CTTĐT - "Páo dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú, đó là những vần thơ dân gian được ghép với các tiết tấu, các giai điệu và sử dụng như những tác phẩm âm nhạc. "Páo dung" phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, bênh vực người yếu, ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
Trình duyệt không hỗ trợ xem trực tuyến
I. Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái.
Trong 12 tộc người có dân số tương đối đông sinh sống ở Yên Bái, người Dao có khoảng 64.000 người, chiếm 9,1% dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa – nơi tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Đồng bào sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên, chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên.
Người Dao ở Yên Bái có nhiều tên gọi khác nhau như: người Động, người Xá, người Mán, ... Người Dao tự gọi mình là “Kiềm miền” (tức là người ở rừng).
Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Để phân biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.
Các nhóm Dao cũng có sự khác nhau ít nhiều về tiếng nói song đều thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (nằm trong ngữ hệ Nam Á).
Hình thái kinh tế chủ yếu của người Dao ở Yên Bái là sản xuất nông nghiệp với hai loại hình: lúa nương và lúa nước. Trong đó lúa nước chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra, đồng bào còn trồng một số loại cây hoa màu như ngô, sắn, ... Rau của người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, các cây họ đậu, khoai, củ từ, dưa gang, .... Đặc biệt ở người Dao Yên Bái phát triển mạnh 2 loại cây công nghiệp đó là cây quế và cây chè. Ngoài cây lúa, hoa màu, quế và chè đồng bào còn có thu nhập thêm từ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà...
Người Dao có các nghề thủ công truyền thống phong phú, đa dạng và phát triển rất sớm, trong đó nổi bật là làm giấy dó, dệt vải, nhuộm chăn, in và thêu hoa văn trên vải, đan lát các đồ đựng bằng tre, nứa, giang, mây song, nghề rèn. Nghề rèn của đồng bào Dao cũng phát triển, chủ yếu là các nông cụ như: dao, cuốc, cào cỏ, lưỡi cày. Nghề làm đồ trang sức bằng bạc, sanh căng và bằng đồng làm thành vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn, xà tích.
Đồng bào Dao thường dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng bản riêng biệt hoặc xen cư với các tộc người khác. Ở người Dao Yên Bái hội tụ đầy đủ 3 loại hình nhà ở đó là: nhà sàn của nhóm Dao quần trắng, nhà đất của nhóm Dao Đỏ và nhà nửa sàn nửa đất của nhóm Dao Quần Chẹt và Dao Tuyển. Hiện nay, những gia đình người Dao có cuộc sống khá giả đã xây nhà theo kiểu mới.
Trang phục truyền thống của người Dao Yên Bái đặc sắc và nổi bật ở nghệ thuật trang trí trên quần áo với mô típ hoa văn cây cỏ, động vật, hình người, hình chim, kết chữ Hán được cách điệu rất sinh động. Trang phục đàn ông thường có hai loại: áo ngắn mặc hàng ngày và áo dài mặc trong lễ hội, lễ cấp sắc hay đám cưới. Trang phục nữ phong phú hơn với những trang trí hoa văn truyền thống, đầu đội khăn.
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản, thức ăn chính của người Dao là cơm tẻ, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ và các loại thảo mộc khác. Ngày nay, đồng bào đã trồng nhiều loại rau khác nhau ngay tại vườn nhà để phục vụ nhu cầu hàng ngày khi không vào rừng hái rau. Các loại gia súc, gia cầm được nuôi chủ yếu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình cũng như những tín ngưỡng dân gian của đồng bào. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam.
Các hoạt động sinh hoạt xã hội – gia đình của người Dao ở Yên Bái cũng rất phong phú và đa dạng. Các nhóm Dao đều thờ cúng tổ tiên và thờ Bàn Vương. Thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình. Bàn Vương được coi như thủy tổ của các dòng họ nên cũng cúng bái chung với tổ tiên. Cùng với phong tục cúng Bàn Vương thì người Dao còn có nghi thức “cấp sắc”. Đây là một tục lệ phổ biến và bắt buộc đối với tất cả đàn ông Dao. Một trong những nghi lễ rất quan trọng phải nhắc đến đó là "Tết nhảy” (Nhiàng chầm đao). Nghi lễ này nhằm mục đích cúng Bàn Vương và luyện binh tướng (âm binh) để bảo vệ cuộc sống và sinh hoạt gia đình.
Hôn nhân của người Dao Yên Bái có nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt truyền thống được thực hiện trong đám cưới đặc biệt là hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Đây là một nghi thức sinh hoạt truyền thống vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Tục cưới xin của người Dao phải trải qua nhiều nghi lễ khá phức tạp, mỗi nhóm có những nghi lễ riêng. Thường thì hôn lễ của người Dao được tiến hành qua các bước sau: nhà trai đến nhà gái xin so tuổi đôi nam nữ; nhà trai báo cho nhà gái biết kết quả so tuổi của đôi nam nữ; định ngày cưới và dâng lễ; lễ cưới và lại mặt. Người Dao thường có tục ở rể 3 năm, sau đó mới được ở riêng hoặc về nhà trai ở hẳn.
