pây giàn tài hốc
Hăn mì nặm lài sáy mòng mu
Chèo pây lố chèo pây
Mọi cần căm cốc chèo hẩư mắn
Nặm tốc tát dá lo
Nặm fòng ba dá động
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ sáu
Thấy nước vằn mông mốc
Xé nhau đục vật vờ
Chèo đi thôi,chèo đi
Mọi người cầm cán dầm cho vững
Nước cuộn thác chớ lo
Biển nổi bão phong ba đừng run đừng sợ
Tới rán thứ bảy thì biển ác, quỷ dữ xuất hiện bủa vây, đe doạ tính mạng, họ phải tự cứu lấy mình bằng cách mang vàng, bạc, châu báu ra chuộc hòng thoát thân:
Chèo pây giàn tài chất
Nặm fòng lu ác quả
Tỳ nạy mì ngọ chỉ te phống
Tý nạy mì ngọ lồm té kéo
Khoái khoái au ngần chỉa lồng loòng
Khoái khoái au nhàu làng thể mình
Đảy ngần cỏi pà thân
Đảy chèn cỏi hẩư thôi ca nờ!
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ bảy
Nước ào kéo ầm ầm
Nơi đây có ngọ quỷ chặn đường
Nơi đay có ngọ lồm bủa vây
Chực ăn người đi biển
Chực nuốt mảng nuốt thuyền
Mau mau lên lấy tiền ra thế
Đem vàng bạc ra lễ chuộc thân
Có bạc mới được qua
Vừa thoát khỏi hiểm nguy, sang rán thứ tám, đoàn người lại gặp sức nước xoáy dữ ầm ầm, ào ào:
Chèo pây giàn tài pét
Nặm pắn pí cợ dảo
Nặm hộn háo fòng ba
Nặm tốc lồng Long Vương
Khoái khoái chèo lừa pây hẩư khảm lố nò!
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ tám
Nước đổ xuống ầm ầm
To hơn bịch đựng lúa
Nước xoáy dữ ào ào
Nước thét gào kéo xuống Long Vương
Nhanh nhanh tay chèo qua vượt khỏi
Vừa ra khỏi vực sâu của chốn Long Vương, ở rán thứu chín, sức mạnh của những cột nước còn hung dữ hơn nhiều, nước như nuốt chửng đoàn người, như lôi lấy thuyền, những người nô lệ chèo thuyền chỉ còn biết kêu xin biển cả mênh mông đừng giết chết mình:
Chèo pây giàn tải cảu
Nặm khửn sung cợ fạ
Nặm fòng ba rì rồm
Pé ơi, dá đảy khả ngò nờ
Dá hẩư lừa đúng đính pan khoang
Dá hẩư lừa tốc chang nả pé a nờ!
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ chín
Trông thấy nước dựng đứng chấm trời
Khắp mặt biển nước sôi gầm réo
Biển ơi, đừng giết tôi
Nước hỡi, nước đừng lôi lấy thuyền
Đừng cho tôi bỏ thân chốn này, biển hỡi
Qua rồi, ta chèo đi
Qua được rán thứ chín, tiếng hát của ‘‘sa dạ sa dồng’’ đã trở nên thanh thản, nhẹ nhàng, tâm trạng trở nên vui vẻ, phấn chấn hơn, tay chèo khoẻ mạnh, đều đặn hơn, niềm vui sống tăng lên, nỗi sợ hãi tan dần:
Chèo pây giàn tài slíp
Nặm phân phất bên pay
Bặng lừa khay sjí coóc
Giàn tốc giàn dí dòng
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ mười
Thuyền lướt theo nước trời băng băng
Cán rầm tung bốn góc
Rán lại rán bay đi
Sang rán thứ mười một, dường như biển không còn đủ sức đe doạ đoàn người nữa, thuyền vẫn hướng về phía trước, với niềm vui, niềm tin và hy vọng tới đích của các ‘‘sa dạ sa dồng’’:
Chèo pây giàn sjíp ất
Fòng tốc fòng chắc chạy
Nặm tẹp mà tốc lăng
Chèo khoái lố chèo pây
Hẩư lừa làu thâng phắng cỏi an
Chèo hẩư thâng đon sài còi tổ lố nờ!
Dịch nghĩa:
Chèo đến rán mười một
Sóng đuổi sóng xô đi
Nước đuổi về sau lưng
Chèo mau lên chèo cố
Cho thuyền đến cửa biển ta dừng
Cho thuyền đỗ bãi cát vàng bình an
Chèo đến rán thứ mười hai, niềm tin, hy vọng đó đã trở thành hiện thực với tiếng reo vui duy nhất của cả trường thơ:
Chèo thâng giàn sjíp soong
Chèo khoái lố chèo khoái
Chèo đếch dớ chèo báo
Dịch nghĩa:
Chèo đến rán mười hai
A! Bờ biển kia rồi
Ta chèo mau lên thôi
Sau đó là cảnh thuyền cập bờ, lời ca lúc này như có phần an ủi, vỗ về, sai khiến nhưng lại rất trìu mến, thân mật của quan quân xứ âm. Ta nghe như thân phận của ‘‘sa dạ sa dồng’’ sắp được sung, sắp hết nỗi gian truân, khổ cực:
Chèo đếch mà ngò páo
Chèo báo mà ngò son:
“Khoái lố! Ngoáy hua lừa khảu bốc
Tốc hua lừa khảu phắng
Chèo lừa khảu đon sác bửa chai
Chèo lừa khảu đon sjài bửa loạn”
“Mời nàng hương soong a
Mời noọng còi pù bióoc khửn la
Mời a còi pù va sjeo sjay”
Dịch nghĩa:
Chèo mau lên, hỡi người trai trẻ
Trai trẻ hãy lắng tai
Trai trẻ nghe tôi bảo
Lại đây nghe tôi dạy
“ Mau lên ta kéo thuyền vào cạn
Cùng lôi tảng vào bến
Kéo thuyền vào bãi cát chói hồng
Kéo thuyền vào bãi bướm vàng vờn bay”
“ Mời nàng hương hai cô
Mời em hãy ôm hoa lên bến
Mời nàng hãy ôm hương hầu Sjay”
Cảnh tượng cập bến thật đông vui, tấp nập, người nói, người mời, người ôm hoa, ôm hương, gánh gồng tấp nập, rầm rập lên bến, ra thuyền:
Quân quan khửn făn fi
Mè nhình là căm chúp oóc lừa
Pò chài là căm ô oóc tảng
Ham háp khửn nhí nhắng sjeo sjay
Cúa miạc háp au pây hẩư cần lố nò!
Dịch nghĩa:
Quan quân lên bời bời
Đàn bà là cầm nón ra thuyền
Đàn ông là cầm ô lên bến
Tay trái xách giày hoa ra tảng
Tay phải xách giày đẹp lên bờ
Gánh gồng lên rầm rập theo Sjay
Bao của quý khiêng đi lễ người
Đó là cảnh sống giàu sang, sung túc của các quan âm phủ, họ có người phục dịch, có của cải đầy vơi nhưng thân phận ‘‘sa dạ sa dồng’’ khi đã chèo thuyện vượt qua biển dữ cập bến thì chẳng ai đoái hoài, lại một mình ngồi trơ bên bờ biển ngắm đường về nước cuốn gầm rung:
Sjíp soong giàn khảm quá
Chắng chắc thân sa dạ đảy nhằng
Chắng chắc thân sa dồng đảy sổng lố nò!
Binh mạ sjay nhì nhằng
Kẻo khảu chợ Đường Chu
Nhằng ngò dú bưởng lăng
Nẳng nả pé viến khoăn viến mỉnh lố nò!
Khôm lai tởi sa dạ khảm thông
Khôm lai tởi sa dồng khảm hải.
Dịch nghĩa:
Mười hai rán qua rồi
Bây giờ mới biết tôi sống sót
Binh mã Sjay rầm rập
Kéo vào chợ Đường Chu
Sau lưng trơ lại tôi
Ngồi bên bờ biển đất trời mênh mông
Tự than thân trách phận
Cay đắng lắm đời Sa Dạ Sa Dồng
Chèo thuyền qua lò than, qua biển
Nhìn đường về, nước cuốn gầm rung.
Sau khi qua cơn vượt biển vô cùng gian nan, dâng được lễ vật lên cõi trên, đoàn người vào chợ Đường Chu để mua sắm các lễ vật, phục vụ cho việc giải hạn. Thầy Bụt tiếp tục ca:
Con thỉnh Sjay gốc đàn
Cháu thỉnh quan đầu ghế
Thỉnh đến quan xuống nước không trôi
Quan vào lửa không cháy
Người tài bận việc khác
Người đẹp thì về xuôi
Mỗi mình con đi bản
Con trẻ mới tập nói
Trai trẻ mới tập lời
Câu được lại câu chăng
Phép không tới cha giúp
Chữ chưa lọt cha sửa
Tứ linh quay về nhập con quan
Tứ linh quay về nhập con hoa
Nhà Sjay qua biển cả đã thông
Nhà Sjay vượt bến than đã lọt
Gà vỗ cánh trong chuồng
Gốc Sjay già nộp lễ
Vịt vỗ cánh trong quây
Quan nha môn nộp của
Sjay ta lên tận nhà
Nhà Sjay chiếu thấy ta dọi thấy
Nhìn thấy đôi cầu sắt trên trời
Nhìn thấy đôi cầu bạc lưng không
Nhìn thấy chốn khảo sát tình yêu
Nom thấy nơi vật cấn gái trai
Những ai có tình yêu
Sang cầu Kiều mới được
Ai không có tình yêu
Ngồi cầu Kiều thui thủi
Gà con có mấy lông
Người yêu có mấy chàng
Gà con có mấy đực tốt lông
Người yêu có mấy chàng tài giỏi
Trời nào trời không sao
Gái nào gái không trai
Thiếu gì gái ôm gối một mình
Thiếu gì người chưa có người yêu
Ngồi cầu Kiều vò võ
Ai có được người yêu
Sang cầu Kiều mới được
Em nàng hương theo ta
Các nàng hương mang mâm hoa theo Sjay
Gà con có mấy con
Gà con có mấy đực tốt lông
Hỡi em có mấy chàng trai đẹp
Trời nào trời không sao
Gái nào gái không trai
Người nào có người yêu
Sang cầu Kiều mới được
Thiếu gì người chưa có người yêu
Ngồi cầu kiều đơn chiếc
Ba mươi sáu chước
Tám mươi hơn mưu
Một chước dù chết Sjay phóng qua
Chảo dầu sôi sùng sục
Vạc dầu lửa đùngđùng
Chảo sôi không người đảo
Vạc đun chẳng người lấy
Phóng ngựa lên đầu chợ Đường Chu
Thuyền bay, mảng phóng là con Pựt
Chốn Đường Chu làm dễ
Cơm đường Chu ăn ngon
Lửa Đường Chu sưởi ấm
Củi không nhóm khác hồng
Lửa không thổi khác cháy
Thiếu gì gái không chồng có con
Đồng tiền dăm ba bảy con lợn
Nơi này quả phong lưu khác lạ
Lạt bụng rơi xuống nước thành cá
Dặm gianh rơi xuống nước thành thóc
Chốn Đường Chu làm dễ
Xứ Đường Chu ăn ngon
Lửa Đường Chu sưởi ấm
Phóng ngựa vào giữa chợ Đường Chu
Như mảng bay nhà Pựt
Đến hàng ông bán sắt mặt đen
Ông bán vó mặt rỗ
Ông bán dao mỏng môi
Người bán dùi miệng tròn
Anh bán nồi miệng bằng
Người bán kiềng mặt vênh
Quay sang chỗ hàng vịt, hàng gà
Qua hàng lợn, hàng ngỗng, hàng ngan
Chuyển lên chỗ hàng lụa, hàng là
Sang hàng vải, hàng vóc
Chuyển đến hàng áo hoa trăm vẻ
Áo hồng tươi nghìn màu
Tuyển lấy áo hoa đẹp
Chọn lấy hoa nặng chùm
Tuyển lấy hoa trĩu cành
Phi ngựa ra khỏi chợ Đường Chu
Lướt thuyền qua đuôi hổ nhà Bụt
Lên đến mường hai em quản hoa
Mười hai nàng mẹ sinh
Mẹ nào được chia hoa xuống trần
Nàng nào được chia hoa xuống thế
Theo Sjay lên nhà lớn lĩnh rượu
Lên đến mẹ Hoàng ca
Lên đến nàng Hoàng đế
Có phải nàng chia hoa xuống trần
Có phải nàng sẻ hoa tới nhà
Theo Sjay lên lầu cả lĩnh trà
Theo quan lên nhà lớn lĩnh hoa lĩnh rượu
Lên đến mẹ Xích ca
Lên đến nàng Xích đế
Có phải mẹ ban hoa xuống nhà
Trao hoa xuống gia đình này chăng?
Theo Sjay về nhà cả lĩnh trà
Theo quan lên nhà lớn lĩnh hoa nhận rượu
Lên đến mẹ Thánh ca
Lên đến nàng Thánh đế
Bà có được chia hoa xuống trần
Nàng có được chia hoa xuống thế
Theo Sjay lên lầu lớn lĩnh trà
Theo quan lên lầu cả lĩnh hoa lĩnh rượu
Lên đến mẹ Hắc ca
Lên đến nàng Hắc đế
Mẹ này được chia hoa xuống nhà
Có phải nàng trao hoa xuống thế?
Theo Sjay lên nhà lớn lĩnh trà
Theo quan tới lầu cả lĩnh hoa nhận rượu
Lên đến mẹ Bach ca
Lên đến nàng Bạch đế
Có phải mẹ chia hoa xuống nhà
Phải chăng nàng chia hoa đến cửa
Theo Sjay lên lầu cả lĩnh trà
Theo quan lên nhà lớn lĩnh hoa lĩnh rượu
Chuyển lên bà dệt vải che mắt
Chuyển lên bà dệt chăn che mặt
Bà này đừng gieo hoa xuống thế
Bà này chớ chia hoa xuống nhà
Bà này trao chỗ khác
Sinh người sinh khác nơi
Chuyển lên mẹ thuyền hoa
Lên llên nàng trôi mảng
Mẹ này khéo gieo hoa xuống trần
Nàng này khéo chia hoa xuống thế
Theo Sjay lên nhà cả lĩnh trà
Theo quan lên lầu lớn lĩnh hoa nhận rượu
Lên đến mẹ lầu hoa
Lên tới nàng lầu thử
Đến tới mẹ lầu hoa
Bước sang nàng mụ chéo
Mẹ nào được trao hoa xuống nhà
Cô nào nào được ban hoa đến cửa
Theo Sjay tới lầu cả nhận trà
Theo quan lên lầu lớn lĩnh hoa nhận rượu
Giờ đây hoa đầy gian mẹ trông
Hoa đầy nhà mẹ nom mẹ giữ
Có cả áo lắm sắc nhiều vẻ
Hoa hồng sắc nhiều màu
Áo lắm hoa dâng mẹ
Trời hửng mẹ đem phơi
Trời nắng mẹ ra trông
Hoa dâng mẹ đầy nhà
Trà cùng rượu đầy điện.
Sau khi vào chợ mua sắm đầy đủ lễ vật, công việc giải hạn bắt đầu để cầu mong cho tai qua nạn khỏi, gia đình mạnh khoẻ, đầm ấm yên vui. Thầy hát:
Hương thơm con lên tìm
Hương hoa con lên thỉnh
Con thỉnh mười gốc thánh
Thỉnh tới chín gốc Sjay
Thỉnh đến Sjay xuống nước không trôi
Thỉnh đến quan vào lửa không cháy
Thỉnh đến thánh đầu ghế
Trình Sjay ngồi bàn thờ
Thỉnh Sjay không một lời nào giấu
Trình quan không một câu gì giữ
Mời Sjay xuống trần thế giải vận
Mời Sjay xuống gia đình giải hạn
Kể có sinh có mệnh
Nơi có gốc có cành
Kể về nơi gốc tích gia đình
Sư tổ sinh hoàng gia là kể
Kể về nơi ông tổ gốc nhà
Bà gốc chủ gia đình
Sáu chục tuổi sợ vận
Hơn sáu chục tuổi lo hạn
Sợ hạn- hoa lần tới
Sợ vận hoa xuống tìm
Bồ câu sợ chết đói
Bạch hạc sợ chết khô
Lo căng rừng chết đói
Trần thế dựng bịch thóc lên bù
Dựng bịch muối lên nộp
Có cầu sắt lên bắc
Cả cầu đồng lên đóng
Cả gốc tre lên trồng
Cả chuối con lên trồng
Chuối lên trồng đất tốt
Tre đem trồng đất mát đất lành
Nhà nhiều sinh nhiều số
Có nhiều gốc nhiều cành
Có sinh con nhiều lứa
Có sinh cháu nhiều bề
Có con trai trong nhà
Có nàng dâu trong buồng
Hơn bốn mươi sợ nạn tai
Ngoài bốn mươi lo hạn
Sợ vận hoa lần tới
Lo hạn hoa đến tìm
Chúng sinh có nhiều con nhiều số
Sinh nhiều mệnh nhiều cành
Thiên cổ tạo bồ thiên
Mường thiên tạo giữa trời
Mẹ hoa có chia hoa xuống nhà
Mẹ hoa có trao hoa đến cho
Cả hai áo hai thân
Hai ba người anh em
Mười mấy sợ có tai
Hơn hai mươi lo hạn
Đông- Tây- Nam- Bắc cả bốn phương ta giải
Cả năm lành chảy suốt
Cả đời toàn gặp may
Cái đau không xuống quấy
Ốm yếu không dám màng
Sung sướng chảy về mình
Lo sầu tan bay biến
Đau yếu có bù nhìn đi thế
Có bù nhìn một mắt
Bù nhìn đi thế thân
Thế ốm đau bệnh tật u sầu
Thế cho cả ống to ống nhỏ
Thế cho cả lớn bé trong nhà
Ba năm không đòi rượu
Năm năm không đòi hoa đòi lễ
Nhà Pựt xuống trần thế giải vận
Con quan xuống gia đình giải hạn
Nhà Sjay xuống giải vận được an
Nhà Sjay xuống giải hạn được mát
Dậy thôi ông thổ công
Đi thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch lên đường
Công sào phi ngựa trắng hành lộ
Đi thôi đôi trai ải vai khiêng
Đi thôi đôi mường giang vai gánh
Hai cô đeo áo vía lên đường
Bốn nàng đeo áo mệnh hành lộ
Dậy thôi bát gạo vía
Dậy thôi quả trứng mệnh
Nàng áo vàng áo bạc đón mệnh
Đi thôi cô em gái hầu trà
Ơ… cô nàng hầu rượu
Dậy thôi gốc Sjay già nộp của
Đi thôi quan nha môn điểm lễ
Mười ông chủ cùng dậy
Mười ông Sjay cùng dậy đồng loạt
Dậy thôi đôi người khiêng
Đi thôi đôi trai trẻ vai gánh
Trai ải mang gồng gánh qua nhà
Vợ ải nấp đằng xa trộm ngắm
Aỉ mang gánh qua đồng
Vợ ải nấp bờ đầm nhìn trộm
Trai ải vào chia khiêng chia gánh
Chia bịch thiên bịch sang
Chia về bịch ngọc hoàng một cột
Chia cả bịch gạo đầy về cho
Chia cho cả bồ muối về nộp
Bịch thóc đắp ao trên
Bồ muối đắp khe dưới
Bịch thóc ông chủ nhà
Bồ muối bà chủ hộ
Cả cầu sắt về đóng
Cả cầu đồng lên bắc
Cầu gãy Sjay vứt ra
Cầu mục Sjay ném đi
Ta lấy cầu vững tốt vào thế
Cầu sắt ông góc nhà
Cây mệnh bà góc cửa
Nước vỗ rễ không rung
Đêm mọc một hai lá
Sáng đâm ngọn ba ngọn
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt chồi
Cây mọc lên cao vút
Trăng lên cây vẫy gió hiên ngang
Đi đâu có người đón
Ra đường có người gọi người mời
Chuối vía bà chủ hộ
Chuối đem trồng sau nhà
Chuối đem trồng bờ ao trước thổ
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt lá
Từ nay quản lộc mệnh cho khoẻ
Từ nay quản năm tháng cho rộng
Cả hai cặp bốn vía
Cả bốn vía vợ chồng
Xuống sàn chẳng vịn thang
Đi xa không cần gậy
Ra đồng chẳng mỏi chân
Đi ruộng không chồn gối
Cái năm qua cho trọn
Cài kỳ hạn cho vẹn
Lộc mình cho nó khoẻ
Trường sinh cho nó vững nó bền
Đêm nay tạo lộc mệnh cho khoẻ
Đêm nay ban năm tháng cho rộng
Lộc mệnh cả hai áo hai thân
Trường sinh cho cả chồng cả vợ
Lộc mệnh được nhiều sinh nhiều số
Cả nhiều cây nhiều cành
Cây sinh con nhiều bề
Cây sinh cháu nhiều lứa
Sinh về được con trai
Sinh về có con gái
Cả hai áo hai thân
Cả hai người chồng vợ
Hơn bốn mươi lo tai
Ngoài bốn sợ hạn
Bịch thiên địa không rỗng
Bồ ngọc hoàng chẳng cạn
Bồ câu không chết đói
Bạch hạc chẳng chết khát chết khô
Căng khỉ không chết héo
Có cầu sắt lên lót
Có cầu đồng lên bắc
Cầu mệnh cho hai áo hai thân
Cầu mệnh cho cả chồng cả vợ
Cầu mệnh ông chủ nhà
Cầu mệnh bà chủ hộ
Cầu mục ta vứt đi
Cầu tốt cầu mới ta đem bắc
Ta tạo cho lộc mệnh bền vững
Ta tạo cho năm tháng rộng dài
Lộc mệnh cũ hai áo hai thân
Lộc mệnh của cả hai vợ chồng
Ra đồng không mỏi chân
Đi ruộng không chùn gối
Xuống sàn không vịn thang
Đi xa không chống gậy
Ta trao cho lộc mệnh khoẻ khoắn
Ta trao cho năm tháng rộng dài.