Tang ma là một trong những nghi lễ rất quan trọng của vòng đời người Dao phản ảnh nhiều tục lệ từ xa xưa. Đồng bào Dao quan niệm rằng con người có phần hồn và phần xác, khi nào phần xác bị hại nặng quá thì người bị chết. Một đám tang của người Dao thường có các các nghi lễ sau: Lễ khâm niệm, lễ xôi gà và lập bàn thờ (lễ cấp thủy và dâng rượu, gia súc); lễ làm chay, lễ nhập quan yểm bùa, lễ đưa đám, lễ hạ huyệt và lễ cúng cơm. Hầu hết các nhóm người Dao ở Yên Bái không có tục cải táng người chết. Đồng bào rất kiêng kỵ việc dựng vợ gả chồng cho con hay làm nhà mới, trồng cấy, gieo hạt giống trùng với ngày mất của người thân. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình.
Người Dao Yên Bái đều có vốn thơ ca dân gian rất phong phú, đồng bào hát "Páo dung" (Pá dung, Pả dung) gợi nhớ lịch sử, xã hội tộc người, ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, thế giới động vật, ca ngợi sản xuất dưới nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và còn gắn vào những bài hát giáo lý, xã hội, gia đình. Người Dao có rất nhiều chuyện cổ tích kể về mọi hiện tượng xảy ra trong xã hội, thiên nhiên. Các câu chuyện đều mang tính giáo dục sâu sắc, anh em phải sống hòa thuận, yêu thương nhau.
Ngày nay truyền thống văn hóa dân gian luôn được bảo tồn, khai thác, phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh tộc người Dao cũng đang góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái ngày càng giàu đẹp hơn.
II. Khái quát về người Dao ở huyện Văn Yên.
1. Khái quát chung về huyện Văn Yên.
Văn Yên là một huyện vùng núi nằm về phía Bắc của tỉnh Yên Bái, được thành lập từ tháng 3 năm 1965. Huyện Văn Yên nằm trong tọa độ địa lý 104º23' đến 104º23' độ kinh đông và từ 21º50'30 đến 22º12' vĩ độ bắc, phía Đông giáp huyện Lục Yên và Yên Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn, phía Nam giáp huyện Trấn Yên, phía Bắc giáp huyện Văn Bàn và huyện Bảo Yên (tỉnh Lao Cai). Theo số liệu thống kê năm 2009, tổng diện tích đất tự nhiên 1.391,54 Km2, cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái 40 km về phía Bắc. Toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn, bao gồm: Mậu A, An Thịnh, Lang Thíp, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, Lâm Giang, An Bình, Quang Minh, Đông An, Phong Dụ Hạ, Phong Dụ Thượng, Xuân Tầm, Tân Hợp, Đông Cuông, Mậu Đông, Ngòi A, Yên Thái, Yên Hưng, Yên Hợp, Xuân Ái, Hoàng Thắng, Viễn Sơn, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Đại Sơn, Đại Phác, Yên Phú. Cả huyện có 8 xã đặc biệt khó khăn vào diện đầu tư chương trình 135.
Dân số trung bình đến năm 2009 là 116.000 người, mật độ dân số trung bình 83 người/km2. Trong đó: người Kinh: 65.117 người (56,33%); người Tày: 17.573 người (15,2%); người Dao: 26.487 người (22,91%); người Hmông: 4.480 người (3,87%); các tộc người khác: 1.957 người (1,69%).
Địa hình huyện Văn Yên tương đối đa dạng và phức tạp, đồi núi liên tiếp và cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc thuộc thung lũng sông Hồng kẹp giữa hai dãy núi cao là Con Voi và Púng Luông. Hệ thống sông ngòi dày đặc với các kiểu địa hình khác nhau như vùng núi cao hiểm trở, vùng đồi bát úp lượn sang nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và các cánh đồng phù sa nhỏ hẹp ven sông. Sự chênh lệch địa hình giữa các vùng trong huyện rất lớn, đỉnh cao nhất là Pú Luông cao 2985m., nơi thấp nhất là 20m so với mặt nước biển. Do đặc điểm địa hình như trên nên Văn Yên là huyện có nhiều tiềm năng về rừng. Rừng ở Văn Yên chủ yếu là loại rừng á nhiệt đới và nhiệt đới núi cao với các loại cây gỗ quý như pơ mu, thông, nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ, ...