Nhà Pựt nhìn thấy. Kìa! Nhìn thấy
Nhìn thấy kia cây đa giữa trời
Nhìn thấy chốn cây si giữa bản
Cây đa ba mươi gậy
Cây si cung trăng chín mươi cành
Chín mươi gậy về gốc
Bảy mươi gậy về bản
Diều hâu tha vịt tha gà về ngọn
Cát tha trâu tha bò về gốc
Mới thành xứ “ Mật” loạn
Mới thành những linh hồn loạn lạc
Mật chết đuối trên sông
Mật đắm thuyền bến dưới
Mật ngã cây chết đói
Mật ngã quả chết co
Mật thắt cổ thè lưỡi
Mật mới chết giữa đồng không chăn
Mật chết giữa đồng không không liệm
Quá lến chốn hành tinh
Phi qua chỗ ngũ đạo hành khiển
Phóng lên vùng linh hồn tai nạn
Vượt lên chốn ma gà
Lên đến chốn Phạm Nhan
Vượt qua quan ngũ hải
Lến tới chốn vua ba
Vượt qua nàng hành khiển
Lên đến nàng chúa ba
Vượt qua cô chúa nguyền
Vượt qua miền cô ba
Lên đến chốn hà bà yêu tinh
Nhà Pựt nhìn thấy ta nhìn thấy
Nhìn thấy gốc cây mạ
Nhìn thấy gốc tổ tiên bên ngoại
Sjay ta gặp tổ ngoại dừng chân
Quân ta gặp tổ tông dừng bước
Dừng ngựa vào xin vía
Dừng lại xin lá bùa đắp mệnh
Dừng chân ơ…thổ công
Dùng ngựa thôi công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch dừng đường
Công sào cưỡi ngựa trắng dừng lại
Dừng lại thôi trai ải vai khiêng
Dừng nhé đôi trai giang vai gánh
Dừng ơ… nàng thắp hương
Dừng thôi em thắp đèn
Dừng thôi ông tổ nhà
Dừng thôi gốc tổ nội
Hai em đeo túi vía dừng đường
Quan tổ nâng túi vía dừng bước
Dừng ơ… bát gạo vía
Dưng ơ… quả trứng mệnh
Cốt lõi giấy đón vía
Cốt vàng cùng cốt bạc đón mệnh
Dừng lại ông Sjay già nộp lễ
Dừng lại quan nha môn nộp của
Mười Sjay chủ cùng dừng
Chín Sjay chủ dừng lại tất cả
Đoàn đi trước đứng đợi
Toán đi sau dừng quân
Mọi người cầm cương ngựa quay ngang
Mọi người cầm đầu yên dừng lại.
Sau khi thầy đã làm xong lễ giải hạn, được quan quân chấp thuận thì việc nộp lễ vật được bắt đầu:
Con Pựt nay dừng đường
Cháu quan nay dừng lộ
Con thỉnh mười gốc Sjay
Cháu thỉnh chín Sjay tổ
Mười Sjay gốc đều thỉnh
Chín Sjay tổ thỉnh cầu tất cả
Thỉnh đến Sjay xuống nước không trôi
Thỉnh đến quan vào lửa không cháy
Thỉnh Sjay giữ đầu ghế
Trình Sjay ngồi nơi trốc bàn bàn thờ
Thỉnh thánh Sjay dâng rượu đến nhà
Trình quan nay nộp lễ đến điện
Con còn trẻ tập nói
Cháu còn nhỏ tập lời
Câu được lại câu chăng
Người giỏi lại đi Hác
Người tài lại đi Keo
Mỗi mình con hành lễ
Phép không đến cha giúp
Chữ chẳng rõ cha sửa
Rượu nay đặt đến nhà
Trà nay đặt đến điện.
Đến đây, coi như công việc đã hoàn tất, mọi con đường đã đi qua, lễ vật đã được dâng lên, cầu phúc đã được chấp thuận, đoàn người bắt đầu trở về nhà, thầy ca đoạn hát “Hồi gia”:
Của đắt ta hồi đường
Lễ đắt ta hồi lộ
Về thôi ông thổ công
Về thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch hồi đường
Công sào phóng ngựa trắng hồi lộ
Cưỡi bầy ngựa đuôi bông
Phi như mây như gió
Về thôi đôi trai ải vai khiêng
Về thôi đôi trai giang vai gánh
Quan tổ mang áo vía lại đường
Quan tổ đeo túi vía hồi lộ
Xuống thôi bát gạo vía
Xuống thôi quả trứng mệnh
Cả cốt giấy đón vía
Cả xương vàng cốt bạc đón mệnh
Xuống thôi cô hầu trà
Về thôi em hầu rượu
Hai em đeo túi vía lại đường
Bốn nàng mang túi vía hồi lộ
Mười Sjay gốc cùng xuống
Chín Sjay chủ cùng xuống tất cả
Lúc ngược cưỡi ngựa giấy nhẩn nha
Lúc xuống cưỡi mây gió hồi nhanh
Mười đoạn làm một đoạn Sjay xuống
Mười trượng làm một trượng Sjay hồi
Xuống đến xứ sở các vì sao
Xuống đến chốn mười hai mặt trời
Xuống đá xếp đá chồng
Xuống đến vùng đá treo
Tảng chen tảng đá ở
Xuống đến thửa ruộng ba trăm mạ
Thửa ruộng năm ngàn bung
Xuống cây đa lưng trời
Xuống cây si giữa bản
Xuống xứ ba mươi ông lôi nắng
Tám mươi xứ lôi lớn
Xuống chân trời nườm nượp
Lũ lượt buông chân trời
Xuống thang ba trăm bậc lên trời
Cầu thang năm bậc lên đến tổ
Cầu thang trời xuống thế
Rời thang trời cùng xuống tất cả
Quay xuống vùng chuối lá
Thẳng xuống khe lá dong
Quay xuông hang chim én lượn chao
Xuống đến chỗ hang dơi trú ngụ
Chuyển xuống ba mươi xứ lôi nắng
Tám mươi mường lôi vàng
Chuyển xuống chốn mồ mả ở rừng
Nơi mộ tở ở khe
Mồ mả hãy ở an
Tổ tiên hãy sống mát
Cây không đạp xuống bản
Cây không đổ xuống nhà
Rễ cây không vào xiên
Rễ cây không vào cuốn
Sjay nhắn Sjay xuống đường
Quan nhắn quan hồi lộ
Xuống rừng già cổ thụ
Chốn cây cao vút trời
Xứ thung dày cây mạ
Xuống rừng dày cây quế
Chốn rùng già ngát hương
Xuống rừng lớn bạt ngàn
Xuống rừng rộng ngát hoa
Chuyển xuống xứ ba ba lặn giếng
Xuống chỗ bà đười ươi đuôi dài
Quay xuống chỗ bà gấu ăn cưới
Xuống chỗ ông kéo chài chắn lối
Cô lìm là giăng bẫy
Xuống tới chốn rừng cây hoa trắng
Xuống đến chốn trai gái áo màu
Quay xuống em quăng chài
Ngoặt tới cô câu cá
Vịt lặn nước nghì ngụp
Trâu lội khe sì sầm
Vịt lặn nước đầm trên
Trâu ngâm mình đầm dưới
Chuyển xuống thần rừng già
Quay xuống thần rừng rộng
Cây bằng bịch thân trường
Cây bằng nhà người ở
Khỉ ăn quả trên cây cao
Con leo lại con lượm
Xuống đến chốn khỉ già mặt đen
Xuống đến chốn căng đàn nhăn mặt
Xuống đến ông thổ công
Xuống đến nơi công sào thổ địa
Thổ địa giữ đầu bản
Thổ công quản đầu thôn
Bản người ta hỗn độn
Thôn mình vẫn lặng yên
Xuống cây si đầu bản
Xuống cây nhãn giữa thôn
Ngựa ác Sjay phóng xuống
Các quan Sjay cùng phi ngựa xuống
Xuống ruộng lớn điểm quân
Xuống đồng quang điểm ngựa
Xuống cây sung ven ruộng
Xuống cây dướng bờ ngòi
Xuống đường mình thẳng dong
Ngoặt ao lớn trước cửa
Xuống đến khóm gừng già tăng lực
Xuống đến chỗ gừng gié chữa đau
Gừng già tăng sức lực
Gừng gié chữa lúc đau lúc ốm
Xuống đến ra thì là dậy phép
Xuống rau hẹ dạy lời
Xuống rau húng cuống tía
Xuống cây chàm nhuộm đen
Xuống lá chàm nhuộm mũ
Chuyển xuống vườn trầu vàng
Chuyển xuống giàn trầu rậm
Xuống cây mận bên cổng
Cây đùm đũm trước nhà
Xuống cây mận hoa trắng
Xuống cây đào hoa hồng
Chuyển xuống ba tấc bằng
Chuyển xuống bốn mặt đất
Chuyển xuống chốn thần linh thổ địa
Chỗ gà vịt râm ran bãi sàn
Trâu bò kêu vang đồng
Đến cầu thang ba ngày làm
Cầu thang bảy ngày đóng
Mới thành chỗ đi lại
Mới thành chỗ minh quân lên xuống
Xuống đến chỗ cầu thích
Xuống đến giàn ống bương
Xuống đến nơi canh cửa
Tổ bảy đời chốt giữ đại môn
Tổ năm đời giữ cổng cho chắc
Đóng cửa ngăn kẻ gian
Đóng cửa mình ở trong
Vui vẻ ùa đến mình
Sầu muộn tan xa hết
Xuống đến chốn nàng tro
Xuống đến ông vua bếp
Nước không rơi gác giữa
Nước không đổ xuống bếp
Tàn nổ không cháy chảo
Tàn văng không cháy nhà
Xuống tấm thát bên bếp
Xuống đuôi hổ đệm ngồi
Xuống chân ghế gỗ dâu
Xuống bàn thờ thừng mực
Xuống tấm chiếu trải hoa
Xuống bàn hoa sáng bừng
Nơi mâm hương mâm hoa ngời chói.
KẾT LUẬN
“Khảm hải” (vượt biển) nói riêng cũng như hát “Pựt” nói chung là một trường chuyện thơ dân gian của người Tày được sử dụng như một loại văn tế, có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội tộc người.
Toàn bộ nội dung “Khảm hải” phản ánh đời sống xã hội hiện thực của tộc người, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, lên án tầng lớp thống trị đồng thời bênh vực, ngợi ca ý chí, nghị lực phi thường của người dân lao động nghèo khổ.
“Khảm hải” được lưu truyền lâu đời trong cộng đồng, có ý nghĩa trao truyền, giáo dục các thế hệ tộc người, đề cao tình cảm gia đình, tình nghĩa anh em, sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Cũng bởi ý nghĩa cao cả này mà “Khảm hải” tồn tại và sống mãi trong tâm trí cộng đồng. “Khảm hải” cũng như hát “Pựt” thể hiện nghệ thuật dân ca, ngôn ngữ của tộc người. Nghệ thuật chuyển tải hiện thực đời sống xã hội vào thơ ca vô cùng đặc sắc, thể hiện trình độ văn học, ý nghĩa khái quát cao của tộc người. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, “Khảm hải” xứng đáng được nghiên cứu và bảo tồn nhằm phát huy giá trị của nó trong cộng đồng cũng như quảng bá tới các tộc người khác và bạn bè quốc tế.
(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)
Ban Biên tập Cổng TTĐT
7629 lượt xem
Cổng thông tin điện tử tỉnh - “Khảm hải” (vượt biển) nói riêng cũng như hát “Pựt” nói chung là một trường chuyện thơ dân gian của người Tày được sử dụng như một loại văn tế, có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội tộc người.I. KHÁI QUÁT VỀ DÂN TỘC TÀY Ở TỈNH YÊN BÁI
Người Tày ở Yên Bái có khoảng 120.000 người, chiếm 17% dân số toàn tỉnh. Đồng bào Tày sống tập trung đông ở 7/7 huyện, thị trong tỉnh (trừ 2 huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải). Trong đó đông nhất là các huyện: Lục Yên 53,18% dân số; Văn Chấn 16,09%; Yên Bình: 15,56%; Văn Yên: 15% dân số toàn huyện.
Từ lâu, người Tày đã cư trú tập chung thành bản, thường ở ven các thung lũng và những nơi có điều kiện sản xuất nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Tuy vật, cũng có nơi người Tày sinh sống ở các xã vùng cao, do đó còn gặp nhiều khó khăn trong việc lưu thông hàng hóa, phương tiện đi lại khó khăn, đời sống còn nghèo. Tên gọi dân tộc Tày là tên gọi chung và phổ biến nhất. Người Tày có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái (dòng ngôn ngữ Nam Á).
Kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp, người Tày làm ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu đời cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới rất nhanh nên nông nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Cùng với việc thâm canh tốt 2 vụ lúa, đưa giống mới vào sản xuất, tăng vụ ngô đông, người Tày phát triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các loại cây công nghiệp như: chè, quế, sắn.
Trong quá trình giao lưu văn hóa, người Tày đã sáng tạo ra những tác phẩm kiệt tác như Khảm hải (Vượt biển), các bài Khắp, Cọi, hát quan làng (hay hát đón dâu) có giá trị nhân văn sâu sắc.
Nhà ở truyền thống của người Tày là nhà sàn, mỗi bản có khoảng 15 đến 20 nóc nhà, người Tày dùng vật liệu xây dựng sẵn có ở địa phương như lá cọ hoặc cỏ giang để lợp nhà. Sàn nhà được dát mai, diễn hoặc ván, cửa làm bằng phên nứa hoặc lịa bằng gỗ. Nhà của người Tày thường có từ ba đến năm gian, hai trái. Trên sàn nhà chính, gian trung tâm thường là gian giữa (nếu số gian nhà là lẻ), nhà có số gian chẵn thường chọn gian trung tâm là gian thứ hai kể từ cầu thang ngoài vào và bếp được đặt ở gian giữa.
Trang phục của người Tày chủ yếu là vải bông nhuộm chàm đen cho cả nam và nữ. Phụ nữ Tày thường mặc áo ngắn với váy hoặc quần, áo ngắn may không cổ kiểu giống áo bà ba. Vào những ngày trọng đại như dịp cưới, ngày lễ và tết thì phụ nữ Tày thường mặc váy và áo năm thân có thắt lưng bằng vải chàm gấp lại buộc phía sau kèm theo khăn vuông gấp chéo được nhuộm màu chàm. Đàn ông mặc áo tứ thân cổ tròn có khuy vải hoặc cúc và quần lá tọa và chỉ đội khăn xếp dịp lễ tết, đặc biệt là lễ đón dâu, hoặc đi ở rể.
Người Tày có nghề thủ công phong phú, đa dạng và được phát triển rất sớm, trong đó nổi bật là nghề dệt thổ cầm, nghề trồng bông để dệt vải và nghề nuôi tằm lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của người Tày nơi đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng dây dao gồm hai mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có nội dung giáo dục tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc, nghề rèn, nghề đục đá phát triển khá cao.
Hình thức Hắt tồng (tức kết bạn) rất phổ biến của đồng bào Tày, những người bạn trai, bạn gái hợp nhau về tính nết cùng trang lứa, mang lễ vật một con gà, một chai rượu đến nhà nhau, xin bố mẹ hai bên cho kết tồng (kết bạn). Khi bố mẹ hai bên đồng ý thì họ coi nhau như anh em ruột thịt.
Hôn nhân của người Tày được tiến hành qua nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống được thực hiện trong đám cưới là hát quan làng. Đây là một trong những nghi thức sinh hoạt đặc sắc nhất vẫn còn được lưu giữ cho tới ngày nay. Lễ cưới truyền thống của người Tày được trải qua các bước quan làng (ông mối); xem ngày qua thầy cúng (lễ bốn gà); lễ cưới, lễ lại mặt, tết quan làng, các bước này tiến hành trong một thời gian dài, thậm chí có khi đến mấy năm.
Tang lễ của người Tày có nhiều nghi thức và chịu ảnh hưởng nhiều của Tam giáo. Nhiều giá trị nhân văn được thể hiện thông qua tang ma truyền thống của đồng bào Tày. Hiện nay, tang lễ truyền thống của người Tày ở tỉnh Yên Bái đang tích hợp nhiều giá trị nghệ thuật dân gian đặc sắc như nghệ thuật tranh cắt giấy (qua nhà táng), nghệ thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật trang trí…Tuy nhiên, ở những bản xa các trung tâm xã, đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thì tang lễ của người Tày lại chịu ảnh hưởng nhiều đến kinh tế và sản xuất của gia đình.
Ngày nay truyền thống văn hoá dân gian luôn được bảo tồn, khai thác và phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh người Tày ở tỉnh Yên Bái đang góp phần to lớn của mình trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái.
II. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN YÊN BÌNH
1. Khái quát chung về huyện Yên Bình
Yên Bình là huyện miền núi nằm ở phía Đông Nam tỉnh Yên Bái. Trung tâm huyện cách thành phố Yên Bái 8Km về phía đông nam, cách thủ đô Hà Nội 170Km về phía tây bắc, phía Đông giáp với huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ, phía Tây giáp với huyện Trấn Yên tỉnh Yên Bái, phía Đông giáp huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang, phía Tây Bắc giáp với thành phố Yên Bái. Huyện Yên Bình có tổng diện tích tự nhiên là 77.319,67 ha trong đó diện tích đất nông nghiệp có 57.690,43 ha chiếm 74,61% tổng diện tích tự nhiên, toàn huyện có 26 đơn vị hành chính, bao gồm 2 thị trấn và 24 xã.
Hiện nay, huyện Yên Bình có dân số là 107.398 người, với 5 dân tộc chính là Kinh, Tày, Nùng, Dao, Cao Lan (Sán chay); lực lượng lao động xã hội trong toàn huyện là 45.037 người, trong đó lực lượng lao động nông thôn chiếm 76,5%. Huyện Yên Bình có 26 đơn vị hành bao gồm 24 xã và 2 thị trấn (1 thị trấn trung tâm huyện lỵ), trong đó có 1 xã vùng cao và 6 xã đặc biệt khó khăn.
Yên Bình cũng là huyện có nhiều tiềm năng về rừng và khoáng sản. Trên dãy Con Voi, núi Ngàng, núi Yến có nhiều gỗ quý như gỗ lát, nghiến, đinh, lim, sến, táu, lim xanh và các loại động vật như hươu nai, khỉ, lợn rừng, hổ, gấu, gà lôi, khiếu, vẹt, gấu. Do có diện tích mặt nước nhiều (hồ Thác Bà trên 15.000 ha) nên khí hậu ở đây mang tính chất vùng hồ: mùa đông ấm áp, mùa hè mát mẻ, thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp, trồng rừng phòng hộ và rừng nguyên liệu; trồng cây công nghiệp chè, cao su, cây ăn quả và là tiềm năng để phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch dịch vụ.
Các tài nguyên thiên nhiên của huyện khá phong phú, ngoài tài nguyên nước và tài nguyên rừng còn có một số khoáng sản khác như: đá vôi hoa hoá có độ trắng cao, đá vôi vật liệu xây dựng, chì, kẽm, pyrit, cao lanh, fenpat; ngoài ra còn có đá quý và các loại cát, quặng vàng, than nâu... Đây là những tài nguyên có trữ lượng lớn và đang hứa hẹn một tiềm năng lớn cho huyện Yên Bình.
2. Khái quát về xã Xuân Lai
Xuân Lai là xã vùng sâu của huyện Yên Bình, nằm ở phía đông hồ Thác Bà. Phía Đông giáp xã Yên Thành huyện Yên Bình, phía Đông bắc giáp xã Hùng Đức và xã Bằng Cốc của huyện Hàm Yên - tỉnh Tuyên Quang, phía Tây bắc giáp xã Mỹ Gia, xã Cẩm Nhân, phía Tây vẫn tiếp giáp hồ Thác Bà và kéo dài đến xã Mông Sơn của huyện Yên Bình. Diện tích tự nhiên của xã gồm 2.867 ha trong đó đất nông nghiệp là 203,7 ha, đất lâm nghiệp là 1.109 ha, Xuân Lai là xã có địa hình khá phức tạp, chủ yếu là đồi núi bao bọc với dãy núi Ngàng trải dài. Toàn xã hiện có 634 hộ với 3.011 khẩu, với 5 dân tộc sinh sống trong 13 thôn là: Kinh, Tày, Dao, Cao Lan và Nùng.
Trong khu dân cư đã hình thành các bản Tày, Nùng như: Ca Mác, Ngòi Mọn, Cây Đa, Cây Tre, Xuân Lai. Trước đây, cư dân đến đây khai phá, đắp đập đưa nước về thành ruộng lúa nước từ nhiều đời nay, tại đây đã hình thành các thôn xóm như Vạn Trảng ngay sát bờ sông Chảy là nơi cư trú của người Kinh từ Nam Định, Thái Bình lên làm ăn sinh cơ lập nghiệp, người Tày ở Lạng Sơn về đây ở xóm Cốc Hóp và một phần ở xóm Ca Mác. Cư dân ở khắp mọi miền đến đây sinh sống, họ còn mang theo cả nét văn hoá, tín ngưỡng của dân tộc, địa phương mình đến góp cùng với nền văn hoá truyền thống ở đây là hát Then cùng cây đàn Tính nổi tiếng và đặc trưng của dân tộc Tày trong các dịp lễ, tết để cầu may, cầu phúc mỗi độ xuân về đã tạo nên những nét văn hoá các dân tộc vừa độc đáo lại đa dạng, phong phú.
3. Khái quát về người Tày ở xã Xuân Lai
* Lịch sử di cư của người Tày xã Xuân Lai, huyện Yên Bình
Theo kết quả khảo sát tại các địa phương thì người Tày là cư dân bản địa ở Việt Nam, có nguồn gốc từ lâu đời. Hiện nay người Tày đang cư trú trên địa bàn rộng lớn và chiếm số đông tại các huyện Lục Yên, Văn Yên, Yên Bình. Trước năm 1945 một số người Tày ở huyện Văn Yên có nguồn gốc từ tỉnh Lạng Sơn di cư sang. Người Tày ở huyện Văn Chấn và Trấn Yên có nguồn gốc di cư từ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên Yên Bái. Đối với người Tày ở vùng Lục Yên mang nhiều giá trị văn hoá độc đáo riêng biệt so với người Tày ở vùng Văn Chấn, Trấn Yên và khác biệt so với người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
* Người Tày ở xã Xuân Lai
Người Tày ở Xuân Lai chủ yếu sống bằng nghề nông, trong đó làm nương và trồng lúa nước là chủ yếu. Chăn nuôi là công việc chính trong các gia đình với những con vật quen thuộc vừa để làm sức kéo như trâu, bò, vừa làm thức ăn và bán trao đổi hàng hoá như dê, lợn, gà, vịt. Là xã có thuận lợi lưu thông của các dòng suối với các phai, đập nên ở đây có nhiều loại cá tự nhiên và từ đó nghề nuôi cá đã có sự phát triển. Cũng như các địa bàn và dân tộc khác xuất phát từ nghề làm nông và chăn gia cầm gia súc đã có tác động và ảnh hưởng chi phối khá sâu sắc đến đời sống tâm linh, tín ngưỡng của đồng bào các dân tộc ở đây.
* Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Tày ở xã Xuân Lai
Với kho tàng văn hóa dân gian phong phú và tập tục có nhiều nét đặc trưng còn lưu giữ được như trường ca Khảm hải, lễ hội Lồng tồng, những điệu xòe cổ… người Tày đã chứng tỏ họ là những cư dân bản địa ở vùng sông Chảy và nhà sàn của người Tày vùng Đông hồ là một không gian văn hóa rất đặc biệt. Cầu thang giữ một vai trò quan trọng không thể thiếu. Trong đời sống tâm linh của người Tày, 7 hay 9 bậc cầu thang là sự thể hiện số lượng con vía. Vía chính là sợi dây nối sự sống và cái chết của con người. Bởi vậy, bậc cầu thang chính là cầu nối giữa hai thế giới bên trong và bên ngoài của ngôi nhà. Số lượng bậc thang và vị trí cầu thang có thể ở bên phải hoặc bên trái ngôi nhà tùy theo thế đất và vị trí dựng nhà, nhưng số bậc cầu thang nhất định phải là số lẻ.
Khi bước vào sàn ngôi nhà của người Tày, phía trước ngôi nhà là một bàn thờ nhỏ, đó là ban thờ ông tổ bảy đời của người Tày và trong quan niệm tâm linh của họ thì những người đời trước khi mất đi sẽ trở thành người canh cửa, bảo vệ cho con cháu khỏi những điều xấu từ bên ngoài vào. Gian ngoài gần cửa vào là nơi tiếp khách. Với người Tày bao giờ chủ nhà cũng ngồi ở phía trên cùng, bên trong, để tiện rót nước và tiện bao quát cả không gian ngôi nhà. Nhà sàn của người Tày có rất nhiều cửa sổ, thường là dãy cửa sổ nối tiếp nhau chạy bao quanh ngôi nhà. Những cửa sổ này vừa để đón gió, vừa mang ánh sáng vào ngôi nhà sàn của người Tày tạo nên sự thoáng mát và chan hòa với thiên nhiên.
Gian chính là nơi quan trọng nhất trong ngôi nhà sàn người Tày, vì đây là nơi cả gia đình quây quần tụ họp đông đủ, cùng ngồi trò chuyện hoặc sum vầy bên mâm cơm ấm cúng. Ban thờ tổ tiên của người Tày luôn có vị trí trang trọng nhất ở gian chính và lúc nào cũng phải đặt cùng phía với cầu thang lên nhà. Đây là một nét độc đáo riêng biệt so với kiến trúc nhà sàn của các dân tộc khác.
* Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Tày ở xã Xuân Lai
- Thờ cúng tổ tiên: Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là nghi lễ tín ngưỡng cơ bản của người Tày, đây là việc thờ chính trong nhà, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Bàn thờ tổ tiên luôn được đặt ở gian chính giữa nhà là nơi trang trọng nhất và được trang trí đẹp. Trên bàn thờ tổ tiên người Tày thường đặt ba bát hương. Một bát thờ nguồn gốc tổ tiên; một bát thờ lộc mệnh (gia phả dòng họ); một bát thờ hàm (các chức sắc của tổ tiên). Dòng họ nào, gia đình nào có người làm thầy Tào, làm Bụt thì cũng có thêm một bát để thờ. Hàng tháng đến này mùng một, ngày rằm (âm lịch), gia đình thắp hương kèm theo hoa, quả, rượu. Trong các ngày tết, ngày giỗ hay có việc đại sự quan trọng như: đám cưới, làm nhà mới hay sinh con…các gia đình đều thắp hương mời tổ tiên về chứng giám. Đặc biệt vào ngày 30 tết, chủ nhà làm nhiệm vụ sửa sang bàn thờ, quét sạch bụi bẩn, rửa sạch ấm chén rót nước đặt bên dưới mỗi bát hương một chén. Trước các bát hương, bày khay ngũ quả vào chính giữa, gồm một nải chuối và các loại quả có hình thù đẹp (kiêng vị đắng, chua, cay); hai bên đặt bánh chưng, bánh khảo, mứt, kẹo...
Do tính chất thiêng liêng và trang trọng như vậy, nên người Tày thường nghiêm cấm phụ nữ nhất là con dâu, cháu dâu, những người lạ không được tới gần bàn thờ. Ở gia đình người Tày, mỗi người con dâu đều có một buồng riêng, đều có một bà mụ riêng cho con của mình. Có bao nhiêu con dâu có trẻ con thì có bấy nhiêu bàn thờ mụ.
Người Tày có quan niệm về ông Công, ông Táo rất gần với người Kinh, họ coi ông Táo không chỉ là thần Bếp mà còn là vị thần bảo vệ người và gia súc trong gia đình. Nơi thờ Táo quân rất đơn giản, chỉ là một ống tre được dán giấy đỏ làm ống hương. Nếu gia đình có việc đại sự, hoặc xảy ra những vụ việc như có người đau, ốm, gia súc bị bệnh dịch, mất trộm thì cúng thần bếp để xin phù hộ. Hàng năm cứ đến ngày 30 tháng chạp (âm lịch) người Tày ở đây đều làm lễ tiễn đưa Táo quân về trời. Do đặc điểm cư trú ở vùng rừng núi, khí hậu lạnh, sẵn củi rừng nên bếp của người Tày quanh năm không bao giờ tắt lửa. Người Tày quan niệm bếp không có lửa thì không gặp được điều lành.
III. KHÁI QUÁT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA NGƯỜI TÀY XÃ XUÂN LAI
1. Lễ hội truyền thống.
* Lễ hội “Lồng Tồng” hay “Xuống đồng”.
Đây là lễ hội dân gian truyền thống của người Tày, được tổ chức với mong ước một năm mới mưa thuận, gió hoà, mùa màng bội thu, mọi nhà ấm no hạnh phúc. Trong tiết trời se lạnh đầu năm, người Tày nô nức chuẩn bị cho lễ hội “Xuống đồng” cầu cho một năm mới mưa thuận gió hoà, mùa màng tươi tốt, bội thu, thóc đầy bồ, lợn, gà đầy chuồng, mọi nhà được bình an, mạnh khoẻ.
Lễ hội “Xuống đồng” được tổ chức vào những ngày đầu xuân năm mới khoảng thời gian từ mùng 4 đến mùng 10 tháng riêng. Lễ hội “Xuống đồng” được tổ chức 2 phần phần lễ và phần hội. Phần lễ gồm các nghi thức cúng thần nông, thành Hoàng làng cầu mong cho cả năm mưa thuận gió hoà, mùa màng bội thu, gia súc đầy đàn; các gia đình mạnh khỏe. Phần lễ được bắt đầu từ tục rước đất, rước nước. Kiệu rước được trang trí sặc sỡ nhiều mầu theo biểu tượng âm dương ngũ hành và được hai đôi nam, nữ (chưa vợ, chưa chồng) khiêng kiệu rước. Đi đầu đoàn rước là thầy cúng, người được dân bản giao trách nhiệm là sứ giả để giao tiếp với thần linh, trên tay thầy cầm cây nêu biểu tượng của sự sinh sôi, nảy nở. Đi sau là kiệu rước nước, nước được đựng trong hai ống bương to một ống bố và một ống mẹ.
Sau kiệu rước nước là kiệu rước đất, đất thiêng được lấy từ trên núi cao gọi là đất mẹ. Sau đó là các mâm lễ để dâng các vị thần linh. Lễ vật gồm một mâm quả còn (bên trong các quả còn có đựng các hạt giống); mâm xôi 7 màu, bánh dày ngũ sắc và thủ lợn, gà luộc, hoa quả... Đội chiêng trống đi hai bên thầy cúng nổi chiêng trống để thầy cúng giao linh với thần linh. Khi đoàn rước về đến địa điểm làm lễ, thầy cúng ra hiệu cho đội nhạc lễ tấu lên ba hồi kèn trống vang vọng cả núi rừng, trời đất, tiếp đó thầy cúng thực hiện nghi lề cúng. Thầy khấn và phun nước làm phép để xua đuổi ma quỉ, xua đuổi điều không may, rồi thầy tung lộc (là các hạt giống) của thần linh cho dân bản.
Sau phần lễ là phần hội, phần hội được bắt đầu bằng các điệu múa và các tiết mục văn nghệ dân gian đặc sắc của người Tày như : múa quạt, múa khăn, múa gậy, hát đối, hát giao duyên....Nhưng nổi bật nhất, vui nhất, nhiều người tham gia nhất là những màn xoè, khi tiếng kèn trống vang lên các cô gái tày mở đầu màn xoè với những động tác xoè duyên dáng, điệu nghệ mời mọi người tham gia, vòng xoè cứ rộng mãi đi đều trong tiếng kèn, tiếng trống dập dìu. Khi các màn xoè kết thúc cũng là lúc mọi người tham gia các trò chơi. Các trò chơi ở đây đa số là trò chơi dân gian như: ném còn, đẩy gậy, kéo co, đánh quay…
2. Tết của người Tày
- Tết Nguyên đán: Khác với người dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa của dân tộc mình. Với người Tày cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Với người Tày, tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăn tết từ ngày 28/12 (âm lịch). Trước và trong ngày Tết, trên bàn thờ các gia đình được trang hoàng dán giấy đỏ, trai gái trong bản nô nức trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho căn nhà thêm mới mẻ và ấm cúng hơn. Bước sang ngày 29 tết đàn ông người Tày bắt đầu mổ lợn và chế biến ra những món ăn như: giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn... Phụ nữ tổ chức gói bánh và làm chè lam, bánh khảo. Sang đến ngày 30 tết tất cả các gia đình đã chuẩn bị xong mọi việc để đón năm mới và không quên cất các đồ đặc như dao, cày, bừa…vì theo quan niệm người Tày thì đó là các vật dụng đã gắn bó với con người suốt một năm lao động vất vả nên chúng cũng cần nghỉ ngơi.
Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thường và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vượng. Tết là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi xuân với những bộ quần áo mới nhất, còn người già và trẻ em thì đi xem các lễ hội đầu xuân như: Tung còn, múa và trao cho nhau những điệu hát Sli, hát lượn thật hay, thật tình tứ.
- Tết Thanh minh: Được bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng đến nay ở Việt Nam, ngày tết Thanh Minh đã trở thành một ngày lễ đặc trưng trong văn hóa Việt. Mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có một phong tục đón tết riêng. Với đồng bào Tày, ngày tết Thanh Minh được coi là dịp lễ thiêng liêng, thể hiện lòng thành kính của con cháu với tổ tiên. Vào ngày này, từ sáng sớm các gia đình người Tày đã chuẩn bị các lễ vật đi tảo mộ. Mâm lễ cúng tảo mộ được chuẩn bị chu đáo, gồm có: Gà luộc, xôi ngũ sắc, rượu, hoa, quả và các loại bánh như: bánh trứng kiến, bánh lá ngải, bánh mật, bánh gai…. Ngày tết Thanh minh là dịp duy nhất trong năm đồng bào dân tộc nơi đây sửa sang, quét dọn mộ phần của gia đình, dòng họ mình. Bên cạnh lễ tảo mộ, gia đình người Tày còn làm một mâm cơm gồm: Thịt lợn, xôi, hoa, quả và bánh trái, xôi, thịt, hoa quả để cúng gia tiên cầu mong bình an trong cuộc sống.
- Tết Đoan ngọ: Tết Đoan ngọ ở Việt Nam còn gọi là "ngày giết sâu bọ", theo quan niệm cổ truyền, có thể giết sâu bọ bằng cách ăn thức ăn, hoa quả, rượu nếp vào ngày 5.5 (âm lịch). Các loại thực phẩm được sử dụng nhiều để "diệt sâu bọ" thường là đào, mận, dưa hấu, dứa và một món ăn không thể thiếu đó là món rượu nếp cẩm. Với người Tày cũng vậy, tục ăn rượu nếp và hoa quả vào sáng sớm trong ngày mùng 5.5 (âm lịch) đã trở thành lệ, ngoài ra vào ngày này người Tày còn đi hái các loại lá cây vào buổi trưa (giờ Ngọ) đem phơi khô để làm lá uống cho cả năm. Vì theo quan niệm, ngày Tết Đoan ngọ thì trời đất phong quang, lòng người sáng sủa, trăm loại cây lá đều tốt lành, có thể đun nước uống, vừa mát ruột, vừa trừ độc giúp cho lòng người thanh thản.
Ngày nay người Tày có tục lệ khảo cây, tức là mang dao đến chặt vài nhát vào các loại cây ăn quả (đối với các cây ít hoặc lâu năm mới ra quả, quả không tốt hay thối hỏng…). Vừa chặt họ vừa hỏi với vẻ doạ nạt rằng tại sao lười ra quả hoặc ra quả không tốt. Chặt xong, họ khuyên bảo, vỗ về cây hãy chịu khó ra quả tốt, quả đẹp thì mùa sau sẽ không bị đánh đau nữa. Đặc biệt trong ngày này người Tày còn ăn các loại bánh và không thể thiếu được bánh tro, đây là loại bánh truyền thống của họ.
- Tết Xíp Xí: Cùng với ngày Xá tội vong nhân (Tết Vu Lan) của người Kinh, Tết rằm tháng bảy của người dân tộc Tày ngoài ý nghĩa thờ cúng tổ tiên, cúng các vong hồn đây còn là dịp để gia đình, dòng họ xum họp, con cái thể hiện lòng biết ơn, tình cảm và lòng hiếu thuận đối với cha mẹ. Cứ đến tháng bảy âm lịch hàng năm, đồng bào Tày ở nơi lại nô nức chuẩn bị cho cái tết lớn thứ hai sau tết Nguyên đán Tết rằm tháng bảy (người Tày gọi là Tết Slip slí). Vào những ngày này, người Tày thường gác lại các công việc khác, tất cả dồn vào chuẩn bị cho ngày tết. Phiên chợ ngày trước tết Xíp Xí bao giờ cũng náo nhiệt hơn với các mặt hàng đặc trưng như: Lá bánh, đỗ xanh, củ chuối rừng…và một món ăn không thể thiếu đối với người Tày trong rằm tháng bảy đó là thịt vịt.
Theo tục lệ, cứ đến rằm tháng bảy hàng năm, người Tày sẽ làm bánh trưng nhân cá lá gừng (bánh “Pẻng Tải”), làm bún tươi để ăn thịt vịt…để thờ cúng tổ tiên, cúng các vong hồn, cầu chúc sức khỏe, an lành đến với tất cả các thành viên trong gia đình, dòng họ. Ngoài bánh “Pẻng Tải” người Tày còn làm bánh “Pẻng Hó” – bánh trưng được gói bằng lá dong rừng với nhân cá chép. Những loại bánh này được cúng tổ tiên, thổ địa để cầu chúc những điều may mắn, tốt đẹp cho gia đình.
Trong những ngày này, người dân tộc Tày còn có phong tục con rể của gia đình sẽ đem biếu bố mẹ vợ một đôi vịt để tỏ lòng biết ơn, kính trọng và hiếu thuận, cảm ơn công dưỡng dục vợ mình. Ngày 14, 15 tháng bảy (âm lịch), đại gia đình sẽ quây quần cùng nhau ăn bữa cơm sum họp. Đây là một nét văn hóa đặc sắc của người Tày, thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó và lòng hiếu thuận của con cái đối với cha mẹ.
- Tết Cơm mới:Đã thành thông lệ, đến cuối tháng 9 đầu tháng 10(dương lịch) hàng năm, khi những cánh đồng tràn ngập một màu vàng óng của lúa chín. Khắp các bản làng của người Tày lại rộn rã tiếng giã gạo làm cốm, làm khẩu rang chuẩn bị cho lễ "ăn cơm mới" - một nghi lễ nông nghiệp truyền thống, một nét văn hóa độc đáo của người Tày. Ngay sau khi thu hoạch vụ lúa mùa, lúc ngô, lúa đã chất đầy bồ thì đó cũng là thời điểm để bà con người dân tộc bước vào mùa Tết "cơm mới" với ý nghĩa tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, con cháu mạnh khỏe và bày tỏ sự tôn kính lên ông bà tổ tiên đã khuất.
Theo phong tục truyền thống của người Tày, gia đình nào có "ma nhà", có cối hương thờ cúng cha mẹ, ông bà thì hàng năm đều phải tổ chức lễ cúng "cơm mới". Mặt khác, Tết "cơm mới" còn là một trong những nghi lễ quan trọng nhất của mỗi gia đình người Tày, nên được bà con chuẩn bị rất chu đáo, kỹ lưỡng. Ngay từ sáng sớm mỗi người trong gia đình dậy sớm để chuẩn bị các đồ lễ cúng. Đồ lễ cúng trong mâm là những sản vật do người dân tự chăn nuôi, trồng cấy, được như: gà, vịt, ngô, gạo... được làm chín, bày trên cỗ lá. Ngoài ra, mâm cỗ cúng cần có đầy đủ khoai lang, khoai sọ, mía và quả cọ. Đặc biệt, trong mâm lễ cúng không thể thiếu được hai món ăn truyền thống của người Tày trong lễ "ăn cơm mới" là cốm và khẩu rang. Cốm được làm từ thóc nếp non sau khi thu hoạch về có thể luộc hoặc rang vừa chín tới, sau đó để nguội rồi đem giã, sàng sẩy để loại bớt vỏ trấu rồi đem bỏ vào cối giã, tiếp sau đó đem đồ lên ăn có vị dẻo và thơm.
Lễ cúng "cơm mới" của người dân tộc Tày thường được tổ chức vào cuối buổi chiều và vai trò của thầy mo là rất quan trọng. Thầy mo phải là người chủ của gia đình, hoặc là những người cao tuổi, có kinh nghiệm, được chủ nhà và bà con trong bản tín nhiệm. Bài cúng "cơm mới" có nội dung cầu chúc một năm mới gặp nhiều may mắn, mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Các bài cúng thường kéo dài trước sự chứng kiến của cả gia đình và hàng xóm láng giềng. Thầy mo mặc quần áo truyền thống của người dân tộc Tày và sử dụng một chiếc quạt khi mo.
Tết "cơm mới" không chỉ là lễ tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, mà còn là dịp để anh em, họ hàng bạn bè gặp nhau cùng trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất.
V. “KHẢM HẢI” TRONG HÁT “PỰT” CỦA NGƯỜI TÀY, XÃ XUÂN LAI, HUYỆN YÊN BÌNH, TỈNH YÊN BÁI
1. Vị trí của “Khảm hải” trong hát “Pựt” của người Tày.
“Khảm hải” được đánh giá là đoạn hấp dẫn nhất trong hát “Pựt” của người Tày. “Pựt” là một trường thơ dân gian của cộng đồng được chuyển thành lời ca, dưới sự thể hiện của thầy cùng có tên là Bụt. Ông Bụt hay bà Bụt khi làm chủ lễ trong lễ cúng vía của một gia đình sẽ phải hát “Pựt” để cầu phúc, cầu may cho gia chủ.
“Pựt” được thể hiện từ khi bắt đầu đến lúc kết thúc lễ cúng vía nhưng “Khảm hải” chỉ là một đoạn trong trường ca đó. Đoạn này bao giờ cũng được diễn vào lúc đêm khuya nhất (thường là canh tư sang canh năm) nhưng luôn thu hút người nghe bởi sự hấp dẫn của nó. Nó hấp dẫn bởi nó miêu tả chân thực thân phận của những người tôi tớ cùng cực (sa dạ sa dồng) phục vụ các quan đưa lễ vật qua biển. Nó hấp dẫn bởi nó phản ánh chân thực một xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử tộc người.
2. Thời gian và địa điểm tổ chức nghi lễ.
Thời gian tổ chức: đêm mùng 10/7 rạng ngày 11/7 (âm lịch), tức đêm ngày 26 rạng ngày 27/8/2012. Lễ cúng này được tổ chức tại gia đình ông Hoàng Tương Lai, thôn Trung Tâm, xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
3. Công tác chuẩn bị cho nghi lễ.
Để chuẩn bị cho lễ cúng gia chủ phải tổ chức mời thầy Bụt và các 2 thầy phụ giúp. Đồng thời gia chủ phải chuẩn bị lễ vật, mời anh em họ hàng tới dự, nhờ người giúp việc bếp núc, nội trợ, trang trí, quét dọn, chọn người giúp việc cho các thầy trong quá trình làm lễ.
* Chọn ngày, giờ và chọn thầy, đón thầy.
Thời gian được chọn là đêm ngày 10 rạng ngày 11/7 (âm lịch). Các thầy gồm có: Thầy Bụt (chủ lễ): ông Lèo Văn Phùng (xã Cẩm Nhân, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái); Thầy phụ 1: ông Hoàng Tương Lai (xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái); Thầy phụ 2: ông Phùng Văn Rường (xã Xuân Lai, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái).
Đến 16 giờ chiều ngày 10/7 (âm lịch) gia chủ tới nhà mời các thầy đến làm lễ. Khi đó, các thầy thắp hương khấn xin may mắn trong quá trình đi làm lễ tại gia đình ông Hoàng Tương Lai (xã Xuân Lai) trên ban thờ tổ tiên gia đình mình. Đồ dùng trong nghi lễ, các thầy đã sắm sửa đầy đủ và cùng gia chủ tới nơi làm lễ. Thầy Bụt bao giờ cũng phải đón trước, kế đó mới tới các thầy phụ.
* Lễ vật gia chủ chuẩn bị cho nghi lễ.
Gạo tẻ: 50 kg; Gạo nếp: 50 kg làm xôi trắng, bánh chưng, bánh dày, nặn con giống (trâu, bò); 2 con lợn từ 50 – 60 kg/ con; 5 con gà trống; 2 con vịt; Trứng gà; 50 lít rượu; Muối; Vàng, hương, 10 lít dầu và 10 đèn dầu; 3 lầu tết bằng cẫng và lá chuối tươi; 1 bồ vía có dán giấy trang trí bên ngoài; 9 lá vía (nếu là nữ), 7 lá vía (nếu là nam); 9 roi hoa; 3 sọt đựng bông lúa và giấy bản; Gốc tre làm cầu; Giấy để cắt hoa trang trí; Gương, lược, vòng tay của những người được cúng vía; Áo và túi vía của những người được cúng vía; Hình nhân giải hạn;1 cum thóc; 1 lưỡi cày nung đỏ.
* Gia chủ chuẩn bị cho thầy đến làm lễ: một ban thờ thấp có trải vải đỏ và ghế ngồi cho thầy khi làm lễ; một bát nước sạch và nhành thanh táo để thầy vầy khi quét dọn nhà cửa.
4. Các thầy chuẩn bị: Trang phục thầy cúng, mũ vải đỏ; Tranh thờ (thầy Bụt); Quạt Chùm nhạc làm nhạc đệm khi hát; Bộ xin âm dương; Bộ gieo quẻ. Anh em họ hàng tới dự mang theo gạo để chúc mừng gia chủ.
5. Gia chủ chọn người giúp các thầy trong quá trình làm lễ: Người phán khi có thần nhập: ông Hoàng Minh Châu. Người con trai thắp hương trên ban thờ tổ tiên: anh Hoàng Văn Giang. Nàng hương thắp hương phục vụ các thầy: chị Hoàng Thị Mai.
6. Tiến trình nghi lễ
* Công việc chuẩn bị cho nghi lễ chính thức:
Để chuẩn bị cho quá trình hành lễ, ông Bụt chuẩn bị bồ vía cho đầy đủ, chắc chắn. Ông đặt bồ vía vào thúng, ở giữa bồ vía có đặt một dóng tre thẳng, xanh. Ông Bụt giữ dóng tre để lần lượt anh em họ hàng được mời tới dự mang gạo của mình tới đổ vào bồ vía, chúc mừng cho gia chủ, gạo đổ đầy bồ vía sẽ tràn ra ngoài thúng. Sau khi mọi người đã đổ hết gạo vào thúng, thầy bắt đầu cài các lễ vật khác lên trên bồ vía, gồm có: 1 lầu được tết từ cẫng và lá chuối tươi, cầu tre, gương, lược, vòng tay, giỏ đựng bông lúa và giấy bản, cắm roi hoa, lá vía.