Huyện Văn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Nhưng khí hậu Văn Yên tương đối ổn định, ít đột biến phù hợp với trồng trọt và chăn nuôi, trồng các loại cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp dài ngày như chè, quế. Quế Văn Yên được cho là giống quế tốt nhất Việt Nam, có hàm lượng tinh dầu cao thứ 2 ở Việt Nam (sau quế Trà My), đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Diện tích trồng quế ở Văn Yên lên tới 16 nghìn hecta. Cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày như sắn, lạc, đậu đỗ các loại. Những nơi có khí hậu mát ở vùng cao còn cho phép trồng nhiều dược liệu quý và chăn nuôi gia súc có sừng như bò, dê, hươu, nai.
Các tài nguyên thiên nhiên khá phong phú và đa dạng, ngoài tài nguyên rừng còn tài nguyên khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản của Văn Yên tương đối đa dạng và phong phú với các kim loại quý hiếm như vàng, sắt, đồng, graphit, ... Đây là những tài nguyên có trữ lượng lớn hứa hẹn cho ngành công nghiệp khai khoáng ở Văn Yên có cơ hội phát triển.
Sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của Văn Yên. Là một huyện được xác định có tiềm năng về kinh tế nông - lâm nghiệp với các đặc thù và thế mạnh riêng, những năm qua địa phương đã từng bước hình thành cơ cấu kinh tế nông, lâm, công nghiệp - dịch vụ và sản xuất. Đặc biệt kinh tế trang trại ở Văn Yên khá phát triển, đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nông nghiệp độc canh đã chuyển sang chuyên canh gắn liền với kinh doanh tổng hợp theo hướng sản xuất hàng hóa.
2. Người Dao ở huyện Văn Yên.
Tính đến năm 2009 người Dao ở huyện Văn Yên là 26.487 người chiếm 22,91% dân số toàn huyện. Huyện Văn Yên hiện có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Phần lớn người Dao ở đây sống tập trung ở các xã Xuân tầm, Mỏ Vàng, Viễn Sơn, Đại Sơn, Châu Quế Thượng, Lang Thíp. Họ cư trú thành các bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Họ có hai loại hình cư trú phân tán và tập trung tương ứng với nhóm du cạnh hoặc định canh sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nguồn sống chính của họ là lúa nước và lúa nương, chăn nuôi, trồng cây ăn quả , cây đặc sản. Nhìn chung đời sống của người Dao còn nhiều khó khăn. Riêng ở xã Đại sơn nhờ có thu nhập từ cây quế nên đời sống kính tế trở nên khá giả hơn. Người Dao ở đây còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc truyền thống như cấp sắc, đám cưới, tang ma, ...
III. Khái quát về người Dao ở xã Đại Sơn, huyện Văn Yên.
1. Khái quát về xã Đại Sơn, huyện Văn Yên.
Xã Đại Sơn là xã thuộc vùng II của huyện Văn Yên, được thành lập vào năm 1973. Xã nằm ở tọa độ địa lý là 21º49'17"B đến 104º34' 35"Đ, phía Bắc giáp xã Đại Phác, phía Đông giáp xã Yên Phú, phía Nam giáp xã Mỏ Vàng, phía Đông Nam giáp xã Viễn Sơn, phía Tây giáp xã Nà Hẩu (đều của huyện Văn Yên). Từ thành phố Yên Bái theo tỉnh lộ 151 lên thị trấn Mậu A (40km), qua cầu Mậu A đi về hướng Tây Nam khoảng 10km là đến xã Đại Sơn. Xã có diện tích 83,75 km², dân số là 2376 người, mật độ dân số đạt 28 người/km².
Sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của xã Đại Sơn. Đồng bào ở đây thường trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn và trồng các loại cây công nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao như keo, bồ đề mỡ. Đặc biệt vùng đất Đại Sơn nổi tiếng với việc trồng quế, cây quế đã đem lại cho đồng bào cuộc sống no đủ, nhiều nhà đã trở nên giàu có nhờ cây quế, kinh tế Đại Sơn khởi sắc hơn một số xã khác trong vùng cũng nhờ cây quế.
2. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội của người Dao xã Đại Sơn.
* Lịch sử di cư của người Dao ở Đại Sơn, huyện Văn Yên
Theo khảo sát ở những địa phương có người Dao sinh sống thì người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17), với hai hướng chính là đường bộ và đường biển. Người Dao di cư vào Việt Nam theo nhiều đợt sớm nhất từ thế kỷ XIII, các nhóm Dao ở tỉnh Yên Bái chủ yếu di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng sang.
Xã Đại Sơn, huyện Văn Yên hiện chỉ có nhóm Dao Đỏ sinh sống. Họ thường sống thành bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Nguồn sống chính của người Dao ở Đại Sơn là trồng lúa nước, lúa nương. Những năm gần đây, người Dao ở xã Đại Sơn rất phát triển chăn nuôi bò, lợn, gà ... Ngoài ra, còn phát triển trồng cây ăn quả, cây đặc sản như chè, đặc biệt là cây quế. Ở đây còn có các nghề thủ công như đan lát, rèn đúc, nghề dệt nhưng những nghề này chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp của các gia đình.
* Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Dao ở Đại Sơn
Đại Sơn là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Dao Đỏ, vậy nên nhà đất là loại hình nhà ở chủ yếu của đồng bào. Đó là loại nhà hình chữ nhật, thường có hai mái, trong nhà thường có từ ba đến năm gian, bộ sườn nhà được chế tạo khá đơn giản. Nguyên vật liệu làm nhà thường kiếm ngay tại chỗ, chủ yếu là cây rừng. Phần gian nhà bên phải dành đặt giường ngủ của khách, buồng ngủ của chủ nhà đặt ở phía bên phải bàn thờ, giường ngủ của con trai thường đặt sau giường của khách, còn phòng ngủ của con gái thường đặt phía trong gần bếp. Bàn thờ được đặt ở gian giữa, nhà thường có hai bếp (một bếp ở gian ngoài để sưởi ấm vào mùa đông dành cho đàn ông và khi có khách đến). Nhà của người Dao thường được bố trí: bếp là nơi tập trung của cả gia đình vào mùa đông, là nơi rộng nhất trong nhà. Nhà ở của người Dao có ít cửa ra vào, đặc biệt là ít của sổ, đa số chỉ có một cửa sổ đặt ở giường nằm ngủ. Đây là loại nhà tổng hợp bếp, chuồng gia súc, các công cụ sản xuất và sinh hoạt đều thuộc phạm vi nhà ở.
Trang phục của người Dao đỏ: Trong các nhóm Dao thì trang phục của người dao Đỏ thường được làm cầu kỳ và sử dụng nhiều màu sắc hơn cả. Đối với trang phục nam giới không có gì khác biệt lắm so với trang phục nam giới trong các ngành Dao. Đàn ông Dao đỏ thường đội mũ nồi hoặc vấn khăn dài, áo chàm được may theo lối cổ khoanh bí, áo dài gần trùm mông, vạt áo may thẳng có cài khuy lộn dọc từ ngực xuống bụng, sau lưng áo có miếng vải hoa văn hình bùa chú. Quần của đàn ông là quần thụng vải đen, may kiểu chân què bổ đũng dài gần chạm cổ chân và cạp quần luồn dây rút bằng sợi vải hoặc sợi gai. Trang phục của nữ giới Dao Đỏ được tạo điểm nhấn bằng những gam màu đỏ của vải hoặc sợi trên nền vải đen và thường được may công phu hơn, gồm có các bộ phận: khăn, áo, thắt lưng, quần, xà cạp cùng đồ trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay…. Để tạo thành bộ y phục đẹp phải có vải đen làm nền để thêu hoa văn, chỉ thêu gồm 5 màu cơ bản: đỏ, trắng, đen, xanh, vàng, nhưng chủ yêu là màu đỏ. Người Dao đỏ thích dùng mầu đỏ tươi rực rỡ để trang trí: khăn đỏ, ngực áo, cổ áo đỏ, khăn đỏ, tua đỏ, yếm đỏ, nẹp ngực áo đỏ, yếm lưng đỏ...
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản thức ăn chính của người Dao là lúa nước và lúa nương, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ, các loại rau trồng trong vườn nhà và các loại thảo mộc khác. Cùng với đó là các thức ăn từ gia súc gia cầm. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam. Người Dao rất thích ăn ớt, gừng, riềng, lá sả, hạt dổi, lá chanh, các thứ rau thơm và các thứ nước chua. Hàng ngày đồng bào uống nước chè, nước vối, nước từ các loại cây thuốc... Người Dao cũng uống các loại rượu cất từ gạo, ngô, khoai, sắn và các loại cây có bột như: báng, móc. Men rượu đều chế biến bằng các thứ lá và rễ cây rừng.
3. Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Dao ở Đại Sơn
* Tiếng nói - chữ viết: Tiếng Dao nói chung và Dao Đỏ nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, nằm trong ngữ hệ Nam Á. Chữ viết của người Dao còn trong một số tài liệu lưu giữ được là chữ Hán và chữ Nôm Dao.