Khi xong, thầy đặt bồ vía ngay ngắn trước ban thờ. Phía trái ban có mâm hương để ba bát gạo, bánh chay, bát nước sạch và nhành thanh táo. Phía bên phải đặt áo và túi vía của các thành viên được cúng vía trong gia đình gia chủ.
Lúc này, người con trai đã được chọn bắt đầu thắp hương trên ban thờ tổ tiên và không lúc nào được để hương tắt cho đến khi lễ được hoàn tất.
Nàng hương cũng bắt đầu thắp hương ở ban dưới phục vụ các thầy, cũng không được để hương tắt. Xong việc, ông Bụt bắt đầu vầy nước thanh táo rửa sạch sẽ trong nhà và khu vực làm lễ.
* Nghi lễ chính thức:
Các thầy trong trang phục tế lễ, đầu đội khăn đỏ, tay cầm quạt và chùm nhạc, bắt đầu thỉnh chuông làm lễ. Tất cả các thầy cùng hát, thầy Bụt phải hát đúng, hát chuẩn và hát liên tục (trong suốt thời gian hành lễ thầy Bụt chỉ nghỉ 3 đến 4 lần), hai thầy phụ có thể ngưng nghỉ đôi lúc hoặc cũng có đoạn quên hoặc chưa thuộc thì thầy Bụt sẽ hát đỡ cho. Trước hương đèn rực rỡ, các thầy cùng ngồi và hát thỉnh:
…Hai cô ơi bốn nàng
Ăn miếng trầu tráng miệng
Ăn miếng cau tráng họng
Trầu ngọt miệng xin thưa
Trà ngọt họng sẽ kể
Kể về ông gốc nhà
Kể về bà chủ hộ
Rơi xuống chỗ này là
Y ên Bái chính là tỉnh
Y ên Bình là nơi huyện
Xuân Lai nay là xã
Trung Tâm hiện là thôn
Năm trước sống tốt
Năm ngoái ở yên
Chớp mắt sang năm nay
Cái đau sợ xuống quấy
Cái ốm lo đến gần
Hôm nay hoa mận nở trước nhà
Hoa đào tươi trước ngõ
Kể đến ông gốc nhà
Thứ đến bà chủ hộ
Hơn sáu mươi sợ tai nạn
Ngoài bảy mươi lo hạn
Mười người mười bao gạo
Chín người chín bao thóc
Bịch thiên địa đựng vía
Cả bịch gạo về cho
Cả bồ muối về nộp
Bịch tóc đắp ao trên
Bồ muối chắn khe dưới
Cả cầu sắt giải vận
Cả cầu đồng giải hạn
Cầu mục ta vứt đi
Cầu chắc, cầu tốt ta đem bắc
Cả gốc tre đem trồng
Cả chuối con trồng bên
Tre về trồng đất tốt
Chuối đem trồng đất mát đất lành
Đêm mọc một hai lá
Sáng đâm chồi ba ngọn
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt chồi…
Thứ nữa là con trai
Bên là chàng trai trẻ
Cả hai áo song thân
Cả hai cùng bố mẹ
Ba mươi lo tai
Hơn bốn mươi lo hạn
Trần thế dựng cây tre
Dựng cây danh giải hạn
Có cả lầu một cột
Cả biệt thự hai tầng
Tầng dưới đầy thịt cá
Tầng trên hoa quả đầy
Cả bánh dầy chiếc xinh
Cả bánh giò chiếc đẹp
Thứ nữa đến con trai
Bên là người vợ trẻ
Sinh con có nhiều bề
Sinh được con nhiều lứa
Cả hai áo hai thân
Hai ba người anh em
Lo được hai chén cơm ngũ sắc
Bốn chén nếp nhiều màu
Áo đẹp lên dâng mẹ
Có cả lầu bốn cột
Cả biệt thự nhiều tầng
Tầng dưới nhiều thịt cá
Cả bánh dầy tròn xinh
Cả bánh giò mịn đẹp
Có cả ba gánh rượu
Có cả chín gánh trà
Năm gánh hoa gánh quả
Rượu này ủ giờ ngọ men thơm
Ủ giờ trưa trước bản
Ủ rượu không mắng chó
Ủ trà không chửi trẻ
Ba trưa rỏ nước ngọt
Ba ngày ngọt nước đường
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường Phật
Rượu lên lễ Mường Sjay
Giọt rượu rơi xuống bàn thơm ngát
Giọt rượu rơi xuống bàn mát dịu
Đau yếu có bù nhìn đi thế
Cả hình nộm thế thân
Cả hình nhân thế mạng
Con tổ tổ hãy đỡ
Cháu tổ tổ hãy che
Nòi ta sinh nó khoẻ
Giòng giống ta ta quý
Ở dưới lên không chắp tay không
Không ngửa tay lên rỗng
Tiền đem lên nhiều trăm
Bạc đem lên đếm ngàn đếm vạn…
Hương thơm con lên tìm
Hương hoa con lên thỉnh
Con thỉnh mười thánh gốc
Con thỉnh chín gốc Sjay
Thỉnh đến Sjay xuống nước không trôi
Thỉnh đến quan vào lửa không cháy
Thỉnh đến thánh đầu ghế
Trình Sjay ngồi bàn thờ
Thỉnh Sjay không một lời nào giấu
Trình quan không có câu gì giữ
Mời Sjay xuống trần thế giải vận
Mời Sjay xuống gia đình giải hạn…
Con trẻ mới tập nói
Trai trẻ mới tập lời
Phép không biết cha đỡ
Chữ chưa hay cha bảo…
Thỉnh Sjay đưa đến Mường Tổ được thông
Thỉnh Sjay đưa đến chỗ Mường trên cho lọt…
Sau khi đã cúng thỉnh, bắt đầu lên đường và điểm lễ. Lúc này, các ông thầy trang phục tế lễ, tay phải cầm quạt, tay trái cầm chùm nhạc chuông đứng lên làm động tác mạnh mẽ tựa như tiếng ngựa ra roi hý vang cùng đoàn binh mã rầm rập lên đường:
… Chiếu thấy ta dọi thấy
Phóng tầm mắt ta nhìn
Ba vạn đội mũ sắt lên đường
Bẩy vạn đội mũ gang cùng tiến
Nhà Pựt nhà Sjay
Ba vạn ngồi bẹ chuối không rung
Bảy vạn ngồi đồng tiền không kín
Ngồi hạt đỗ không đầy
Phi ngựa qua lỗ chôn kim đi lại
Xin mời mười quan chủ
Nào mời chín quan Sjay…
Thỉnh Sjay xuống trần thế điểm quân
Thỉnh quan xuống hạ giới điểm lễ
Điểm quân mạnh quân hùng
Điểm lấy lễ chủ nhà cho đủ
Con Pựt chiếu thấy đã nhìn thấy
Phóng tầm mắt ta nhìn
Dây cương chở hai gánh ba khiêng
Nhạc ngựa lên ba khiêng bốn gánh
Một gánh lên dâng trà
Một ngả lên dâng rượu
Mang lên ba gánh rượu
Dâng lên bốn hũ trà
Năm gánh hoa gánh quả
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường tiên
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường Phật
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà dâng lên Mường Sjay
Một gánh lên bồ vía
Một lối lên đáp mệnh
Một lối lên giải vận
Một đường lên giải hạn
Một gánh lên cúng mụ
Một lối dâng mẹ sinh
… Mời tổ đến gian giữa đợi hoa
Mời tổ qua gian ngoài đợi trà
Chập tối sẽ có rượu đến nhà
Gà gáy sẽ có trà đến điện
Chuyển sang bàn nhà Phật
Quay sang bàn thờ Ham
Xin Ham quét gian trong đợi hoa
Quét gian giữa đợi rượu đợi lễ
Chuyển xuống gốc mẹ hoa
Xuống đến mười hai ngả mẹ sinh
Mẹ không lần dây tã xuống đòi
Mẹ đừng lần dây địu xuống khảo
Chập tối sẽ có lễ đến nhà
Gà gáy sẽ có hoa đến điện
Sẽ có áo nhiều màu
Có áo hoa nhiều sắc…
Áo hình vẽ lá hoa
Cơm nếp thơm trắng lốp
Chuyển xuống ghế thừng mực
Xuống đến tận chiếu hoa
Xuống tấm thát bên bếp
Xuống đuôi hổ đệm ngồi
Chuyển xuống nàng Táo Quân
Xuống đến ông Vua bếp…
Chuyển ra tổ bảy đời đại môn
Ra đến quan ngũ đại canh cửa
Tổ bảy đời đứng cửa kê ngoài
Gĩư chắc mình bên trong
Cửa giữ mình cho dầy
Che chở mình cho vững
Cái tốt đẹp về mình
Mọi buồn phiền rời xa
Chuyển ra thích cây tròn
Chuyển đến nơi giàn bắng
Chuyển ra thích gỗ bay
Chuyển xuống thang bảy bậc
Cầu thang ba ngày đóng
Cầu thang bảy ngày lắp
Mới thành lối lên xuống
Mới thành đường minh quân đi lại
Chuyển xuống chốn đất ruộng
Xuống đến chốn đất dày
Xuống đến chỗ thần linh thổ địa
Chuyển xuống chốn gà vịt râm ran
Chuyển qua chỗ trâu bò ngoài bãi
Ra đến giếng nước ăn
Quay sang lần nước uống
Giếng gánh nước đêm ngày
Gái cả bản cười vui
Trai cả mường về hội
Người đến giặt áo
Mọi người về rửa rau
Ngày tiếp ngày vui vẻ
Có anh thấy bóng mình dưới giếng
Đầu bạc trắng tựa hoa lau
Về lấy tay gối đầu quạnh vắng
Chuyển ra chỗ cây mận buộc bò
Chuyển ra chỗ cây bo buộc ngựa
Chuyển ra nơi cây mận hoa trắng
Chuyển ra chỗ cây đào hoa hồng
Quay ra chốn ba sinh
Quay xuống chốn ba sào
Chuyển qua bụi trầu không
Quay ra giàn trầu ngọt
Chuyển ra chốn bụi xỏm nhuộm đen
Chuyển xuống vùng khóm chàm nhuộm mũ
Búi xỏm nhuộm mũ đen
Cây chàm nhuộm mũ sáng
Chuyển xuống chốn gừng già dưỡng lực
Chuyển xuống chốn gừng gié chữa ho
Đến ra chốn thì là dậy phép
Nơi rau hẹ dạy lời
chốn rau dền cuống đỏ
Ngày xưa nàng còn trẻ chê chồng
Đêm nay thấy xôi hồng xôi tím
Chuyển ra nơi vườn mùng thẳng cọng
Chuyển qua nơi ao chuôm trước sàn
Chuyển qua nơi cây cơi cuối bản
Chuyển ra chốn cây dướng bờ ngòi
Lá cơi đem ruốc cá
Vỏ dướng ép giấy thơm
Giấy dướng để thư từ đi lại
Đêm nay viết công hàm đi Hác
Công hàm gửi đi Hác sắp về
Công hàm gửi tổ tiên sắp lại
Sau khi đã lên đường, công việc điểm lễ bắt đầu, lúc này các thầy có thể ngồi xuống và hát:
Xuống đến chốn ruộng lớn điểm quân
Xuống đến chốn ruộng tròn điểm ngựa
Ngựa Sjay đi nườm nượp
Binh quân quan cùng dậy nhất loạt
Ta điểm mỗi đầu ngựa một chữ
Điểm lấy mỗi đầu lừa một dấu
Chữ tam bảo đỏ tươi
Dấu Ngọc Hoàng đỏ chót
Chuyển sang chốn pò ải khiêng hoa
Chuyển đến chốn mường giang gánh lễ
Pò Ải hãy điểm lễ
Mường giang hãy điểm gánh
Điểm lấy của trần thế đủ đầy
Điểm lấy của chủ nhà cho hết
Điểm lây ba hũ rượu
Điểm lấy chín hũ trà
Điểm lấy năm buồng hoa tươi sắc
Điểm đủ người lũ lượt hành trình
Điểm lấy những mình vàng hành lễ
Điểm lấy cả bánh moọc mịn thơm
Điểm lấy cả bánh dầy ngon dẻo
Bánh bầu dợm đuôi én
Bánh ngọt lịm đuôi vàng
Hăm hai loại bánh ngon
Điểm lấy bánh thiên địa cột vàng
Điểm lấy cả bịch gạo lên phù
Điểm lấy cả bịch muối lên nộp
Bịch gạo chắn khe trên
Bịch muối đắp khe dưới
Điểm lấy đôi cầu sắt về đóng
Điểm lấy đôi cầu đồng về bắc
Cầu gãy ta loại ra
Cầu tốt ta bắc vào
Điểm lấy cả cây mệnh lên ươm
Cả chuối con về trồng…
Điểm lấy căn nhà sàn bốn góc
Điểm lấy cả ngôi lầu bốn tầng
Tầng dưới thịt với cá
Tầng trên quả cùng hoa
Cả bánh moọc hồng tươi
Cả bánh dầy tròn đẹp
Điểm lấy căn lầu hoa
Điểm lấy ngôi lầu hạn
Lầu hạn cả hai áo hai thân
Lầu hạn của cả chồng cả vợ
Trần thế dựng cây danh
Trên trời bắc cây vận
Điểm lấy hoa buồng dầy
Điểm lấy chùm buồng trĩu
Điểm lấy vải nhiều màu
Điểm lấy áo nhiều hoa
Áo nhiều màu trăm hoa dâng mẹ
Điểm lấy cả bánh moọc tròn xinh
Điểm lấy cả bánh dầy tròn đẹp…
Điểm lấy cỗ chủ nhà cho hết
Điểm lấy cả hình nộm thế thân
Điểm lấy cả bù nhìn thế hạn
Hình nhân đi thay người
Bù nhìn đi thế ốm thay đau
Thế ông bà cha mẹ con cháu
Thay rủi ro vận hạn cả nhà
Điểm lấy cả con chim con chuột
Cả con dơi con phượng
Con Pựt chiếu thấy ta dọi thấy…
Nhìn thấy chốn cây đa đầu bản
Nhìn thấy chốn cây nhãn đầu thôn
Nhìn thấy ông thổ công
Nhìn thấy ông công sào thổ địa
Ngựa ta đến thổ địa ta dừng
Sjay ta đến thổ công dừng bước
Dừng bước Sjay điểm lễ
Dừng ngựa quan điểm quân
Sau khi điểm lễ vật, nếu thần thánh nhập vào người phán, người đó sẽ phán về những việc hay dở diễn ra trong gia đình gia đình và căn dặn lý lẽ sống sao cho tốt hơn, gia đình giàu mạnh hơn, con người khoẻ mạnh hơn. Sau khi phán xong, thổ công phi ngựa bạch dẫn đường đưa quân lên dâng lễ tổ. Đoàn người lên dâng lễ tổ gồm có: Thổ công, Thổ địa, Công sào dẫn đường, các Pò ải, Mường giang gánh lễ vật, hai nàng Hương và noọng Hải Va mang tư trang, thắp hương, chăm lo cho Sjay. Thầy bắt đầu hát và làm những động tác thể hiện đoàn quân lên đường dâng lễ tổ:
Ngựa ta được thổ địa ta về
Sjay ta được công sào ta lên
Thổ công giữ đầu bản
Công sào quản đầu thôn
Bản người có quân hôn
Thôn mình không được động
Ngựa ta được thổ địa dẫn đường
Sjay ta được công sào dẫn lộ
Bản thổ thổ đi trước
Mường thổ thổ dẫn đường
Dậy thôi ông thổ công
Đi thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa trắng lên đường
Công sào phi ngựa bạch trước Sjay
Dậy thôi đôi Pò Ải gánh gồng
Đi thôi đôi Mường Giang gánh lễ
Pò ải nhấc đòn gánh lên vai
Mường giang đặt đòn gánh lên cổ
Khiêng nặng đi rầm rập
Gánh nặng đi ào ào
Gánh nặng bởi gạo nếp
Chở nặng bởi hoa quả
Gánh nặng đi trước quan
Gánh nặng đi trước Sjay
Dậy thôi ba nắm thóc nuôi ngựa
Sáu cum lúa nuôi lừa
Gà ve vẩy trên đường
Mỗi người mang mình vàng mình bạc
Hai nàng đeo túi áo lên đường
Bốn nàng mang túi vía cùng bước
Dậy đi bát gạo vía
Dậy đi quả trứng mệnh
Mình vàng mình bạc đi đón mệnh
Dậy đi ơi cô nàng pha trà
Dậy đi ơi cô nàng ủ rượu
Rượu này ủ giờ ngọ men thơm
Rượu này ủ giờ trưa men ngọt
Rắc men không mắng chó
Ủ rượu không chửi con
Chim nhạn xuống đỡ vén
Chim én xuống đỡ vùi
Ba trưa ngọt nước mía
Ba ngày rỏ nước đường
Giọt rượu rơi xuống bàn ngát hương
Giọt rượu rơi xuống bàn mát dịu
Dậy thôi nàng thắp hương
Dậy thôi cô chong đèn
Hương tắt em hãy thắp
Đèn tắt em hãy chong
Hương đừng tắt giữa lộ
Đèn đừng lụi giữa đường
Hương tắt em đi thắp
Đèn tắt em hãy đốt
Hương đừng tắt giữa lộ
Đèn đừng lụi giữa đường
Hương tắt em đi thắp
Đèn tắt em đi thế
Dậy thôi gốc Sjay già quản lễ
Đi thôi quan nha môn quản của
Dậy thôi mười thành tổ
Chín thành Sjay dậy cùng một lượt
Chuyển lên gốc nghiến cao
Lên chỗ ngọn diễn cong
Thân diễn làm ống lần ruộng mạ
Ngọn diễn làm vỏ dao chạm rồng
Gốc diễn làm âm dương trần thế…
Chuyển lên nương lưng núi
Chuyển lên ruộng bậc thang
Lên nơi cây dáy dại trên đá
Cây dáy ngứa trên vực
Sinh cạnh gốc cây dáy phát đờm
Ai rơi phải cây dáy sinh ho
Ho lục khục trong miệng
Ho khục khặc trong cổ
Ho thắt cổ gầy còm
Quan Sjay ném cây dáy xuống vực
Quẳng cây dáy xuống khe
Biến thành con cất vó dưới nước
Lên nơi trẻ chăn trâu ruộng thang
Gái chăn trâu ruộng trũng
Trẻ chăn ngựa quên ăn
Gái chăn trâu quên chạc
Trẻ chăn ngựa quên nhà
Gái chăn trâu quên chồng
Đàn ông mắc dây yếm khó về
Đàn bà vướng dây địu khó lại
Chuyển lên xứ cỏ lác cứa chân
Chuyển lên chốn cỏ đa cứa cẳng
Sjay lên không cứa chân
Sjay về không cứa cẳng
Ngựa Sjay quen lên xuống
Quân quan quen đi về
Qua chỗ vịt lặn nước sì sầm
Trâu đằm nước ì oặc
Vịt lặn nước đầm trên
Trâu ngụp nước đầm dưới
Lên chỗ vực quăng chài
Quay lên chỗ câu cá
Được hai ba con cá nàng cười
Giật mấy lần được cá nàng khóc
Khóc đi lại khóc về
Biến thành con cất vó mặt nước
Mới thành cô áo đỏ bờ mương
Mới thành cô áo vàng bến nước
Mới thành nàng yêu tinh hà bá
Con Pựt nhìn thấy rừng hoa trắng
Nhìn thấy xứ gái trai áo trắng
Con đỉa bằng cổ chầy
Con vắt tựa mõ trâu
Cớ sao em lại chết ao trắng
Bởi bố tiếc con vịt đuôi biếc
Bởi bố tiếc con gà hoa mơ
Em phải về chết ở ao trắng
Chỗ này mệnh trời thế chớ câu
Nơi này lậu đường gia đừng ở
Chuyển lên nàng chém cành dọn lối
Chuyển lên cô Lìm là giăng bẫy
Lưới người bày mọi chốn
Lưới người hãy giăng xa chốn này
Chỗ này đường dâng hoa nhà Sjay
Chỗ này lễ hương nhang nhà Bụt
Nơi này nơi con lộ Sjay về
Chốn này nơi con đường Sjay lên
Chuyển lên xứ cây bứa
Vùng rừng xanh cây bền
Vùng rừng xanh cổ thụ
Đến rừng sâu hương quế
Chốn rừng già hương trầm
Miền rừng thơm ngào ngạt
Ngựa Sjay vào rừng cây xanh thẳm
Nhà Sjay gọi lục nhâm thu vía
Lên đến chốn chim én lượn sà
Nơi hang dơi trú ngụ
Chuyến xuống vùng chuối rừng
Ngoặt xuống miền lá dong
Gái đẹp người vào rừng lấy chuối
Gái xinh người xuống khe lấy lá
Tàu dưới vương phân hổ
Tàu trên dính cứt chim
Tàu giữa lá non mềm em chọn
Hái hoa về cống nàng
Ngắt nụ về cống mẹ
Con Pựt nom thấy ta nhìn thấy
La soi thấy la nhìn
Nhìn thấy gốc mồ mả giữa rừng
Nom thấy chốn tổ tiên bên suối
Mồ mả có nhiều ngôi
Ngôi thấp ngôi ông bác
Ngôi cao ngôi ông chú
Ngôi hai bên chú thím
Ngôi chính giữa ông tổ
Ngựa Sjay đến đất mộ ta dừng
Lên đến chốn tổ tông ta xuống
Dừng ngựa Sjay vào trình
Dừng bước quan vào tâu
Dừng chân ông thổ công
Dừng thôi ông công sào thổ địa
Thổ công cưỡi ngựa bạc dừng chân
Công sào phi ngựa trắng dừng bước
Dừng chân hỡi các chàng khiêng lễ
Dừng chân hỡi các giang gánh của
Các chàng khiêng lễ đặt đòn gánh
Các giang nhấc đòn gánh khỏi vai
Hai em đeo túi vía dừng chân
Bốn nàng mang túi vía dừng bước
Dừng thôi bát gạo vía
Dừng thôi quả trứng mệnh
Dừng nhé em pha trà
Dừng ơ cô rắc men ủ rượu
Dừng ơ cô thắp hương
Dừng ơ cô chong đèn
Hai em sửa mâm hoa cho đẹp
Bốn nàng coi đèn hương cho sáng
Dừng thôi gốc Sjay già quản lễ
Dừng thôi quan nha môn quản của
Chín vị thánh cùng dừng
Đoàn đi trước đứng đợi
Quân mã đều dừng chân
Ghìm cương ngựa dừng vó
Quay ngang ngựa đứng lại hết thảy.