* Một số nghi lễ truyền thống
- Lễ Cấp Sắc: Đây là một nghi lễ truyền thống độc đáo có tính lịch sử lâu đời trong đời sống sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao công nhận sự trưởng thành cả về vật chất lẫn tinh thần của người đàn ông. Theo quan niệm của người Dao thì cấp sắc là để được thánh thần công nhận, được âm binh và có thể làm nghề cúng bái. Nghi lễ của lễ cấp sắc rất mở, có thể là một, hay nhiều cá nhân của một gia đình, dòng họ hay cả một tập thể của nhiều gia đình, nhiều dòng họ, nhiều bàn làng khác nhau tổ chức. Lễ cấp sắc có rất nhiều bậc, bậc đầu tiên họ được cấp 3 đèn và 36 binh mã, bậc hai được cấp 7 đèn và 72 binh mã, bậc ba được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Lễ cấp sắc 3 đèn và 7 đèn được tổ chức thường xuyên trong cộng đồng tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện của các gia đình, dòng họ. Riêng nghi lễ cấp sắc 12 đèn có quy mô lớn hơn hai nghi lễ trên nên phải hai, ba mươi năm mới có một lần. Nội dung chính của lễ cấp sắc tiến hành theo trình tự sau: lễ lên đèn, lễ ban mũ thầy cúng, Lễ trình diện Ngọc hoàng, Lễ cấp tinh, Lễ hạ đèn và giao quân, lễ qua cầu, lễ đặt tên. Các nghi thức trong lễ cấp sắc đều nhằm mục đích hướng thiện, giúp con người trưởng thành hơn, đạo đức hơn, sống tốt hơn và quan trọng là những lời giáo huấn này được thực hiện bằng những lời thề trước sự giám sát của tổ tiên và nhiều quan binh nên càng làm tăng tính giáo dục. Đây là một nghi lễ giao tiếp có tính kế thừa, kết nối các giá trị văn hóa giữa các thế hệ chứa đựng nhiều thành tố quan trọng của bản sắc văn hóa Dao. Đồng thời lễ cấp sắc cũng là dịp để cộng đồng cùng thưởng thức các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhảy múa hết sức hấp dẫn. Các điệu múa trong lễ cấp sắc rất đặc sắc. Múa ở đây có sự đan xen hòa quyện giữa yếu tố lao động trần thế và tôn giáo thể hiện sự giao hòa giữa hai thế giới, điệu múa đặc trưng, đặc sắc, vui nhộn nhất là Múa Rùa. Múa Rùa diễn ra trong không khí vui tươi, những động tác múa nhịp nhàng, khỏe khoắn của các chàng trai miêu tả lại việc đuổi rùa, tìm rùa, bắt rùa, giết rùa. Múa Rùa là một nét đẹp, thể hiện tính phồn thực và mối giao hòa trong cộng đồng dân tộc.
- Tết nhảy: Đây là tết riêng của mồi gia đình, cũng mang tính dòng họ. Tết này này nhằm mục đích luyện âm binh cho bộ tranh Đại đường để thờ phụng các thần linh, bảo vệ cuộc sống gia đình. Vì vậy nó mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo rất rõ rệt. Tết nhảy được tiến hành vào tháng chạp, năm nào cũng tổ chức nghi lễ này cứ ba năm làm thành một chu kỳ. Chỉ có gia đình nào có bàn thờ tổ và đã sắm tranh Đại đường thì mới có tết nhảy. Tết nhảy đòi hỏi một quá trình chuẩn bị khá lâu, phải nấu rượu, nuôi lợn, thanh niên luyện tập các điệu múa, chuẩn bị dao, gươm bằng gỗ.
Quá trình của tết nhảy trải qua các bước sau: lập đàn tẩy uế, làm lễ khấn các thần thánh. Nội dung chính của nghi lễ là nhảy múa và khấn tụng được tổ chức liên tục trong suốt những ngày đêm làm tết. Mỗi người múa tay đều cầm cờ, trống chiêng, sập sèng... múa theo điệu quay vòng. Rồi sau đó là nhiều điệu múa truyền thống được trình diễn như: múa kiếm, múa dạo (lạp miên a dạo), múa nhảy rùa (Pẻo tộ)... Tất cả những động tác của các điệu múa này đều được thực hiện một cách liên tục với sự khéo léo và tinh tế của người trình diễn. Những điệu múa, lời hát trong Tết nhảy thường hướng đến những điều tốt lành, hạnh phúc. Lễ "nhìang chầm đao" chủ yếu phục vụ cho tôn giáo tín ngưỡng, nhưng ít nhiều có mầu sắc văn nghệ, toát lên ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao sống đoàn kết, thủy chung, tình nghĩa.
- Một số lễ tết khác của tộc người trong năm:
+ Tết Nguyên Đán: Khác với dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa dân tộc mình. Với người Dao cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Đồng bào Dao đón tết đơn giản nhưng lễ nghi lại cầu kỳ và độc đáo. Với người Dao, tết nguyên Đán là mở đầu cho một năm mới đã bận rộn chuẩn bị từ 27, 28 tháng chạp. Từ 27/12 nhân dân đã chuẩn bị mọi thứ cho việc đón tết như: gạo, bột, lá gai, củi, rau, bò, lợn, trang trí nhà của và đặc biệt sắp đặt quần áo.
Ngày 30 tết nhà nào cũng phải nấu một nồi nước thơm thật to để ai cũng phải tắm. Theo quan niệm của người Dao thì tất cả mọi người phải tắm rửa sạch sẽ để rũ bỏ mọi xấu xa, bẩn thỉu của năm cũ bước vào năm mới sạch sẽ, trong lành. Chiều 30 tết nhà nào cũng lập đàn cúng để mời gia tiên và các thần linh về ăn tết với con cháu. Bao giờ cũng vậy tối 30 tết mọi người trong gia đình quây quần bên nồi bánh trưng để trò truyện về năm đã qua. Các thứ bánh được người Dao cúng trong ngày tết ngoài bánh trưng còn có các thứ bánh khác như bánh dầy, bánh gai, bánh bột nếp....Cũng giống người kinh trên bàn thờ của mỗi gia đình người Dao có thêm cành đào, trong chén lúc nào cũng có rượi và nước, hương được đốt liên tục. Ngoài ra người Dao còn quan niệm kiêng không mở hòm trong 3 ngày tết nên phải lấy sẵn quần áo và đồ dùng trước giao thừa. Trong 3 ngày tết cũng không được san sẻ hay cho ai bất cứ thứ gì. Đêm giao thừa người Dao có tục thay nước đầu năm mới trên bàn thờ. Từ đêm giao thừa đến mùng một, họ kiêng không ăn rau chỉ ăn cơm, các loại bánh và thịt động vật. Sau khi cúng giao thừa song mọi người trong gia đình quây quần vui vẻ, ăn uống, ca hát và chúc tụng nhau những lời chúc tốt lành cho năm mới. Sáng mùng một sau khi song xuôi mọi thủ tục ở gia đình, mỗi nhà một người nam giới mặc trang phục truyền thống tạo thành một đoàn đi chúc tết tất cả các nhà.Tết cũng là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi hội ngày xuân.
+ Tết cùng năm: Đây là tết của gia đình, dòng họ. Dòng họ nào cũng tổ chức tết này vào tháng 12 âm lịch, nhưng tập chung nhất vào các ngày 15 đến 25 tết. Các gia đình luân phiên nhau tổ chức tết, luân phiên mời nhau.Mục đích của tết này trước là để lập đàn cúng tạ ơn gia tiên, các thần linh đã phù hộ cho gia cho, dòng tộc một năm may mắn thành công...Sau là ngày xum họp của anh em ruột thịt, họ tộc, bạn bè thân thiết để trò chuyện thông báo cho nhau về một năm qua. Lễ vật chuẩn bị cho tết năm cùng khá đầy đủ với thịt lợn, gà, bánh dầy. Bánh dầy là một trong những lễ vật không thể thiếu được trong tết năm cùng.
+ Tết cơm mới: Đây là một trong những lễ cúng quan trọng của mỗi gia đình Dao được tổ chức tại nhà.Cúng cơm mới là để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tốt tươi, lúa ngô có thể thu hoạch được. Lễ cúng được tổ chức trong nhà. Khi lúa sắp được thu hoạch, người ta chọn ngày tốt, gặt lấy ít thóc đầu mùa đem phơi khô, lấy gạo nấu cơm cúng. Nếu lúa chưa chín họ lấy gạo cũ về thổi cơm, ngắt lấy vài bông bỏ vào nồi cơm để có hương vị cơm mới và coi đó là cơm mới. Đàn cúng gồm: 5 bát cơm, 5 chén rượi, 1 chén nước, 1con gà luộc, một ít tiền ma, một bát hương. Chủ nhà đứng trang nghiêm trước bà thờ kế công ơn cử tổ tiên và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ mãi mãi về sau để công việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Sau lễ này, đồng bào chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để thu hoạch lúa mới.
4. Các tập quán xã hội và tín ngưỡng
- Các tập quán theo chu kỳ đời người
+ Sinh đẻ: Người Dao đẻ ngồi và đẻ ngay trong buồng ngủ, không được đẻ ở nơi khác, do mẹ chồng, mẹ đẻ hoặc chồng đỡ cho. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế mới bế lên, tắm rửa bằng nước nóng. Người ta cắt rốn bằng dao nứa. Ngay từ khi đẻ sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng và rượi. Trẻ sinh được ba ngày thì gia đình lập giàn cúng mụ gọi là làm lễ "nam khan". Sau khi sinh khoảng từ 3 đến 7 ngày, họ chọn ngày tốt để làm lễ để đặt tên cho trẻ. Tên của bé cũng được chọn rất kỹ, không được trùng với tên của gia tiên, ông bà, chú bác, anh em nội ngoại gần xa. Người Dao Đỏ thường đặt tên con đầu là: Cấu, San, Lộ... Con trai út lại thường đặt tên là: Lai, Lĩu...