Khi đoàn quân lên tới nơi là lúc vào trình tổ, khi vào trình tổ, các thầy ngồi xuống, trang nghiêm trình tổ, đoạn ca trình tổ bắt đầu:
Chập tối từ trần thế lên đến
Khuất mặt gà từ gia đình lên
Xin tổ mở cánh cửa hai bên
Giang cánh cửa hai phía
Mở cửa vàng cửa bạc hai ngả
Hai cô ơi bốn nàng
Mau têm trầu đầy cơi
Hãy bổ cau đầy đĩa
Mời tổ ăn miếng trầu tráng miệng
Ăn miếng cau tráng họng
Trầu ngọt miệng xin thưa
Trà ngọt họng sẽ kể
Kể về ông gốc nhà
Kể về bà chủ hộ
rơi xuống chỗ này là
Yên bái chính là tỉnh
Yên Bình là nơi huyện
Xuân Lai nay là xã
Trung Tâm hiện là thôn
Năm trước sống tốt
Năm ngoái ở yên
Chớp mắt sang năm nay
Cái đau sợ xuống quấy
Cái ốm lo đến gần
Hôm nay ngày 10 tháng 7
Hoa mận nở trước nhà
Hoa đào tươi trước ngõ
Kể đến ông gốc nhà
Thứ đến bà chủ hộ
Hơn sáu mươi sợ tai nạn
Ngoài bảy mươi lo hạn
Mười người mười bao gạo
chín người chín bao thóc
Bịch thiên địa đựng vía
Cả bịch gạo về cho
Cả bồ muối về nộp
Bịch tóc đắp ao trên
Bồ muối chắn khe dưới
Cả cầu sắt giải vận
Cả cầu đồng giải hạn
Cầu mục ta vứt đi
Cầu chắc, cầu tốt ta đem bắc
Cả gốc tre đem trồng
Cả chuối con trồng bên
Tre về trồng đất tốt
Chuối đem trồng đất mát đất lành
Đêm mọc một hai lá
Sáng đâm chồi ba ngọn
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt chồi
Đàn gà trời chẳng lông
Lũ gà trời giang cánh
Thứ nữa là con trai
Bên là chàng trai trẻ
Cả hai áo song thân
Cả hai cùng bố mẹ
Ba mươi lo tai
Hơn bốn mươi lo hạn
Trần thế dựng cây tre
Dựng cây danh giải hạn
Có cả lầu một cột
Cả biệt thự hai tầng
Tầng dưới đầy thịt cá
Tầng trên hoa quả đầy
Cả bánh dầy chiếc xinh
Cả bánh giò chiếc đẹp
Thứ nữa đến con trai
Bên là người vợ trẻ
Sinh con có nhiều bề
Sinh được con nhiều lứa
Cả hai áo hai thân
Hai ba người anh em
Lo được hai chén cơm ngũ sắc
Bốn chén nếp nhiều màu
Áo đẹp lên dâng mẹ
Có cả lầu bốn cột
Cả biệt thự nhiều tầng
Tầng dưới nhiều thịt cá
Cả bánh dầy tròn xinh
Cả bánh giò mịn đẹp
Có cả ba gánh rượu
Có cả chín gánh trà
Năm gánh hoa gánh quả
Rượu này ủ giờ ngọ men thơm
Ủ giờ trưa trước bản
Ủ rượu không mắng chó
Ủ trà không chửi trẻ
Ba trưa rỏ nước ngọt
Ba ngày ngọt nước đường
Rượu lên dâng Mường Tổ
Trà lên dâng Mường Phật
Rượu lên lễ Mường Sjay
Giọt rượu rơi xuống bàn ngát hương
Giọt rượu rơi xuống bàn mát dịu
Đau yếu có bù nhìn đi thế
Cả hình nộm thế thân
Cả hình nhân thế mạng
Con tổ tổ hãy đỡ
Cháu tổ tổ hãy che
Nòi ta sinh nó khoẻ
Giòng giống ta ta quý
Ở dưới lên lhông chắp tay không
Không ngửa tay lên rỗng
Tiền đem lên nhiều trăm
Bạc đem lên đếm vạn
Các em hãy đem chậu ra lót
Đem mâm đồng ra đựng
Chẳng đốt tiền không hoá
Chẳng hoá chẳng thành bạc thành tiền
Bạc về giao chỗ mộ được yên
Tiền về đặt tổ sơn được mát
Được tiền hãy giúp thân
Được bạc xin giữ mệnh
Nhà Sjay đeo túi áo bên mình
Nhà quan ôm túi vía theo Sjay
Con Pựt chào mộ tổ ta về
Ngựa ta nhắc tổ sơn ta lên
Mộ hãy ăn hãy ngồi
Sjay nhắn Sjay lên đường
Tổ vừa ăn nhẩn nha thư giãn
Quan nhắn quan hành lộ…”
Sau khi trình tổ xong, các quan sẽ thu vía lại, các thầy làm động tác thu vía đồng thời ca đoạn hát thu vía:
“…Tổ sẽ đưa vía về
Sjay sẽ đón vía lại
Ba lần xin âm dương
Sáu lần được cả sáu
Bố con rủ nhau về
Anh em rủ nhau lại
Ông con rủ nhau đến
Bà cháu rủ nhau lại
Tốt lắm khi vía về
Anh em rủ nhau đến
Chị em rủ nhau lại
Rủ nhau lời tha thiết
Vung tay lại lon ton
Vía về nhiều không ít
Vía về nhiều khôn buồn
Vía ở tối về sáng
Vía ở đồng về nhà
Tốt lắm…ơi vía về… đón vía lại…
Tiếp đó, nhà Sjay còn hát ghẹo nàng hương:
…Ơ… nắng mường trời nắng gắt
Nắng mường thiên nắng khô nắng khát
Đường mường trời còn dài
Đường mường thiên còn rộng
Cho Sjay xin chén nước lấy sức
Cho quan xin chén trà hương đỡ mỏi
Mấy khi búp hoa nở đẹp hay
Vất vả với nhà Sjay một đám
Ơ… hầu Sjay hầu có mùa
Hầu chồng hầu suốt đời ơ em…
Nàng hương xấu hổ không đối đáp nổi, nhà Pựt lại ghẹo tiếp:
…Ơ… Sao em lấy bẹ chuối làm củi
Lấy rêu chuối làm nước vậy em
Hòn đá ném xuống nước thành quầng
Sao không đáp lại vài câu thế nhỉ?
Sau khi vào trình mộ tổ đã xong, đoàn người lại tiếp tục rời mộ tổ lên đường, qua rừng, qua núi, lên đến xứ kể chuyện tình yêu, lên đến xứ trai côi, gái goá, vào đến mường trai tài, gái giỏi, lên đến xứ 12 em pha trà, 12 cô ủ rượu :
Con Pựt vào trình mộ đã xong
Cương ngựa nhằm mường trên cất bước
Dậy thôi ông thổ công
Lên thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch lên đường
Công sào phóng thuyền hoa vun vút
Dậy thôi đôi trai ải vai khiêng
Đi thôi đôi trai giang vai gánh
Dậy thôi cô thắp nhang
Đi thôi cô giữ lửa
Hai cô rửa mâm hoa cho sáng
Bốn nàng trông mâm hương cho tỏ…
Lên thôi gốc Sjay già quản lễ
Lên thôi quan nha môn giữ của
Dậy thôi mười quan thánh
Chín quan Sjay dậy cùng dậy hết
Chuyển lên chốn bà vượn đuôi dài
Bước đến chốn bà gấu ăn cưới
Ngày xưa bởi dệt vải được giàu
Nay mới thành bà gấu ăn cưới
Lên đến chốn lũ rùa lặn ruộng
Chốn ba ba lặn giếng
Khỉ mẹ dạy khỉ con hái quả
Rái cá dạy rái cá lặn ao
Chó mẹ dạy chó con săn bắt
Rùa mẹ dạy rùa con lặn nước
Ba ba dạy ba ba lặn giếng
Ngọn cây đan ngọn cây dày tán
Lông chân buộc hàng rào gỗ nghiến
Lễ đắt mới thả rùa xuống ruộng
Thả ba ba xuống giếng
Phóng ngựa qua lưng rùa kêu xoà
Phi ngựa qua ba ba kêu xồng
Lên đến chốn khỉ già mặt đen
Lên đến xứ căng bầy đít nhọ
Khỉ lượm quả rừng già
Dựa lưng nhau ăn quả
Sải tay hái từ ngọn đến gốc
Ăn xong lên sườn dốc nằm ngủ
No bụng vào hang lớn nghỉ ngơi
Khỉ mẹ sinh con không tã cũng không địu
Cõng con lấy ngoẵm chân về cõng
Con Pựt nom thấy chốn rừng thiêng
Nhìn thấy xứ rừng già
Cây to bằng cái sàn
To bằng cả cái nhà người ở
Cây rằng: cao hơn lúa
Lúa rằng: cao hơn cây
Cây rằng: cao hơn nhà
Nhà răng: Cao hơn bịch
Cây queng quý làm nhà
Bìm bịp đậu còn rung
Chim chèo bẻo đu vóng còn đổ
Chốn này không có trầu vào lễ
Không có cau vào mời
Gửi lời chào tất cả Sjay qua
Lên chốn anh ngủ mê
Lên nơi gã ngủ gật
Ngủ ba ngày không gật
Ngủ sáu ngày không xoay
Nhà Sjay đổ về trước
Gã quờ quạng đằng sau
Nhà Sjay đổ về sau
Hắn nghều ngoào về trước
Lửa cháy nó biết giúp
Hổ vồ nó biết doạ
Gái đẹp đi qua ngõ
Phải mùi đàn bà liền sinh ốm.
Lên đến xứ kể chuyện tình yêu
Chốn những người con gái con trai
Chốn trâu đực không chuồng
Chốn trai tơ không vợ
Bước lên xứ trai khôn
Lên đến mường gái khéo
Khôn nó khôn lắt léo
Khéo nó khéo đủ đường
Giỏi nó giỏi đủ thứ
Gái này may áo chồng không mướn
May áo quan áo quân không mượn không nhờ
Tay vục nước thành hoa
Tay khoả nước thành lúa
Lên đến xứ trai đần
Chuyển sang mường trai vụng
Đần nó đần đủ thứ
Vụng nó vụng đủ đường
Đóng chuôi dao phải nhờ
Tra cán rìu đi mướn
Đóng con dao nén tám
Tra hái nhét nén ba
Ai muốn lấy thêm còn cho nữa
Chuyển đến xứ gái vụng
Vụng nó vụng đủ thứ
Đần nó đần đủ đường
Lao con thoi một năm
Chải mái tóc một ngày
Sợi vải bằng bờ ruộng
Mặt vải như bờ rào bờ dậu
Chẻ lạt thành lạt lẹm
Trai bá cổ còn khóc
Bước vào mường trai khéo
Khôn nó khôn lắt léo
Khéo nó khéo đủ đường
Lanh nó lanh đủ thứ
Đóng con dao nén tám
Tra hái nhét tám tiền
Ai bán còn mua thêm
Chuyển lên xứ goá vợ quản nhà
Lên đến chốn bà goá quản bản
Trai goá vợ có chày có cối
Lại không sàng không nia
Soỏng rách không biết dặm
Dậu thủng không biết đan
Nhà bà goá không chày không cối
Lại có sàng có nia
Soỏng rách biết dặm đan
Dậu thủng biết chêm sửa
Mỗi người khác bịch thóc cũng ngán
Mỗi người khác căn nhà cũng buồn
Ông goá với bà goá
Lân la hoá vợ chồng
Ví bằng người yêu với người vợ về bén
Vợ đẹp ở cái trán
Người yêu đẹp ở đôi mắt
Chồng chết vợ khóc lăn khóc lóc
Người yêu trên lưng đèo nghe tiếng
Mai có còn chết nữa hay không
Đội tang lây khăn đỏ về thắt
Lấy khăn hồng về đội
Lấy vịt gà ăn chay
Thịt trâu làm đậu phụ
Kẻ giàu chớ vội chê người nghèo
Có việc họ đỡ đần
Hổ bắt lợn giúp đuổi
Kẻ nghèo hãy khoan chê người có
Có cái gì họ cho
Mọi người phi rồng bay phía trước
Phóng lừa bay thẳng đường
Mỗi người mang mình vàng hành lộ
Lên xứ mười hai em pha trà
Mười hai cô ủ rượu
Lên đến cô thứ nhất
Nàng này đưa con thoi một năm
Mắt vải như mắt rào mắt dậu
Khâu áo chồng còn mướn
May áo quân áo quan còn nhờ
Lấy dây sắn về xâu
Lấy cỏ rác về may
Khâu hý ha hý húi
Kim liền đâm vào tay
Lên đến nàng thứ hai
Cô này chân đụng liền đá
Tay cầm ống là quăng
Mắt liếc ngang liếc dọc
Lên đến nàng thứ ba
Cô này ăn hết ba gắp cá nướng
Không bỏ xương cho mèo
Vu cho mèo ăn vụng
Bấm cổ mèo chảy máu
Lên đến nàng thứ tư
Cô này ăn hết bốn quả mít
Không bỏ xơ cho con…
Lên đến nàng thứ năm
Ông vãi đến đầu bản mắng gà
Bà vãi đến đầu nhà mắng chó
Lên đến nàng thứ sáu
Cô này bước ra cửa xiêu nhà
Ra ruộng làm nhà đổ…
Lên đến nàng thứ bảy
Nàng này anh em qua cuối đồng gọi về
Chú thím qua dưới ruộng mời lên
Lên đến nàng thứ tám
Anh em qua cuối đồng sợ lên
Chú thím qua cuối đồng sợ đến
Lên đến nàng thứ chín
Cô này tay khoả nước thành hoa
Tay vục nước thành quả
Chân vẽ thành rồng phượng
Lên đến nàng thứ mười
Nàng này viết chữ được con trâu
Bật dây thành số một
Phát dấu chiếu mặt trời
Lên nàng thứ mười một
Nàng này ra đồng khiến nhà xiêu
Ra ruộng làm nhà đổ
Lên đến cô mười hai
Nàng này đem hoa lên dâng cô
Đem quả về dâng mẹ
Nàng uyển chuyển múa ca
Cô thiết tha dịu dàng
Đem hoa lên dâng cô
Trẩy quả lên dâng mẹ
Hoa sắc đẹp cô nhìn
Qủa ngọt tươi mẹ ngắm
Trời nắng đem ra hong
Trời trong đem ra phơi
Hoa nở tươi cô nhìn
Khuất mặt gà hoa đã đến nơi
Chập tôi liền có quả đến nhà
Em này về nộp của mới an
Nàng này theo nộp lễ mới dứt..
Nhà Sjay hướng đầu rồng phía trước
Giật cương phi ngựa Sjay hành lộ
Nhà Sjay nhìn thấy la nhòm thấy
Nhìn thấy đồng bao la
Nhìn thấy xứ lắc lơ
Nhìn thấy xứ sở này
Khuất mặt gà vào nghe giấc mơ
Ba mươi tết sang giêng
Lấy con gì kêu trước cho tốt
Lấy con gì khai xuân cho phải
Tháng giêng, ba mươi tết
Con gà đen gáy trước
Con gà đen khai xuân
Con gà đen gáy trước không tốt
Con gà đen khai xuân không phải
Con trần thế không yên
Cháu trong nhà không ổn
Chập tối vào nghe mơ
Khuất mặt gà nghe mộng
Xem con gì kêu trước thì tốt
Xem con gì gáy trước thì phải
Con bìm bịp gáy trước
Con bìm bịp khai xuân
Con bìm bịp kêu trước không tốt
Con bìm bịp gáy trước không phải
Con trần thế không yên
Cháu gia đình đau ốm
Vắng gà vào nghe mộng
Xem con gì kêu trước
Con gì về khai xuân
Con mèo đen kêu trước
Con mèo đen khai xuân
Con mèo đen kêu trước không tốt
Con mèo đen khai xuân không phải
Trần thế lắm miệng bằng về sau
Nhà cửa lắm đuôi vằn về quấy
Chập tối vào nghe mơ
Vắng nhà vào nghe mộng
Con chó đen khai xuân
Con chó đen sủa trước không tốt
Con chó đen khai xuân không phải
Chập tối vào nghe mơ
Khuất mặt gà vào nghe mộng
Con gì về kêu trước thì tốt
Con gì về khai xuân thì phải
Nghe thấy con trâu đen kêu trước
Trâu cà đen khai xuân
Con trâu đen khai xuân là tốt
Trâu cà đen khai xuân là phải
Con Pựt nhìn thấy la nhìn thấy
Nhìn thấy chốn đầu rồng nắng đỏ
Nhìn thấy ngả đầu mường khói hồng
Nhìn thấy ba mươi xứ lôi nắng
Tám mươi xứ lôi vàng
Ông lôi con nối vải không tới
Con dệt áo không đụng
Xứ này chín mươi hai mặt trời
Dội nắng xuống trần gian cạn kiệt
Lợn uống nước ống giang
Nai uống nước ống nứa
Mòng chết nắng giữa nương
Khỉ căng chết co quắp cành cây
Gà vịt không nước uống
Trần thế không biết làm thế nào
Chẳng biết tính sao đây
Tìm đến ông lôi nắng
Cậy đến ông lôi lớn
Ông lôi liền giương cung lên bắn
Bắn lên hơn ba chục tầng lầu
Bắn thẳng chín mươi hai mặt trời
Mặt trời lặn xuống biển bặt tăm
Mọi người trên mặt đất tối mù
Chẳng biết đường đi lại làm ăn
Lợn, nai chốn rừng già chết đứng
Chúng sinh nơi trần thế héo hon
Lợn uống nước ống giang
Vịt uống nước ống nứa
Ống giang cứa cổ nai xây sát
Ống nứa cứa cổ vịt có khoang
Mới thành vịt cổ vằn
Mới thành ngỗng cổ dài
Mới thành nai cổ thắt
Vịt ơi, vịt cõng gà sang biển đi gáy
Một mặt trời toả sáng xuất hiện
Mọc nó mọc phương Đông
Lặn nó lặn phường Tây
Khi ấy mới lập tạo đêm ngày
Khi ấy ba mươi ngày mới kể làm tháng
Mười hai tháng là một năm
Khi ấy mới đặt làm ngày canh ngày giáp
Mới đặt làm ngày giáp ngày canh
Ba mươi ô cán vàng
Ba mươi dù tán hoa
Tháng giêng sai giáp nào đi trước
Giáp nào bước theo sau
Mới thành ra lục nhâm thu mệnh
Tháng giêng sai giáp tý đi trước
Giáp dần bước theo sau
Mới phải là lục nhâm thu mệnh
Ba mươi ô cán vàng
Tám mươi dù tán hoa
Tháng giêng sai giáp nào đi trước
Giáp nào bước theo sau
Mới thành ra lục nhâm thu mệnh
Tháng giêng sai giáp tuất đi trước
Giáp tý bước theo sau
Mới phải là lục nhâm thu mệnh
Ba mươi ô cán vàng
Tám mươi dù tán hoa
Tháng giêng sai giáp nào đi trước
Giáp nào tiếp theo sau
Mới thành ra lục nhâm thu mệnh.
Con đường vẫn tiếp tục, khi đoàn người vào mường ngũ cốc thuần hoá các con vật thành vật nuôi trong nhà:
Nhà Sjay hướng rồng bay phía trước
Ra roi phi ngựa bay lên đường
Mọi người mang mình vàng hành lộ
Nom thấy xứ ngũ rồng
Nhìn thấy mường ngũ cốc
Ngũ cốc đang vò đầu
Ngũ cốc tính sao đây
Lấy con gì cày nương nuôi nhà
Lấy con gì cày ruộng nuôi thân
Ngũ cốc lao xuống sàn
Ngũ cốc phóng xuống bãi
Bắt gà đi mắc vạy
Gà mắc vạy chẳng đi
Gà thắng ách chẳng bước
Roi trong tay liền vụt
Gà bay vút vào rừng
Biến thành con gà cỏ
Ngũ cốc lại vò đầu
Giờ biết làm sao đây
Lấy con gì làm nương nuôi nhà
Lấy con gì cày ruộng nuôi thân
Ngũ cốc bắt con mèo thắng ách
Lôi con mèo mắc vạy
Mèo mắc vạy khhông đi
Mèo thắng ách chẳng bước
Roi trong tay liền vụt
Mèo chạy tót vào rừng
Hoá thành cáo bắt gà
Ngũ cốc lại bứt tai
Ngũ cốc lại vò đầu
Gìơ biết làm sao đây
Lấy con gì cày nương nuôi nhà
Lấy con gì làm ruộng nuôi thân
Ngũ cốc phóng xuống sàn
Ngũ cốc lao xuống bãi
Liền bắt chó đi cày
Chó mắc vạy không đi
Chó thắng ách chẳng bước
Tay cầm roi liền vụt
Chó chạy tọt vào rừng
Biến thành con gấu chó
Ngũ cốc lại vò dầu
Ngũ cốc phóng xuống sàn
Ngũ cốc lao xuống bãi
Ngũ cốc bắt bò đi mắc vạy
Bò nào bò mắc vạy chẳng đi
Bò gì bò thắng ách không bước
Quen tay roi liền vụt
Bò chạy tót vào rừng
Hoá thành ra con nai
Ngũ cốc lại bứt tai
Lấy con gì làm nương nuôi nhà
Lấy con gì cày ruộng nuôi thân
Ngũ cốc lao xuống sàn
Ngũ cốc phóng xuống bãi
Ngũ cốc bắt con dê mắc vạy
Dê mắc vạy không đi
Dê thắng ách chẳng bước
Roi trong tay lại vụt
Dê chạy tót vào rừng
Hoá thành con sơn dương
Ngũ cốc lại vò đầu
Gìơ biết tính sao đây
Ngũ cốc phóng xuống sàn
Ngũ cốc lao xuống bãi
Ngũ cốc bắt lợn đi mắc vạy
Lợn nào lợn thắng ách nó chịu
Tay cầm roi liền vụt
Nó chạy tọt vào rừng
Hoá thành con lợn lòi
Ngũ cốc lại bứt tai
Lấy con gì làm nương nuôi nhà
Lấy con gì làm ruộng nuôi thân
Ngũ cốc bước xuống thang
Ngũ cốc lao vào bãi
Ngũ cốc bắt ngựa đi mắc vạy
Ngựa gì ngựa mắc vạy không đi
Ngựa gì ngựa thắng ách chẳng bước
Roi trong tay quen vụt
Ngựa chạy tót vào rừng
Hoá thành con sói núi
Ngũ cốc lại vò đầu
Giừo biết tính sao đây
Ngũ cốc lại xuống thang
Ngũ cốc lao vào bãi
Ngũ cốc bắt trâu đi mắc vạy
Trâu mắc vạy liền đi
Trâu thắng ách liền bước
Con chuột trong bui chuối mách rằng:
“ Lấy dây về xiên mũi mới được”
Con trâu hắt xì hơi ba cái
Từ đấy trâu ra ruộng trước chủ
Chủ chỉ biết vác cày theo sau
Cày bừa đến giờ ngọ
Thả trâu lên lưng đồi ăn cỏ
Ăn hết đồi dây ngọt
Ă hết rừng cỏ thơm
Trâu ăn đến giờ dậu
Khác rủ nhau về chuồng
Con lớn chúng nghiêng sừng vào cửa
Con nhỏ chúng nghiêng tai vào bãi
Khác conkhác cái cọc chúng chầu
Mỗi con mỗi chiếc cột chúng đứng
Từ đó mới nằm sấp đếm trâu
Mới nằm ngửa đếm của
Bờ ao trồng cây luồng
Ngon buông gió đung đưa
Khi ấy gà nhìn vịt đùa phai
Trâu gọi trâu lặn nước
Tạm biệt xứ ngũ cốc
Bước sang mường ngọ cáo
Giết gà mổ vịt lấy cái gì về tra
Lấy chiếc lẹm về tra
Tra đi rồi khảo lại
Tra trước mặt thiên đình
Tra trước mặt tiên sinh
Tra trước mặt tiên sinh tiên đình
Giết mèo lấy cái gì về giết
Giết mèo lấy ống lẹm về tra
Tra đi rồi khảo lại
Tra trước mặt tiên sinh thiên đình
Giết chó lấy cái gì về tra
Giết chó lấy dùi đục về khảo
Khảo đi lại khảo lại
Tra trước mặt tiên sinh thiên đình
Mổ lợn lấy cái gì về mổ
Mổ lợn lấy ống lẹm về khảo
Khảo đi rồi khảo lại
Khảo trước mặt tiên sinh
Khảo trước mặt tiên sinh thiên đình
Ba mươi trâu nhọc vai gieo mạ
Chín mươi trâu nhọc lưng cày nương
Tháng giêng kiếm cây lý
Tháng hai kéo cây phay
Tháng ba bắc máng đưa nước về ruộng mạ
Tháng tư người người đưa gieo mạ
Tháng năm người nhổ mạ đi cấy
Tháng bảy lúa ra đòng
Tháng tám lúa đầy bông
Tháng chín lúa vồng lên trĩu hạt
Tháng mười lúa vàng trải khắp đồng
Người nhộn nhịp đầy mường liềm hái
Người đòn gánh, dậu, bung đầy bản
Gánh về để bịch lớn sau nhà
Gánh về để bịch to trước cửa
Trời mưa hong gác bếp
Trời nắng đem phơi giàn
Khô tốt đem xuống máng đi choỏng
Đem vào cối mới giã
Gĩa nhịp chầy vung vẩy
Gĩa đung đưa uốn mềm
Xôi chín thành dẻo thơm
Mới đem đi xuống cối mà giã
Đưa lên tay nặn vo
Mới thành ra bánh dày chiếc đẹp
Mới nên thành bánh moọc chiếc xinh
Mới thành chiếc bánh dầy đắp vía
Mới thành chiếc bánh moọc bồi mệnh
Bánh dẻo mềm đuôi én
Bánh thơm ngọt đuôi xoè
Mười hai thứ bánh ngọt
Bánh ngọt lên dâng cô
Bánh thơm lên dâng mẹ
Sau khi thuần hoá các con vật trong mường ngũ cốc, đoàn người tiếp tục đến xứ quỷ “ Dà Dìn”. Tại đây, đoàn người phải lừa để lấy cho được cây gậy thần mới mong qua được sông:
Con Pựt nom thấy đã nhìn thấy
Nhìn thấy xứ Dà Dìn ngủ trưa
Mường Dà Dìn ngủ vắng
Dà Dìn ngủ ba ngày không trở
Ngủ sáu, bảy ngày không lật
Dà Dìn ăn là nuốt
Dà Vài ăn chẳng nuốt
Ăn như cò mổ, mổ ba lần mới nghỉ
Rỉa ba lần nó nuốt nó đi
Sjay động đến mới thức
Sjay chạm đến mới tỉnh
Bà cựa làm trời rung
Quẳng tay thành trời chớp
Dà Dìn có chiếc gậy
Chỉ gốc muôn vật chết
Chỉ ngọn liền sống lại
Gậy này đi dâng lễ mới an
Gậy này lên dâng lễ mới lọt
Con Pựt vào cửa trước
Bà lủi ra cửa sau
Con Pựt vào cửa sau
Bà loằng quằng cửa trước
Trộm được dậy Dà Dìn qua phai
Vớ được gậy Dà Vài vượt sông
Dà Dìn ơ… hãy lấy hai ống bắng khoác cổ
Hai cái vò treo khoeo!