+ Cưới hỏi: Lễ cưới của người Dao Đỏ có nhiều nét đọc đáo, trước ngày cưới khoảng một năm bên nhà trai phải trao các khoản thách cưới bằng tiền để cô dâu chuẩn bị cho ngày cưới. Suốt thời gian một năm ấy, cô gái phải dành thời gian để thiêu thùa, sắm sửa trang phục, chuẩn bị của hồi môn.Đến ngày cưới nhà trai cử người đến đón dâu, tùy theo giờ tốt, người ta đưa cô dâu vào nhà chồng theo các hướng theo quy định. Khi ăn cỗ, họ nhà trai ngồi riêng, nhà gái ngồi riêng. Người Dao Đỏ còn có tục bất kỳ ai trong họ nhà trai cũng như nhà gái đến dự đám cưới đều có phần thịt, bánh mang về.
+ Tang ma: Ngay sau khi người chết tắt thở, người ta bắn ba phát súng, nếu là người trưởng tộc hoặc được cấp sắc 7 đèn trở lên thì chọc thủng nóc nhà bắn chỉ thiên báo cho Ngọc Hoàng và báo cho dân làng biết. Đám ma cử người Dao Đỏ cũng tiến hành tất cả các thủ tục như các nhóm Dao khác. Mồ mả người chết được chôn vĩnh viễn. Đồng bào quan niệm đám ma chỉ là bước đem người chết đi cất giấu để không cho ma xấu bắt hồn và làm nhục thể xác.
+ Làm nhà mới: Việc làm nhà mới với người Dao Đỏ là rất quan trọng. Việc chọn địa điểm làm nhà là quan trọng hơn cả. Đồng bào thường làm ở nơi khuất gió, cao ráo, gần khe suối, gần ruộng nương thuận tiện cho việc lấy củi, hái rau.Nghi lễ chon đất cũng rất được coi trọng, đồng bào quan niệm nếu gặp được điền lành khi chọn đất làm nhà thì sẽ gặp nhiều may mắn làm ăn gặp nhiều thuận lợi. Sau khi dựng nhà song, theo giờ tốt đã chọn, đồng bào sẽ làm lễ vào nhà mới như sau: một cụ già cầm đuốc đi trước, theo sau là chủ nhà và những người trong gia đình đem theo bàn thờ tổ tiên và một số đồ vật tượng trưng. Sau đó họ làm cơm để kính báo và mời tổ tiên về nhà mới cùng con cháu.
5. Một số tín ngưỡng thờ cúng dân gian
- Thờ cúng tổ tiên: Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình đồng bào người Dao, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Theo quan niệm của người Dao tổ tiên là loại ma lành phù hộ con cháu, tuy nhiên nếu không thờ cúng cận thận tổ tiên cũng có thể bắt tội làm con cháu ốm đau bệnh tật. Thường người Dao thờ tổ tiên chín đời. Điều này thể hiện rõ trong các nghi lễ lớn như cấp sắc, tảo mộ hoặc trong các dịp tết của gia đình.
Việc lập bàn thờ tổ phải tuân thủ theo quy định rất nghiêm ngặt. Bởi vậy nó thể hiện bề dày truyền thống gia đình và cũng là niềm tự hào của truyền thống gia đình. Bàn thờ tổ luôn được đặt ở gian giữa nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đằng trước hay bên cạnh bàn thờ người ta treo một cái trống bằng dây thừng hay da thú, dây này buộc lên thượng lương của nhà. Ngay trên vách cạnh bàn thờ người ta treo hai ống nứa hay hai túi vải đựng hai bộ tranh "Tam thanh lớn" và "Tam thanh nhỏ". Vì bàn thờ tổ là nơi tôn nghiêm nên phụ nữ đặc biệt là các cô dâu ít được gần nhà thờ, đặc biệt là không bao giờ được thắp hương hoặc bê lễ vật lên bàn thờ cúng. Ngay từ khi quét nhà người ta luôn luôn chú ý quay mặt về phía bàn thờ mà quét quay lui trở ra, quay lưng về phía bàn thờ bị coi như là một thái độ thiếu tôn kính đối với tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên thường là do chủ gia đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Nếu nhà không có đàn ông thì đến ngày lễ tết, đốt hương ở phen thờ, cúng lễ cũng phải nhờ đàn ông khác trong họ đến cúng.
- Thờ cúng Bàn vương "Chẩu đàng": Thờ cúng Bàn vương là một tục lệ khá điển hình trong sinh hoạt của người Dao. Bàn Vương được đồng bào coi là thủy tổ của dòng họ nên việc thờ cúng Bàn Vương được người Dao coi như một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả dân tộc. Thường ngày, Bàn Vương được thờ cúng chung với tổ tiên của từng gia đình, từng họ. Trong các nghi lễ lớn lễ cấp sắc, tết nhảy... đều phải cúng Bàn Vương. Ngoài việc cúng Bàn Vương hàng ngày còn có những lễ cúng bàn vương riêng với các nghi lẽ chính sau: Lễ khuất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.Việc thờ cúng Bàn Vương không phải chỉ là sự chung thủy uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn của tổ tiên, mà còn là yếu tố văn hóa quan trọng được lưu truyền qua nhiều thế hệ của người Dao.