Nước ơi… cạn! Cạn! Cho Dà Dìn qua phai
Cạn…Cạn! Cho Dà Vài qua sông!
Nước trên phai liền rút
Nước lòng sông liền cạn
Dà Dìn hai ống bắng khoác cổ
Hai chiếc vò treo khoeo
Nước ơi…dâng! Dâng cho Dà Dìn chết
Dâng!...Dâng! Cho Dà Vài bỏ thân
Nước đầu sông ùa về
Nước mặt phai tràn tới
Dà Dìn ngã bỏ thân
Dà Vài hồn lìa các
Phần nào cuốn theo nước thành đỉa
Mảnh nào rơi trên cạn thành vắt
Đoạt được gậy Dà Dìn qua phai
Lấy được gậy Dà Vài qua sông
Trộm được gậy Dà Dìn hành lễ
Lấy được gậy Dà Vài nộp của.
Sau khi lấy được cây gậy, ra được cửa sông, đoàn quân mới dừng lại để chuẩn bị gọi “sa dạ sa dồng” chuyển lễ vật, bắt đầu công cuộc vượt biển đầy gian lao. Ra đến cửa biển, đoạn hát bắt đầu:
Con Pựt nhìn thấy đã nom thấy
Nhìn thấy chốn chửa biển nắng hồng
Nom thấy chốn bến than cuồn cuộn
Chốn này trăm cửa biển vể thônng
Đôi bên những núi cao lồng bóng
Nước biển đỏ như máu
Nước biển nóng như lửa
Nước giằng đi xé lại
Người phàm không biết sang
Trần tục không biết vượt
Ngựa ta vấp cửa biển phải dừng
Ngựa ta vấp bến than phải đứng
Dừng để gọi Dạ Sa qua than
Dừng để gọi Sa Dồng vượt biển
Dừng thôi ông thổ công
Dừng thôi ông công sào, thổ địa
Thổ công cưỡi ngựa bạch dừng chân
Công sào cưới ngựa trắng dừng lộ
Dừng thôi đôi người khiêng
Dừng ơ… đôi người gánh
Đôi Ải nhấc đòn khiêng khỏi vai
Các Giang nhấc đòn gánh khỏi cổ
Hai cô đeo áo vía dừng đường
Bốn nàng đeo áo via dừng lộ
Dừng ơ… bát gạo vía
Dừng thôi quả trứng mệnh
Hai cô sửa mâm hương dừng đường
Bốn nàng sửa mâm hoa dừng lộ
Dừng ơ… cô pha trà
Dừng thôi cô hầu rượu
Dừng thôi gốc Sjay già quản lễ
Dừng thôi quan nha môn quản của
Mười Sjay gốc cùng dừng
Chín Sjay cùng dừng lại tất cả
Đoàn đi trước đứng đợi
Số đi ngựa dừng quân
Cầm cương ngựa quay ngang
Cầm đầu yên dừng lại tất cả”
Ra tới cửa biển, câu chuyện tiếp tục với đoạn hát “Đốt vàng gọi sa dạ sa dồng” đi biển. “Khảm hải” (vượt biển) bắt đầu từ đây với những đoạn ca bất hủ kể về những cuộc đời và thân phận có thật trong đời sống xã hội tộc người:
Mo choòng liệc sa dạ sa dồng
Ngò liệc thâng sa dạ khảm thông
Ngò liệc thâng sa dồng khảm hải
Làu sjư đếch làu sjư
Làu sjư đếch làu sjó
Sjư mừa sa sa dạ khảm than
Sjư mừa liệc sa dồng khảm hải
Sa dạ dú pù thin liền khan
Sa dồng dú pù sung liền ngoạc
Khoái mà pây khảm hải hẩư quan
Khoái khoái mà khảm than hẩư sjay
Khoái khoái chuyển thu kháu bưởng soa
Khoái khoái chuyển thu khen thu kha bưởng soại
Sa dạ ơi sa dồng
Nhập hồn khảu pựt va khảm hải, lố nò!
Dịch nghĩa :
Đốt vàng gọi sa dạ sa dồng đi biển
Ta gọi đến sa dạ sang than
Ta gọi đến sa dồng vượt biển
Chữ tiếp chữ, lời tiếp lời
Giấy gọi tờ tiếp tờ
Chữ lên tìm sa dạ vượt than
Công hàm tìm sa dồng vượt biển
Sa dạ ở núi đá liền thưa
Sa dồng ở núi cao liền đáp
Mau về đi chèo thuyền vượt biển cho quan
Mau về khuân của sang lò than cho sjay
Mau mau nhập gối phải
Chuyển gối trái, hai tay
Sa dạ ơi sa dồng
Mau mau nhập hồn ta vượt biển…
Sau khi đã gọi ‘‘sa dạ sa dồng’’ đi biển, ‘‘sa dạ sa dồng’’ tự khái quát lên thân phận của mình với những nỗi cay đắng, cực nhục khôn tả xiết, ăn đói, mặc rách, nước mắt lúc nào cũng chảy hai hàng, đi làm việc cho quan không hẹn ngày trở lại, không mong gặp anh em. Đoạn hát giúp người nghe hình dung một cách chân thực nhất về thân phận nhân vật này:
À lới! Đét nàng ơi
Khôm lai đếch khôm lai
Khôm lai them khôm quả lố nò
Chiều lăng pền sa dạ khảm thông
Chiều lăng pền sa dồng khảm hải lố nò
Ngò hăn khôm ăn mính ngò lai
Ngò hăn khôm ăn thân ngò quả lố nò
Công pò mé sinh mà
Chiều lăng au nặm tha dào nả lố nò!
Vằn vằn pây khảm hải hẩư quan
Vằn vằn pây khảm than hẩư sjay lố nò
À lới! Đét nàng ới!
Mọi vằn dám kha pây
Chắc đảy mà là vạ
Chắc nhằng hăn pì noọng lụ đai
Chắc nhằng hăn pì chài rụ bấu, lố nò
Sửa khoá véng pín tao
Khừn vằn hác hộn háo đâư mỉnh, lố nò
Vằn vằn quan xa mà
Chèo lừa va khảm hải
Khỏ bấu thai chằng nhằng
Pó mé sinh hắt lăng pện nỏ
Vằn nạy quan tẻo xa
Vèo ngò mà khảm hải
Bấu kể cần bấu chắc
Bấu bắc mỉnh thâng cần bấu rụ lố nò
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Cay đắng lắm, cực nhục thay
Thân phận nỗi này, sống chết làm sao
Đời hoá thành Sa Dạ sang sông
Kiếp người làm Sa Dồng qua biển
Tôi thấy cay cho phận tôi lắm
Tôi thấy đắng cho phận tôi nhiều
Trời đất ơi, cha mẹ hỡi
Sinh con về nỗi khổ con mang
Lấy nước mắt rửa mặt
Đêm ngày chảy hai hàng
Ngày ngày đi chèo thuyền qua biển cho quan
Ngày ngày khuân của sang lò than cho Sjay
Mỗi ngày bước chân đi
Được trở về, may hoạ
Không mong quay về gặp anh em
Không tưởng được nom mặt anh cả
Quần áo rách lá đao
Đêm ngày bụng cồn cào đói lả
Ngày ngày, quan tìm về
Bắt chèo thuyền qua biển
Khổ không chết mới sống
Cha mẹ sinh ta để làm gì
Hôm nay, quan lại tìm
Gọi tôi về chèo thuyền qua biển
Không nói chẳng ai biết
Không tỏ, chẳng ai rõ thân tôi
Tiếp đó, câu chuyện bắt đầu kể về hai anh em trai nhà nọ sớm mồ côi cha mẹ, sống nghèo khổ nhưng hết mực yêu thương nhau:
À lới! Đét nàng ới!
Vằn cón soong pì noọng
Liệng căn đảy quá kéo cà dèng
Dịch nghĩa :
Ngày nọ, tôi có hai anh em
Như đôi chim tha mồi
Cùng kiếm củi lần hồi nuôi nhau
Thế nhưng sau khi người anh lấy vợ, trở nên giàu có thì bi kịch bắt đầu ập đến, anh sung sướng bao nhiêu thì em khổ cực bấy nhiêu nhưng anh vẫn bỏ mặc người em tội nghiệp, đói nghèo :
Pì chài au đảy mìa
Vằn vằn chắc kin dú hôn hỷ lố nò!
Nhằng noọng khỏ pền thai
Pì bấu dai bấu dử lô nò!
À lới! Đét nàng ới!
Dịch nghĩa:
Rồi anh lấy được vợ
Vun vén ngày càng giàu
Ngày ngày, anh sung sướng
Em khổ tưởng chết đi
Anh không hề nhòm ngó
Bỏ mặc em đói nghèo
Thấy người em chồng khổ cực, rách rưới, chị dâu thương tình, lén mang kim chỉ vá áo cho em:
Pây chèo lừa tặm đăm
Noọng mà thâng pác tu
Pì lùa noọng quảy xỏm tin suôn
Hăn noọng bặng dào dần khát quả lố nò!
Pì lùa tốc nặm tha
Mừng tốp khảu tuổng bá cạ noọng:
“Sjửa áo khát đúc lăng
Khửn lườn pí xa khêm phung hẩư”
Dịch nghĩa:
Đi chèo thuyền đến tối
Em về tới cổng nhà
Tưởng xót em đi xa lâu lại
Tưởng thương em, mong mỏi gặp nhau quý nhau
Chị dâu quấy cong chàm
Bên góc vườn, tay đen
Nom thấy em rách rưới
Chị thương em nước mắt ứa ra
Chị lại gần, khẽ bảo
Vừa nói, tay chỉ lưng áo em:
-“ Rách hết rồi
Lên nhà, chị lấy kim khâu lại, mau em”!
Thế nhưng, chẳng may bàn tay chị dâu đang nhuộm chàm đã in vết chàm đen lên lưng em, người anh về biết được đã ghen tức và giết em trai mình một cách tàn nhẫn:
Ngợ pì noọng điếp căn chắng dèng
Khâư chắc vằn lộm thân tả xác lố nò
Pì chài liền yếm hăn
Phả mừng xỏm đúc lăng noọng áo lố nò!
Pì phát sính bì bồm
Bấu tươn noọng khỏ khôm chập nả lố nò
Liền cạ: “ Nộc choóc kin khảu nua
Pì lùa chùa áo nhạu, lố nò!
À lới! Đét nàng ới!
Phăn phằn pí béc gươm lồng khả
Phăn phăn pí béc chạ lồng au
Hẳm thua noọng pây hỏi chai riềng
Au kha noọng pây khoen chai cọ lố nò!
À lới! Đét nàng ới!
Dịch nghĩa:
Không ngờ tay nhuộm chàm
Lưng em in dấu bàn tay chị
Ai ngờ dấu chàm đen
Anh làm em nên tội
Anh thấy bàn tay chàm
In trên lưng em chú
Anh giận dữ hằm hằm
Xa nhau nay gặp, chẳng chút lòng thương em
Rằng: “Chim sẻ ăn gạo nếp
Em chú tằng tịu với chị dâu”
Hằm hằm anh mang gươm đến chém
Chặt đầu em đem treo ngọn cọ
Chân em treo ở ngọn vông
Mâu thuẫn lúc này đã được nâng lên đến cực điểm và kết thúc rất bi thảm. Đó không còn chỉ là mối quan hệ anh em, mâu thuẫn anh em mà đó là quan hệ giai cấp, mâu thuẫn giai cấp, quan hệ giữa kẻ giàu với người nghèo, mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và bị trị trong xã hội cũ. Thân phận người em được khắc hoạ rất rõ nét, khi sống thì đói rách thảm thương, bị hắt hủi, không nơi nương tựa, khi chết cũng chưa hết khổ. Ở cõi âm, quan phủ lại bắt người em về làm ‘‘sa dạ sa dồng’’ (nô lệ chèo thuyền) cùng đoàn người vượt biển cõi âm, mang lễ vật lên công nạp cho vua Trời:
Vằn thai tằng mường phạ khảu chồm
Vằn thai tằng mường cần khảu dỏm
Noọng thai mừa mường phạ
Chắng biển pền sa dạ khảm thông
Chắng biển pền sa dồng khảm hải
Dịch nghĩa:
Em chết cả mường bản lại xem
Em chết cả mường người đến ngó
Hồn em bay trên không
Mới hoá thành sa dạ sang sông
Mới biến thành sa dồng qua biển
Bắt đầu từ đây, Khảm hải hiện lên cảnh ẩm phủ, cảnh vượt biển ma hung dữ cùng với số phận của ‘‘sa dạ sa dồng’’ trong cái khổ cực, gian nan ấy:
Vằn mừa bấu phén phục loòng đang
Vằn thai noọng kẻ càng chầy nò!
Thua nhằng hỏi chai riềng
Kha nhằng khoen chai cọ
Khôm lai đếch khôm lai
Khôm lai thêm khôm quả lố nò
Dịch nghĩa:
Ngày chết chẳng tấm chiếu bó thân
Ngày chết mang mình trần em đi
Đầu còn treo ngọn cọ
Chân còn treo ngọn vông
Trời đất…ơi, cha mẹ hỡi
Cay đắng lắm, cực nhục thay
Đúng là cái khổ chồng chất cái khổ, chết rồi mà vẫn khổ hơn khi sống khi phải làm thân nô lệ chèo thuyền phục vụ quan:
Thai pây ngợ cạ soác mỉnh thân
Quan tẻo pắt mà thâng hắt tở lố nò
Vằn vằn pây khảm hải hẩư quan
Vằn vằn pây khảm than hẩư sjay, lố nò
Dịch nghĩa:
Ngỡ chết đi là đời được yên
Lại bị quan bắt về làm tớ
Ngày ngày đi chèo thuyền vượt biển cho quan
Ngày ngày khuân của sang lò than cho sjay
Cái đói, cái khổ của thân phận nô lệ chèo thuyền vượt biển được khắc hoạ rõ nét trong lời hát:
À lới! Đét nàng ới!
Khảu bấu nhằng sắc boóc sắc chang
Au lăng pây kin tàng khảm hải
Mìa ngò nhằng bâư yểm đâư đang
Au pây tối đảy sắc boóc sắc chang
Sắc boóc vạy hung hang
Sắc chang vạy pây tàng khảm hải lố nò
À lới! Đét nàng ơi!
Mình ngò pây khảm hải chắng an
Mình ngò pây khảm than chắng mát lố nò!
Vằn lảu sjay chắng xa
Vằn trà sjay chắng liệc lố nò!
Au pẻng đeéc ăn đây
Au pẻng dày ăn miạc
Au lừa bióoc pù va
Pất cáy thêm phòng sa lừa ngần
Mừa chầu sjay mường nưa
Khôm lai tởi chèo lừa khảm hải, lố nò!
Dịch nghĩa:
Gạo chẳng còn đầy ống
Lấy gì để ăn đường qua biển
Vợ chỉ còn chiếc yếm che thân
Cởi trao mang theo đường đổi gạo
Được ống để nấu ăn
Nửa ống để dành phần vượt biển
Chao ơi! Trời đất ơi!
Thân tôi đi vượt biển mới an
Mệnh mình phải chèo thuyền mới mát
Việc lớn Sjay mới tìm
Ngày khó Sjay mới gọi
Mang pẻng đéc cỗ đẹp
Mang bánh giã tròn xinh
Đun đẩy thuyền đầy hoa
Thuyền vàng, bạc, vịt gà… bắt phải chèo đi
Đi hầu chúa bên trên
Cống quan Sjay mường trời
Cay đắng lắm, làm người chèo thuyền qua biển
Cay đắng, khổ sở là thế nhưng vẫn phải ra đi mà còn ra đi nhưng không hẹn ngày trở lại, không biết bao giờ được đoàn tụ, đành để lại lời nhắn với anh em họ hàng, với gia đình vợ con:
À lới! Đét nàng ới!
Vằn pây chắc đảy tẻo rụ đai
Sắng mọi cần dú lăng mát mẻ lố nò
Vằn vằn pây khảm hải nàn mà
Mạy sum cắp mạy sa oóc lèng
À lới! Đét nàng ới!
Mừa hâư chắng đảy quản dảo lườn
Mừa hâư chắng đảy tươn mìa lục
Cỏi dú nớ cỏi dú
Cỏi dủ nở tằng pú đẳm luông
Cỏi dú nớ tằng mường đẳm táng
Cỏi dủ nớ ăn lườn sjí coóc
Cỏi dú nớ ăn đoóc sjí sâu
Còi dú nớ pình ohày sjí chím
Cỏi dú nớ cạu phừn soong sảng
Còi dú nờ ăn mỏ pác phiêng
Cỏi dú nớ ăn kiềng sam lịn
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Hôm nay đi có còn trở lại hay không
Xin chào nhắn anh em ở lại mát mẻ
Đời người đi vượt biển khó về
Không nhìn thấy cây sum cây sa ra quả
Bao giờ được vun vén cửa nhà
Lúc nào được bế con cùng vợ
Hãy ở nhé, xin chào, ở nhé
Ở lại nhé, ông tổ nhà
Ở lại nhé, ông tổ nội
Ở lại nhé, bốn cột bảy kèo
Ở lại nhé, cái nhà bốn góc
Ở lại nhé, cây củi đương hồng
Ở lại nhé, khuôn bếp bốn thanh
Ở lại nhé, cái nồi miệng bằng
Ở lại nhé, cái kiềng ba lưỡi
Trong nhà đã dặn, ngoài ngõ cũng nấn ná chia tay:
Chuyển oóc thâng pác tu
Tằng mọi dường cỏi dú hẩư an
Còi dú nớ pài hà bưởng noọc
Cỏi dú nớ khót thoóc bưởng đâư
Còi dú nờ noọng chắng mà vằn ngoà
Cỏi dú nớ a chắng mà vằn cón
Cỏi dú nờ chất chỏ tu ải
Cỏi dú nớ ngọ tài tu mòn
Cỏi dú nớ ăn sích mạy bay
Cỏi dú nớ ăn đây mạy viền
À lới! Đét nàng ới!
Ăn đây sam vằn hắt
Ăn đây chất vằn tó
Chắng pền ló khửn lồng
Chắng pền tàng pì noọng pây tèo
Dịch nghĩa:
Ta bước chân ra cửa
Nhắn mọi thứ đằng sau hãy ở cho yên
Ở lại nhé, mái cọ bên ngoài che dột
Ở lại nhé, sợi lạt buộc chắc bên trong
Ở lại nhé, em mới đến hôm qua
Ở lại nhé, em mới về hôm trước
Ở lại nhé, tổ bảy đời đại môn
Ở lại nhé, quanh năm đòi canh cửa
Ở lại nhé, sàn ghép gỗ bay
Ở lại nhé, thang cây gỗ viền
Chiếc thang ba ngày làm
Cầu thang bảy ngày đóng
Mới thành lối đi lại
Mới thành lối anh em lên xuống
Đúng là một sự ra đi đầy hiểm nguy rình rập, không biết liệu mình có được quay về nữa không nên đi đến đâu cũng thấy nhớ, nhìn thấy gì cũng thấy thương, chỗ nào cùng thấy gắn bó, yêu thương:
À lới! Đét nang ới!
Dám lồng tháng tài ất
Mừng sjoại ủm lục ỷ thả rà
Mừng soa ủm lục va thả ngò
Chuyển lồng tháng tải soong
Mầư còi ngòi lục ỷ thả rà
Mầư cói ngòi lục va thả ngò lố nò
Dám lồng tháng tải sam
Cỏi dú nớ noọng nhí tằng lai
Cỏi dú nớ noọng chài tằng bản
Dám lồng tháng tài sjí
Cỏi dú nớ bác pả tằng lai
Cỏi dú nớ pì chài tằng mường lố nò
Chuyển lồng tháng tài hả
Cỏi dú nờ bàn khoả tằng lai
Cỏi dú nớ bạn tồng tằng mường lố nò
Chuyển lồng tháng tải hốc
Còi dú nờ pất cáy tẩư cai
Cỏi dú nớ mò vài tẩư làng
Chuyển lồng tháng tài chất
Còi dù nờ tằng sam mặt đí
Cỏi dú nớ tằng sjí mặt đin
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Bước xuống bậc thứ nhất
Tay trái bế con nhỏ đợi chồng
Tay phải ôm con thơ còn dại
Chuyển xuống bậc thứ hai
Mình hãy trông con nhỏ đợi chồng
Mình hãy bế con thơ quay lại
Bước xuống bậc thứ ba
Ở lại nhé, gái nhỏ cả mường
Ở lại nhé, trai tơ cả bản
Chuyển xuống bậc thứ tư
Ở lại nhé, bác bá cả mường
Ở lại nhé, các anh của bản
Chuyển xuống bậc thứ năm
Ở lại nhé, bè bạn khắp mường
Ở lại nhé, bạn bè trong bản
Chuyển xuống bậc thứ sáu
Ở lại nhé, gà vịt dưới sàn
Ở lại nhé, trâu bò dưới bãi
Chuyển xuống bậc thứ bẩy
Ở lại nhé, ba tấc đất chôn nhau
Ở lại nhé, miếng đất bằng ta đứng
Nhắn lại tất cả, gửi lại tất cả để ra đi nhưng ‘‘sa dạ sa dồng’’ vẫn không ngừng than thân trách phận cho số kiếp cực khổ:
Mình ngò khỏ pền thai
Tẩư làng bấu mặt nhù
Pác tu bấu mặt kép
Vằn pây chắc đảy tẻo rụ đai
Lườn cần dú bưởng lăng mát mẻ, lố nò!
Dịch nghĩa:
Thân tôi khổ đến chết
Dưới bãi chẳng sợi rơm
Cổng vườn chẳng vỏ trấu
Ngày đi được trở về may hoạ
Nhắn nhà người ở lại mát mẻ đằng sau
Đoạn đường gian nan, từ biệt gia đình, bản làng để ra đi bắt đầu hiện lên, từ nhà ra đến cổng, từ cổng xuống đến đồng, rồi từ đồng ra biển lớn mênh mông:
À lới! Đét nàng ới!
Chuyển oóc thâng cum tù
Qúa pác tu dí dèng
Lồng thang nà dí dọi
Óóc pác hải dí dường
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Ta bước khỏi mái nhà
Ta chuyển qua cổng lớn
Xuống cuối đồng dùng dằng
Ra cửa biển mênh mông
Ra đến biển là hình ảnh của thuyền, của biển hiện ra với đầy những khó khăn, nguy hiểm cùng với đó là tâm trạng của ‘‘sa dạ sa dồng’’:
À lới! Đét nàng ới!
Nặm hải đeng pền lượt
Năm hải đướt pền phầy
Hắt rừ đây ca nò!
Quân quan dặng pắc hải lý lường
Binh mạ dú pé luông chắc chạy
Lừa ơi! Pây tỷ hâư
Hẩư ngò thả khát châư pện nò
À lới! Đét nàng ới!
Lừa sjay pây puốn bióoc sằng mà
Lừa sjay pây puốn va sằng tẻo
Pé quảng lắc quảng lý
Năm pắn pí sjí phừn
Nặm phoòng tứn lai kha
Mưa hâư lừa chắng mà lố nò
Dịch nghĩa:
Chao ơi! Trời đất ơi!
Nước biển đỏ như máu
Nước biển nóng như lửa
Làm sao được bây giờ
Quân quan đứng cửa biển chói hồng
Binh mã đừng theo hàng sửng sốt
-“ Thuyền ơi, thuyền đi đâu
Để tôi đợi ruột rầu nát tan”
Ôi thôi! Đất thấp hỡi trời cao
Thuyền Sjay đi buôn hoa chưa về
Thuyền quan đi buôn quả chưa lại
Biển rộng lắc rộng lơ
Nước xoáy lao nhiều luồng
Bao giờ thuyền trở lại, thuyền ơi
Đoạn ca tiếp nói lên sự hung dữ của biển cả mênh mông, sự lênh đênh, gian khổ của những thân phận nô lệ chèo thuyền, đồng thời khắc hoạ sự mong manh giữa cái sống và chết:
À lới! Đét nàng ới!
Nặm nhì nhược tò pây
Nặm hải luây tò tèo
Nặm hải đeng pền lượt
Nặm hải đướt pền phầy
Hắt rừ đây hợi mỉnh lố nò
Dịch nghĩa:
Ôi chao, nước hỡi biển trời
Nước “ bì bời” giằng đi
Nước gầm xô vật lại
Nước biển đỏ như máu
Nước biển nóng như lửa
Biết làm sao thân hỡi
Nước đừng kéo lấy tôi, nước nhé
Biết là gian nan, khổ cực là vậy nhưng thuyền tới là phải đi:
À lới! Đét nàng ới!
Lừa sjay pây puốn bióoc ngám mà
Lừa sjay pây puốn va ngám tèo
Mà làu lồng pác hải lồng lừa
Mà làu ham au cúa lồng tảng lố nò!
Dịch nghĩa:
A! Thuyền kia đã về rồi
Thuyền Sjay đi buôn hoa đã về
Thuyền quan đi buôn quả đã lại
Về, ta xuống cửa biển giập giờn
Về, ta khiêng của Sjay xuống tảng
Hiểm nguy không thể tránh khỏi, đường đi vẫn phải đi, ‘‘sa dạ sa dồng’’ tự an ủi, động viên mình vượt qua sóng gió trùng khơi:
Dá lao lăng hợi mính
Dá lao lăng nặm phựn dá lao
Dú bốc bấu kin nguộn mất mính
Bấu kin nguộn tằng kính mất thân
Nặm tốc tát dá lo
Nặm fòng ba dá động lố nò
Dịch nghĩa:
Đừng sợ gì, ta hỡi
Đừng lo gì nước xoáy nước lật, đừng sợ
Ở cạn ta đã không ăn nguộn bỏ thân
Ta đã không ăn nguộn cả cành bỏ xác
Nước dậy thác chớ lo
Nước phong ba “ nàng hương” đừng sợ
Hàng loạt các lễ vật dâng lên quan nhà Trời được các nô lệ chuyển lên thuyền, chuẩn bị vượt biển:
Mà làu ngoày hua lừa oóc bốc
Tốc hua lừa oóc phắng
Lồngg lừa mời thâng pú thổ công
Lồng lố ông công sào thổ tỳ
Thổ tỳ khuý mạ pẹc lồng lừa
Công sào khuý mạ khao lồng tảng
Lồng lố tối pò ải thư tham
Lồng lố tối mường giang thư tháp
Lồng lố pát khảu khoăn
Lồng lố ăn kháy mỉnh
Lồng lố quan tang chế cảo pang
Lồng lố quan nha môn cáo cúa
Lồng lố soong noọng bióoc seo la
Lồng lố soong noọng á seo sjay
Mời nàng nẳng lừa bióoc hẩư an
Mời nàng nẳng lừa va hẩư định
Chèo pây lố chèo pây
Dịch nghĩa:
Về ta kéo đầu thuyền khỏi cạn
Dắt con thuyền ra bến
Xuống thuyền mời đến ông thổ công
Xuống thôi mời đến ông công thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch xuống thuyền
Công sào phóng ngựa trắng xuống tảng
Xuống thôi đôi trai ải vai khiêng
Xuống thôi các trai giang vai gánh
Xuống thôi bát gạo vía
Xuống thôi quả trứng mệnh
Xuống thôi quan Sjay già quản lễ
Xuống thôi quan nha môn quản của
Xuống thôi hai nàng hương
Xuống thôi hai cô nàng hầu Sjay
Mời em xuống ngồi thuyền cho yên
Mời em ngồi tảng bióoc cho vững
Chèo đi thôi, chèo đi
Đã ra đi, lênh đênh trên biển khỏi, các nô lệ chèo thuyền chảng còn biết làm gì ngoài cầu may cho minh được bình an trở về:
Óoc phắng hải nặm luây tó tèo
À lới! Đét nàng ới!
Cụm lừa pây hẩư an
Dá hẩư lừa đúng đính pan khoang
Cụm cùa pây hẩư an thâng tỳ ca nò!
Dịch nghĩa:
Ra cửa biển, nước xô đuổi lại
Hãy thương tôi, đất hỡi trời ơi
Phù hộ cho thuyền đi bình yên
Đừng để thuyền lật ngang chìm người
Đừng để thuyền tròng trành ngả ngiêng
Phù hộ cho thuyền tôi sang bên kia bờ
Lúc này, đoàn người phải vượt qua mười hai rán nước, với nguy hiểm ngày càng nhiều, sự sống ngày cang mong manh hơn. Ở hai rán nước đầu tiên, họ đã phải chống chọi với các loại cá độc hung dữ, nước to, sóng lớn luôn làm con thuyền chao đảo. Các ‘‘sa dạ sa dồng’’ phải gắng sức lắm mới có thể vượt qua:
Rán đầu tiên :
Chèo oóc giàn tài ất
Hăn pia tất kết băng
Pia phặt thang bì bồm
Nặm khửn sung cợ fạ
Dịch nghĩa:
Chèo ra rán thứ nhất
Thấy cá tất vảy mỏng
Đuôi quật búng nước sôi
Nước bắn lên lưng trời
Rán thứ hai:
Chèo pây giàn tải soong
Hăn pia mjàng kết sáy
Pia kẻo pây pền sá
Nặm phòng ba tỳ từn
Nặm phựn khửn nhí nhắng
Mọi cần nẳng hẩư đây dá động
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ hai
Thấy cá miàng vẩy nhỏ
Cá từng lũ kéo đi
Nước ầm ỳ lắc lư
Nước sôi to phùn phụt
Mọi người ngồi cho vững đừng run
Ở rán thứ ba, mối nguy hiểm đã tăng lên với cảnh thuồng luồng nổi cơn thịnh nộ, nước biển đã trở thành biển máu, các ‘‘sa dạ sa dồng’’ kinh hoàng, chỉ còn biết hối thúc mình mau vượt quan sóng gió:
Chèo pây giàn tải sam
Hăn mì ngược hò sjáy kin cần
Nặm sì sùm fòng đeng
Khoái khoái làu chèo pây hẩư khói
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ ba
Thuồng luồng nổi phong ba ăn người
Nước trồi lên như máu
Ta chèo mau vượt khỏi nơi này
Đến rán thứ tư, mọi thứ có về hiền hoà hơn, ta đã nghe tiếng gà gáy, nước biển chỉ còn vỗ ầm ì, sự sống dường như đã hiện ra:
Chèo thâng giàn tài sjí
Đảy nhìn cáy thủ thí khăn tàn
Đảy nhìn cáy dương gian khăn rọn
Nặm pé coỏng nhí nhắng
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ tư
Nghe tiếng gà dương thế gáy ran
Nghe tiếng gà dương gian gáy rộn
Nước biển vỗ ầm ỳ
Sang rán thứ năm, tiếng gà mường Trời đã rõ hơn như thúc giục các ‘‘sa dạ sa dồng’’ mau mau tới đích:
Chèo pây giàn tài hả
Đảy hăn cáy mường fạ khăn sung
Đảy hăn cáy mường bân khăn dặng
Chèo pây dá đảy chắng tó tèo ca nờ!
Dịch nghĩa :
Chèo đi rán thứ năm
Nghe tiếng gà mường trời gáy cao
Nghe tiếng gà mường thiên hỗn độn
Chèo đi, đừng nấn ná nơi này
Tưởng được bình an nhưng không đó chỉ như một bước chuẩn bị để đón nhận sự nguy hiểm mới mà rán thứ sáu đang chờ đợi:
Chèo pây giàn tài hốc
Hăn mì nặm lài sáy mòng mu
Chèo pây lố chèo pây
Mọi cần căm cốc chèo hẩư mắn
Nặm tốc tát dá lo
Nặm fòng ba dá động
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ sáu
Thấy nước vằn mông mốc
Xé nhau đục vật vờ
Chèo đi thôi,chèo đi
Mọi người cầm cán dầm cho vững
Nước cuộn thác chớ lo
Biển nổi bão phong ba đừng run đừng sợ
Tới rán thứ bảy thì biển ác, quỷ dữ xuất hiện bủa vây, đe doạ tính mạng, họ phải tự cứu lấy mình bằng cách mang vàng, bạc, châu báu ra chuộc hòng thoát thân:
Chèo pây giàn tài chất
Nặm fòng lu ác quả
Tỳ nạy mì ngọ chỉ te phống
Tý nạy mì ngọ lồm té kéo
Khoái khoái au ngần chỉa lồng loòng
Khoái khoái au nhàu làng thể mình
Đảy ngần cỏi pà thân
Đảy chèn cỏi hẩư thôi ca nờ!
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ bảy
Nước ào kéo ầm ầm
Nơi đây có ngọ quỷ chặn đường
Nơi đay có ngọ lồm bủa vây
Chực ăn người đi biển
Chực nuốt mảng nuốt thuyền
Mau mau lên lấy tiền ra thế
Đem vàng bạc ra lễ chuộc thân
Có bạc mới được qua
Vừa thoát khỏi hiểm nguy, sang rán thứ tám, đoàn người lại gặp sức nước xoáy dữ ầm ầm, ào ào:
Chèo pây giàn tài pét
Nặm pắn pí cợ dảo
Nặm hộn háo fòng ba
Nặm tốc lồng Long Vương
Khoái khoái chèo lừa pây hẩư khảm lố nò!
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ tám
Nước đổ xuống ầm ầm
To hơn bịch đựng lúa
Nước xoáy dữ ào ào
Nước thét gào kéo xuống Long Vương
Nhanh nhanh tay chèo qua vượt khỏi
Vừa ra khỏi vực sâu của chốn Long Vương, ở rán thứu chín, sức mạnh của những cột nước còn hung dữ hơn nhiều, nước như nuốt chửng đoàn người, như lôi lấy thuyền, những người nô lệ chèo thuyền chỉ còn biết kêu xin biển cả mênh mông đừng giết chết mình:
Chèo pây giàn tải cảu
Nặm khửn sung cợ fạ
Nặm fòng ba rì rồm
Pé ơi, dá đảy khả ngò nờ
Dá hẩư lừa đúng đính pan khoang
Dá hẩư lừa tốc chang nả pé a nờ!
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ chín
Trông thấy nước dựng đứng chấm trời
Khắp mặt biển nước sôi gầm réo
Biển ơi, đừng giết tôi
Nước hỡi, nước đừng lôi lấy thuyền
Đừng cho tôi bỏ thân chốn này, biển hỡi
Qua rồi, ta chèo đi
Qua được rán thứ chín, tiếng hát của ‘‘sa dạ sa dồng’’ đã trở nên thanh thản, nhẹ nhàng, tâm trạng trở nên vui vẻ, phấn chấn hơn, tay chèo khoẻ mạnh, đều đặn hơn, niềm vui sống tăng lên, nỗi sợ hãi tan dần:
Chèo pây giàn tài slíp
Nặm phân phất bên pay
Bặng lừa khay sjí coóc
Giàn tốc giàn dí dòng
Dịch nghĩa:
Chèo đi rán thứ mười
Thuyền lướt theo nước trời băng băng
Cán rầm tung bốn góc
Rán lại rán bay đi
Sang rán thứ mười một, dường như biển không còn đủ sức đe doạ đoàn người nữa, thuyền vẫn hướng về phía trước, với niềm vui, niềm tin và hy vọng tới đích của các ‘‘sa dạ sa dồng’’:
Chèo pây giàn sjíp ất
Fòng tốc fòng chắc chạy
Nặm tẹp mà tốc lăng
Chèo khoái lố chèo pây
Hẩư lừa làu thâng phắng cỏi an
Chèo hẩư thâng đon sài còi tổ lố nờ!
Dịch nghĩa:
Chèo đến rán mười một
Sóng đuổi sóng xô đi
Nước đuổi về sau lưng
Chèo mau lên chèo cố
Cho thuyền đến cửa biển ta dừng
Cho thuyền đỗ bãi cát vàng bình an
Chèo đến rán thứ mười hai, niềm tin, hy vọng đó đã trở thành hiện thực với tiếng reo vui duy nhất của cả trường thơ:
Chèo thâng giàn sjíp soong
Chèo khoái lố chèo khoái
Chèo đếch dớ chèo báo
Dịch nghĩa:
Chèo đến rán mười hai
A! Bờ biển kia rồi
Ta chèo mau lên thôi
Sau đó là cảnh thuyền cập bờ, lời ca lúc này như có phần an ủi, vỗ về, sai khiến nhưng lại rất trìu mến, thân mật của quan quân xứ âm. Ta nghe như thân phận của ‘‘sa dạ sa dồng’’ sắp được sung, sắp hết nỗi gian truân, khổ cực:
Chèo đếch mà ngò páo
Chèo báo mà ngò son:
“Khoái lố! Ngoáy hua lừa khảu bốc
Tốc hua lừa khảu phắng
Chèo lừa khảu đon sác bửa chai
Chèo lừa khảu đon sjài bửa loạn”
“Mời nàng hương soong a
Mời noọng còi pù bióoc khửn la
Mời a còi pù va sjeo sjay”
Dịch nghĩa:
Chèo mau lên, hỡi người trai trẻ
Trai trẻ hãy lắng tai
Trai trẻ nghe tôi bảo
Lại đây nghe tôi dạy
“ Mau lên ta kéo thuyền vào cạn
Cùng lôi tảng vào bến
Kéo thuyền vào bãi cát chói hồng
Kéo thuyền vào bãi bướm vàng vờn bay”
“ Mời nàng hương hai cô
Mời em hãy ôm hoa lên bến
Mời nàng hãy ôm hương hầu Sjay”
Cảnh tượng cập bến thật đông vui, tấp nập, người nói, người mời, người ôm hoa, ôm hương, gánh gồng tấp nập, rầm rập lên bến, ra thuyền:
Quân quan khửn făn fi
Mè nhình là căm chúp oóc lừa
Pò chài là căm ô oóc tảng
Ham háp khửn nhí nhắng sjeo sjay
Cúa miạc háp au pây hẩư cần lố nò!
Dịch nghĩa:
Quan quân lên bời bời
Đàn bà là cầm nón ra thuyền
Đàn ông là cầm ô lên bến
Tay trái xách giày hoa ra tảng
Tay phải xách giày đẹp lên bờ
Gánh gồng lên rầm rập theo Sjay
Bao của quý khiêng đi lễ người
Đó là cảnh sống giàu sang, sung túc của các quan âm phủ, họ có người phục dịch, có của cải đầy vơi nhưng thân phận ‘‘sa dạ sa dồng’’ khi đã chèo thuyện vượt qua biển dữ cập bến thì chẳng ai đoái hoài, lại một mình ngồi trơ bên bờ biển ngắm đường về nước cuốn gầm rung:
Sjíp soong giàn khảm quá
Chắng chắc thân sa dạ đảy nhằng
Chắng chắc thân sa dồng đảy sổng lố nò!
Binh mạ sjay nhì nhằng
Kẻo khảu chợ Đường Chu
Nhằng ngò dú bưởng lăng
Nẳng nả pé viến khoăn viến mỉnh lố nò!
Khôm lai tởi sa dạ khảm thông
Khôm lai tởi sa dồng khảm hải.
Dịch nghĩa:
Mười hai rán qua rồi
Bây giờ mới biết tôi sống sót
Binh mã Sjay rầm rập
Kéo vào chợ Đường Chu
Sau lưng trơ lại tôi
Ngồi bên bờ biển đất trời mênh mông
Tự than thân trách phận
Cay đắng lắm đời Sa Dạ Sa Dồng
Chèo thuyền qua lò than, qua biển
Nhìn đường về, nước cuốn gầm rung.
Sau khi qua cơn vượt biển vô cùng gian nan, dâng được lễ vật lên cõi trên, đoàn người vào chợ Đường Chu để mua sắm các lễ vật, phục vụ cho việc giải hạn. Thầy Bụt tiếp tục ca:
Con thỉnh Sjay gốc đàn
Cháu thỉnh quan đầu ghế
Thỉnh đến quan xuống nước không trôi
Quan vào lửa không cháy
Người tài bận việc khác
Người đẹp thì về xuôi
Mỗi mình con đi bản
Con trẻ mới tập nói
Trai trẻ mới tập lời
Câu được lại câu chăng
Phép không tới cha giúp
Chữ chưa lọt cha sửa
Tứ linh quay về nhập con quan
Tứ linh quay về nhập con hoa
Nhà Sjay qua biển cả đã thông
Nhà Sjay vượt bến than đã lọt
Gà vỗ cánh trong chuồng
Gốc Sjay già nộp lễ
Vịt vỗ cánh trong quây
Quan nha môn nộp của
Sjay ta lên tận nhà
Nhà Sjay chiếu thấy ta dọi thấy
Nhìn thấy đôi cầu sắt trên trời
Nhìn thấy đôi cầu bạc lưng không
Nhìn thấy chốn khảo sát tình yêu
Nom thấy nơi vật cấn gái trai
Những ai có tình yêu
Sang cầu Kiều mới được
Ai không có tình yêu
Ngồi cầu Kiều thui thủi
Gà con có mấy lông
Người yêu có mấy chàng
Gà con có mấy đực tốt lông
Người yêu có mấy chàng tài giỏi
Trời nào trời không sao
Gái nào gái không trai
Thiếu gì gái ôm gối một mình
Thiếu gì người chưa có người yêu
Ngồi cầu Kiều vò võ
Ai có được người yêu
Sang cầu Kiều mới được
Em nàng hương theo ta
Các nàng hương mang mâm hoa theo Sjay
Gà con có mấy con
Gà con có mấy đực tốt lông
Hỡi em có mấy chàng trai đẹp
Trời nào trời không sao
Gái nào gái không trai
Người nào có người yêu
Sang cầu Kiều mới được
Thiếu gì người chưa có người yêu
Ngồi cầu kiều đơn chiếc
Ba mươi sáu chước
Tám mươi hơn mưu
Một chước dù chết Sjay phóng qua
Chảo dầu sôi sùng sục
Vạc dầu lửa đùngđùng
Chảo sôi không người đảo
Vạc đun chẳng người lấy
Phóng ngựa lên đầu chợ Đường Chu
Thuyền bay, mảng phóng là con Pựt
Chốn Đường Chu làm dễ
Cơm đường Chu ăn ngon
Lửa Đường Chu sưởi ấm
Củi không nhóm khác hồng
Lửa không thổi khác cháy
Thiếu gì gái không chồng có con
Đồng tiền dăm ba bảy con lợn
Nơi này quả phong lưu khác lạ
Lạt bụng rơi xuống nước thành cá
Dặm gianh rơi xuống nước thành thóc
Chốn Đường Chu làm dễ
Xứ Đường Chu ăn ngon
Lửa Đường Chu sưởi ấm
Phóng ngựa vào giữa chợ Đường Chu
Như mảng bay nhà Pựt
Đến hàng ông bán sắt mặt đen
Ông bán vó mặt rỗ
Ông bán dao mỏng môi
Người bán dùi miệng tròn
Anh bán nồi miệng bằng
Người bán kiềng mặt vênh
Quay sang chỗ hàng vịt, hàng gà
Qua hàng lợn, hàng ngỗng, hàng ngan
Chuyển lên chỗ hàng lụa, hàng là
Sang hàng vải, hàng vóc
Chuyển đến hàng áo hoa trăm vẻ
Áo hồng tươi nghìn màu
Tuyển lấy áo hoa đẹp
Chọn lấy hoa nặng chùm
Tuyển lấy hoa trĩu cành
Phi ngựa ra khỏi chợ Đường Chu
Lướt thuyền qua đuôi hổ nhà Bụt
Lên đến mường hai em quản hoa
Mười hai nàng mẹ sinh
Mẹ nào được chia hoa xuống trần
Nàng nào được chia hoa xuống thế
Theo Sjay lên nhà lớn lĩnh rượu
Lên đến mẹ Hoàng ca
Lên đến nàng Hoàng đế
Có phải nàng chia hoa xuống trần
Có phải nàng sẻ hoa tới nhà
Theo Sjay lên lầu cả lĩnh trà
Theo quan lên nhà lớn lĩnh hoa lĩnh rượu
Lên đến mẹ Xích ca
Lên đến nàng Xích đế
Có phải mẹ ban hoa xuống nhà
Trao hoa xuống gia đình này chăng?
Theo Sjay về nhà cả lĩnh trà
Theo quan lên nhà lớn lĩnh hoa nhận rượu
Lên đến mẹ Thánh ca
Lên đến nàng Thánh đế
Bà có được chia hoa xuống trần
Nàng có được chia hoa xuống thế
Theo Sjay lên lầu lớn lĩnh trà
Theo quan lên lầu cả lĩnh hoa lĩnh rượu
Lên đến mẹ Hắc ca
Lên đến nàng Hắc đế
Mẹ này được chia hoa xuống nhà
Có phải nàng trao hoa xuống thế?
Theo Sjay lên nhà lớn lĩnh trà
Theo quan tới lầu cả lĩnh hoa nhận rượu
Lên đến mẹ Bach ca
Lên đến nàng Bạch đế
Có phải mẹ chia hoa xuống nhà
Phải chăng nàng chia hoa đến cửa
Theo Sjay lên lầu cả lĩnh trà
Theo quan lên nhà lớn lĩnh hoa lĩnh rượu
Chuyển lên bà dệt vải che mắt
Chuyển lên bà dệt chăn che mặt
Bà này đừng gieo hoa xuống thế
Bà này chớ chia hoa xuống nhà
Bà này trao chỗ khác
Sinh người sinh khác nơi
Chuyển lên mẹ thuyền hoa
Lên llên nàng trôi mảng
Mẹ này khéo gieo hoa xuống trần
Nàng này khéo chia hoa xuống thế
Theo Sjay lên nhà cả lĩnh trà
Theo quan lên lầu lớn lĩnh hoa nhận rượu
Lên đến mẹ lầu hoa
Lên tới nàng lầu thử
Đến tới mẹ lầu hoa
Bước sang nàng mụ chéo
Mẹ nào được trao hoa xuống nhà
Cô nào nào được ban hoa đến cửa
Theo Sjay tới lầu cả nhận trà
Theo quan lên lầu lớn lĩnh hoa nhận rượu
Giờ đây hoa đầy gian mẹ trông
Hoa đầy nhà mẹ nom mẹ giữ
Có cả áo lắm sắc nhiều vẻ
Hoa hồng sắc nhiều màu
Áo lắm hoa dâng mẹ
Trời hửng mẹ đem phơi
Trời nắng mẹ ra trông
Hoa dâng mẹ đầy nhà
Trà cùng rượu đầy điện.
Sau khi vào chợ mua sắm đầy đủ lễ vật, công việc giải hạn bắt đầu để cầu mong cho tai qua nạn khỏi, gia đình mạnh khoẻ, đầm ấm yên vui. Thầy hát:
Hương thơm con lên tìm
Hương hoa con lên thỉnh
Con thỉnh mười gốc thánh
Thỉnh tới chín gốc Sjay
Thỉnh đến Sjay xuống nước không trôi
Thỉnh đến quan vào lửa không cháy
Thỉnh đến thánh đầu ghế
Trình Sjay ngồi bàn thờ
Thỉnh Sjay không một lời nào giấu
Trình quan không một câu gì giữ
Mời Sjay xuống trần thế giải vận
Mời Sjay xuống gia đình giải hạn
Kể có sinh có mệnh
Nơi có gốc có cành
Kể về nơi gốc tích gia đình
Sư tổ sinh hoàng gia là kể
Kể về nơi ông tổ gốc nhà
Bà gốc chủ gia đình
Sáu chục tuổi sợ vận
Hơn sáu chục tuổi lo hạn
Sợ hạn- hoa lần tới
Sợ vận hoa xuống tìm
Bồ câu sợ chết đói
Bạch hạc sợ chết khô
Lo căng rừng chết đói
Trần thế dựng bịch thóc lên bù
Dựng bịch muối lên nộp
Có cầu sắt lên bắc
Cả cầu đồng lên đóng
Cả gốc tre lên trồng
Cả chuối con lên trồng
Chuối lên trồng đất tốt
Tre đem trồng đất mát đất lành
Nhà nhiều sinh nhiều số
Có nhiều gốc nhiều cành
Có sinh con nhiều lứa
Có sinh cháu nhiều bề
Có con trai trong nhà
Có nàng dâu trong buồng
Hơn bốn mươi sợ nạn tai
Ngoài bốn mươi lo hạn
Sợ vận hoa lần tới
Lo hạn hoa đến tìm
Chúng sinh có nhiều con nhiều số
Sinh nhiều mệnh nhiều cành
Thiên cổ tạo bồ thiên
Mường thiên tạo giữa trời
Mẹ hoa có chia hoa xuống nhà
Mẹ hoa có trao hoa đến cho
Cả hai áo hai thân
Hai ba người anh em
Mười mấy sợ có tai
Hơn hai mươi lo hạn
Đông- Tây- Nam- Bắc cả bốn phương ta giải
Cả năm lành chảy suốt
Cả đời toàn gặp may
Cái đau không xuống quấy
Ốm yếu không dám màng
Sung sướng chảy về mình
Lo sầu tan bay biến
Đau yếu có bù nhìn đi thế
Có bù nhìn một mắt
Bù nhìn đi thế thân
Thế ốm đau bệnh tật u sầu
Thế cho cả ống to ống nhỏ
Thế cho cả lớn bé trong nhà
Ba năm không đòi rượu
Năm năm không đòi hoa đòi lễ
Nhà Pựt xuống trần thế giải vận
Con quan xuống gia đình giải hạn
Nhà Sjay xuống giải vận được an
Nhà Sjay xuống giải hạn được mát
Dậy thôi ông thổ công
Đi thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch lên đường
Công sào phi ngựa trắng hành lộ
Đi thôi đôi trai ải vai khiêng
Đi thôi đôi mường giang vai gánh
Hai cô đeo áo vía lên đường
Bốn nàng đeo áo mệnh hành lộ
Dậy thôi bát gạo vía
Dậy thôi quả trứng mệnh
Nàng áo vàng áo bạc đón mệnh
Đi thôi cô em gái hầu trà
Ơ… cô nàng hầu rượu
Dậy thôi gốc Sjay già nộp của
Đi thôi quan nha môn điểm lễ
Mười ông chủ cùng dậy
Mười ông Sjay cùng dậy đồng loạt
Dậy thôi đôi người khiêng
Đi thôi đôi trai trẻ vai gánh
Trai ải mang gồng gánh qua nhà
Vợ ải nấp đằng xa trộm ngắm
Aỉ mang gánh qua đồng
Vợ ải nấp bờ đầm nhìn trộm
Trai ải vào chia khiêng chia gánh
Chia bịch thiên bịch sang
Chia về bịch ngọc hoàng một cột
Chia cả bịch gạo đầy về cho
Chia cho cả bồ muối về nộp
Bịch thóc đắp ao trên
Bồ muối đắp khe dưới
Bịch thóc ông chủ nhà
Bồ muối bà chủ hộ
Cả cầu sắt về đóng
Cả cầu đồng lên bắc
Cầu gãy Sjay vứt ra
Cầu mục Sjay ném đi
Ta lấy cầu vững tốt vào thế
Cầu sắt ông góc nhà
Cây mệnh bà góc cửa
Nước vỗ rễ không rung
Đêm mọc một hai lá
Sáng đâm ngọn ba ngọn
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt chồi
Cây mọc lên cao vút
Trăng lên cây vẫy gió hiên ngang
Đi đâu có người đón
Ra đường có người gọi người mời
Chuối vía bà chủ hộ
Chuối đem trồng sau nhà
Chuối đem trồng bờ ao trước thổ
Ve sầu không cắt ngọn
Đom đóm không cắt lá
Từ nay quản lộc mệnh cho khoẻ
Từ nay quản năm tháng cho rộng
Cả hai cặp bốn vía
Cả bốn vía vợ chồng
Xuống sàn chẳng vịn thang
Đi xa không cần gậy
Ra đồng chẳng mỏi chân
Đi ruộng không chồn gối
Cái năm qua cho trọn
Cài kỳ hạn cho vẹn
Lộc mình cho nó khoẻ
Trường sinh cho nó vững nó bền
Đêm nay tạo lộc mệnh cho khoẻ
Đêm nay ban năm tháng cho rộng
Lộc mệnh cả hai áo hai thân
Trường sinh cho cả chồng cả vợ
Lộc mệnh được nhiều sinh nhiều số
Cả nhiều cây nhiều cành
Cây sinh con nhiều bề
Cây sinh cháu nhiều lứa
Sinh về được con trai
Sinh về có con gái
Cả hai áo hai thân
Cả hai người chồng vợ
Hơn bốn mươi lo tai
Ngoài bốn sợ hạn
Bịch thiên địa không rỗng
Bồ ngọc hoàng chẳng cạn
Bồ câu không chết đói
Bạch hạc chẳng chết khát chết khô
Căng khỉ không chết héo
Có cầu sắt lên lót
Có cầu đồng lên bắc
Cầu mệnh cho hai áo hai thân
Cầu mệnh cho cả chồng cả vợ
Cầu mệnh ông chủ nhà
Cầu mệnh bà chủ hộ
Cầu mục ta vứt đi
Cầu tốt cầu mới ta đem bắc
Ta tạo cho lộc mệnh bền vững
Ta tạo cho năm tháng rộng dài
Lộc mệnh cũ hai áo hai thân
Lộc mệnh của cả hai vợ chồng
Ra đồng không mỏi chân
Đi ruộng không chùn gối
Xuống sàn không vịn thang
Đi xa không chống gậy
Ta trao cho lộc mệnh khoẻ khoắn
Ta trao cho năm tháng rộng dài.
Nhà Pựt nhìn thấy. Kìa! Nhìn thấy
Nhìn thấy kia cây đa giữa trời
Nhìn thấy chốn cây si giữa bản
Cây đa ba mươi gậy
Cây si cung trăng chín mươi cành
Chín mươi gậy về gốc
Bảy mươi gậy về bản
Diều hâu tha vịt tha gà về ngọn
Cát tha trâu tha bò về gốc
Mới thành xứ “ Mật” loạn
Mới thành những linh hồn loạn lạc
Mật chết đuối trên sông
Mật đắm thuyền bến dưới
Mật ngã cây chết đói
Mật ngã quả chết co
Mật thắt cổ thè lưỡi
Mật mới chết giữa đồng không chăn
Mật chết giữa đồng không không liệm
Quá lến chốn hành tinh
Phi qua chỗ ngũ đạo hành khiển
Phóng lên vùng linh hồn tai nạn
Vượt lên chốn ma gà
Lên đến chốn Phạm Nhan
Vượt qua quan ngũ hải
Lến tới chốn vua ba
Vượt qua nàng hành khiển
Lên đến nàng chúa ba
Vượt qua cô chúa nguyền
Vượt qua miền cô ba
Lên đến chốn hà bà yêu tinh
Nhà Pựt nhìn thấy ta nhìn thấy
Nhìn thấy gốc cây mạ
Nhìn thấy gốc tổ tiên bên ngoại
Sjay ta gặp tổ ngoại dừng chân
Quân ta gặp tổ tông dừng bước
Dừng ngựa vào xin vía
Dừng lại xin lá bùa đắp mệnh
Dừng chân ơ…thổ công
Dùng ngựa thôi công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch dừng đường
Công sào cưỡi ngựa trắng dừng lại
Dừng lại thôi trai ải vai khiêng
Dừng nhé đôi trai giang vai gánh
Dừng ơ… nàng thắp hương
Dừng thôi em thắp đèn
Dừng thôi ông tổ nhà
Dừng thôi gốc tổ nội
Hai em đeo túi vía dừng đường
Quan tổ nâng túi vía dừng bước
Dừng ơ… bát gạo vía
Dưng ơ… quả trứng mệnh
Cốt lõi giấy đón vía
Cốt vàng cùng cốt bạc đón mệnh
Dừng lại ông Sjay già nộp lễ
Dừng lại quan nha môn nộp của
Mười Sjay chủ cùng dừng
Chín Sjay chủ dừng lại tất cả
Đoàn đi trước đứng đợi
Toán đi sau dừng quân
Mọi người cầm cương ngựa quay ngang
Mọi người cầm đầu yên dừng lại.
Sau khi thầy đã làm xong lễ giải hạn, được quan quân chấp thuận thì việc nộp lễ vật được bắt đầu:
Con Pựt nay dừng đường
Cháu quan nay dừng lộ
Con thỉnh mười gốc Sjay
Cháu thỉnh chín Sjay tổ
Mười Sjay gốc đều thỉnh
Chín Sjay tổ thỉnh cầu tất cả
Thỉnh đến Sjay xuống nước không trôi
Thỉnh đến quan vào lửa không cháy
Thỉnh Sjay giữ đầu ghế
Trình Sjay ngồi nơi trốc bàn bàn thờ
Thỉnh thánh Sjay dâng rượu đến nhà
Trình quan nay nộp lễ đến điện
Con còn trẻ tập nói
Cháu còn nhỏ tập lời
Câu được lại câu chăng
Người giỏi lại đi Hác
Người tài lại đi Keo
Mỗi mình con hành lễ
Phép không đến cha giúp
Chữ chẳng rõ cha sửa
Rượu nay đặt đến nhà
Trà nay đặt đến điện.
Đến đây, coi như công việc đã hoàn tất, mọi con đường đã đi qua, lễ vật đã được dâng lên, cầu phúc đã được chấp thuận, đoàn người bắt đầu trở về nhà, thầy ca đoạn hát “Hồi gia”:
Của đắt ta hồi đường
Lễ đắt ta hồi lộ
Về thôi ông thổ công
Về thôi ông công sào thổ địa
Thổ địa cưỡi ngựa bạch hồi đường
Công sào phóng ngựa trắng hồi lộ
Cưỡi bầy ngựa đuôi bông
Phi như mây như gió
Về thôi đôi trai ải vai khiêng
Về thôi đôi trai giang vai gánh
Quan tổ mang áo vía lại đường
Quan tổ đeo túi vía hồi lộ
Xuống thôi bát gạo vía
Xuống thôi quả trứng mệnh
Cả cốt giấy đón vía
Cả xương vàng cốt bạc đón mệnh
Xuống thôi cô hầu trà
Về thôi em hầu rượu
Hai em đeo túi vía lại đường
Bốn nàng mang túi vía hồi lộ
Mười Sjay gốc cùng xuống
Chín Sjay chủ cùng xuống tất cả
Lúc ngược cưỡi ngựa giấy nhẩn nha
Lúc xuống cưỡi mây gió hồi nhanh
Mười đoạn làm một đoạn Sjay xuống
Mười trượng làm một trượng Sjay hồi
Xuống đến xứ sở các vì sao
Xuống đến chốn mười hai mặt trời
Xuống đá xếp đá chồng
Xuống đến vùng đá treo
Tảng chen tảng đá ở
Xuống đến thửa ruộng ba trăm mạ
Thửa ruộng năm ngàn bung
Xuống cây đa lưng trời
Xuống cây si giữa bản
Xuống xứ ba mươi ông lôi nắng
Tám mươi xứ lôi lớn
Xuống chân trời nườm nượp
Lũ lượt buông chân trời
Xuống thang ba trăm bậc lên trời
Cầu thang năm bậc lên đến tổ
Cầu thang trời xuống thế
Rời thang trời cùng xuống tất cả
Quay xuống vùng chuối lá
Thẳng xuống khe lá dong
Quay xuông hang chim én lượn chao
Xuống đến chỗ hang dơi trú ngụ
Chuyển xuống ba mươi xứ lôi nắng
Tám mươi mường lôi vàng
Chuyển xuống chốn mồ mả ở rừng
Nơi mộ tở ở khe
Mồ mả hãy ở an
Tổ tiên hãy sống mát
Cây không đạp xuống bản
Cây không đổ xuống nhà
Rễ cây không vào xiên
Rễ cây không vào cuốn
Sjay nhắn Sjay xuống đường
Quan nhắn quan hồi lộ
Xuống rừng già cổ thụ
Chốn cây cao vút trời
Xứ thung dày cây mạ
Xuống rừng dày cây quế
Chốn rùng già ngát hương
Xuống rừng lớn bạt ngàn
Xuống rừng rộng ngát hoa
Chuyển xuống xứ ba ba lặn giếng
Xuống chỗ bà đười ươi đuôi dài
Quay xuống chỗ bà gấu ăn cưới
Xuống chỗ ông kéo chài chắn lối
Cô lìm là giăng bẫy
Xuống tới chốn rừng cây hoa trắng
Xuống đến chốn trai gái áo màu
Quay xuống em quăng chài
Ngoặt tới cô câu cá
Vịt lặn nước nghì ngụp
Trâu lội khe sì sầm
Vịt lặn nước đầm trên
Trâu ngâm mình đầm dưới
Chuyển xuống thần rừng già
Quay xuống thần rừng rộng
Cây bằng bịch thân trường
Cây bằng nhà người ở
Khỉ ăn quả trên cây cao
Con leo lại con lượm
Xuống đến chốn khỉ già mặt đen
Xuống đến chốn căng đàn nhăn mặt
Xuống đến ông thổ công
Xuống đến nơi công sào thổ địa
Thổ địa giữ đầu bản
Thổ công quản đầu thôn
Bản người ta hỗn độn
Thôn mình vẫn lặng yên
Xuống cây si đầu bản
Xuống cây nhãn giữa thôn
Ngựa ác Sjay phóng xuống
Các quan Sjay cùng phi ngựa xuống
Xuống ruộng lớn điểm quân
Xuống đồng quang điểm ngựa
Xuống cây sung ven ruộng
Xuống cây dướng bờ ngòi
Xuống đường mình thẳng dong
Ngoặt ao lớn trước cửa
Xuống đến khóm gừng già tăng lực
Xuống đến chỗ gừng gié chữa đau
Gừng già tăng sức lực
Gừng gié chữa lúc đau lúc ốm
Xuống đến ra thì là dậy phép
Xuống rau hẹ dạy lời
Xuống rau húng cuống tía
Xuống cây chàm nhuộm đen
Xuống lá chàm nhuộm mũ
Chuyển xuống vườn trầu vàng
Chuyển xuống giàn trầu rậm
Xuống cây mận bên cổng
Cây đùm đũm trước nhà
Xuống cây mận hoa trắng
Xuống cây đào hoa hồng
Chuyển xuống ba tấc bằng
Chuyển xuống bốn mặt đất
Chuyển xuống chốn thần linh thổ địa
Chỗ gà vịt râm ran bãi sàn
Trâu bò kêu vang đồng
Đến cầu thang ba ngày làm
Cầu thang bảy ngày đóng
Mới thành chỗ đi lại
Mới thành chỗ minh quân lên xuống
Xuống đến chỗ cầu thích
Xuống đến giàn ống bương
Xuống đến nơi canh cửa
Tổ bảy đời chốt giữ đại môn
Tổ năm đời giữ cổng cho chắc
Đóng cửa ngăn kẻ gian
Đóng cửa mình ở trong
Vui vẻ ùa đến mình
Sầu muộn tan xa hết
Xuống đến chốn nàng tro
Xuống đến ông vua bếp
Nước không rơi gác giữa
Nước không đổ xuống bếp
Tàn nổ không cháy chảo
Tàn văng không cháy nhà
Xuống tấm thát bên bếp
Xuống đuôi hổ đệm ngồi
Xuống chân ghế gỗ dâu
Xuống bàn thờ thừng mực
Xuống tấm chiếu trải hoa
Xuống bàn hoa sáng bừng
Nơi mâm hương mâm hoa ngời chói.
KẾT LUẬN
“Khảm hải” (vượt biển) nói riêng cũng như hát “Pựt” nói chung là một trường chuyện thơ dân gian của người Tày được sử dụng như một loại văn tế, có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội tộc người.
Toàn bộ nội dung “Khảm hải” phản ánh đời sống xã hội hiện thực của tộc người, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, lên án tầng lớp thống trị đồng thời bênh vực, ngợi ca ý chí, nghị lực phi thường của người dân lao động nghèo khổ.
“Khảm hải” được lưu truyền lâu đời trong cộng đồng, có ý nghĩa trao truyền, giáo dục các thế hệ tộc người, đề cao tình cảm gia đình, tình nghĩa anh em, sự yêu thương, đùm bọc lẫn nhau. Cũng bởi ý nghĩa cao cả này mà “Khảm hải” tồn tại và sống mãi trong tâm trí cộng đồng. “Khảm hải” cũng như hát “Pựt” thể hiện nghệ thuật dân ca, ngôn ngữ của tộc người. Nghệ thuật chuyển tải hiện thực đời sống xã hội vào thơ ca vô cùng đặc sắc, thể hiện trình độ văn học, ý nghĩa khái quát cao của tộc người. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, “Khảm hải” xứng đáng được nghiên cứu và bảo tồn nhằm phát huy giá trị của nó trong cộng đồng cũng như quảng bá tới các tộc người khác và bạn bè quốc tế.
(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)
Ban Biên tập Cổng TTĐT