6. Văn học dân gian:
Dân tộc Dao vốn có một lịch sử và một nền văn hóa lâu đời, một nền văn học nghệ thuật và những tri thức dân gian rất phong phú, phản ánh lên cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ của người Dao. Trong các sáng tác dân gian của dân tộc Dao, văn học dân gian ( Truyện cổ, thơ ca, câu đố, Hát, Múa, Tực ngữ, Vẽ...) chiếm phần lớn. Dân tộc Dao không có văn tự riêng nhưng họ sử dụng chữ Hán đã Dao hóa. Cùng với các tác phẩm truyền miệng còn có các tác phẩm khuyết danh bằng chữ nôm Dao. Các sáng tác bằng truyền miệng được diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân nên phong phú và khá phổ biến. Nội dung của văn học dân gian chủ yếu đề cập đến nguồn gốc của dân tộc Dao, ca ngợi thiên nhiên, tình yêu trai gái,đề cao lao động, kinh nghiệm cuộc sống.
7. Tri thức dân gian
- Cách tính thời gian dân gian: Đối với người Dao, việc tính tớn thời gian rất quan trọng và phải tiến hành thường xuyên để biết thời vụ sản xuất, biết ngày tốt, ngày xấu, ngày cho phép khởi điểm các công việc có tính chất đặt nền móng, biết được những ngày kiêng kỵ không đi làm nương. Song đồng bào không có hệ thống lichj riêng mà chỉ dựa hoàn toàn theo cách tính lịch Trung Quốc. Cách tính tháng hoặc năm, người ta dựa vào chu kỳ mặt trăng như cách tính thời gian theo lịch âm của người Việt, cũng theo lục giáp ( 10 can, 12 chi ) và gọi tên theo tên 12 con vật.
- Cách phán đoán thời tiết, khí hậu: Đồng bào Dao có một số kinh nghiệm phán đoán thời tiết, khí hậu để sản xuất cho kịp thời vụ. Những kinh nghiệm đó đã được đúc kết, tích lũy từ lâu đời trên cơ sở nhận xét sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên như: khi thấy " xâu kỉa piáo" ( kiến dọn tổ ) thì báo hiệu trời sắp mưa, nếu kiến ở bờ suối dọn tổ thì sắp có nước lũ. Hoa " xấu dòng phăng" ( rau muống rừng) nở đỏ rực, báo hiệu không lo rét trở lại , cấy lúa sớm......
- Y học dân gian: dân tộc Dao đã tích lũy được nhiều vốn y học cổ truyền quý giá. Các vị thuốc chủ yếu hái lượm ở rừng, ít khi trồng sẵn. Có loại lấy rễ, có loại lấy lá hoặc vỏ, cũng có loại lấy quả hoặc hoa ... . Có vị thuốc sắc uống để chữa bệnh đường ruột, đau xương ...; có vị giã nhỏ để rịt hoặc bó hư chữa gẫy xương, vết thương nhỏ... ; có vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa như các bệnh ngứa, lở loét, phù thũng... Nhìn chung có thể chia làm ba loại thuốc chính: thuốc bổ, thuốc trị bệnh và thuốc độc giết hại thú rừng.
IV. Nghệ thuật “Páo Dung” của người Dao xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
1. Sơ lược về hát "Páo dung" của người Dao.
"Páo dung" (hay còn gọi là "Pá dung" hay "Pả dung") là một lối hát trên cơ sở giai điệu, tiết tấu có sẵn, cố định để ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, yêu thế giới động vật, yêu lao động sản xuất, yêu quê hương, đất nước hay ôn lại quá trình lịch sử - xã hội tộc người. Đây là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của cộng đồng Dao từ xưa đến nay. Đồng bào quan niệm "Có sừng dài mới đi vào được làng" (mài chong đáo chính pịa tú lảng), nghĩa là phải biết hát và hát đối giỏi mới được vào làng. Theo thông lệ của đồng bào, đã là khách muốn vào làng phải biết hát. Do vậy, người Dao nói chung, ai cũng có nguyện vọng là muốn hát và hát giỏi.
"Páo dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú. Nó phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt, có thể kể về quá trình lịch sử - xã hội của tộc người như: "Người Dao vượt biển" (Phìu dìu khói dung), muốn hát "người Dao vượt biển" đòi hỏi phải thuộc mới được hát. Có thể người này thay người kia hát nhưng phải tiếp nối nhau cho trọn bài vì đồng bào quan niệm nếu dừng lại giữa chừng thì quá trình vượt biển của tộc người không đến nơi đến chốn, lênh đênh, lưu lạc ngoài biển cả. Khi không thuộc một đoạn nào đó thì phải có người nhắc hoặc phải có sách để xem.
Hát trai gái chưa vợ chưa chồng (Páo dung tòi tồm dòi lủng) hát ca ngợi tình yêu đôi lứa, hát đối đáp, giao duyên. Trai gái có thể hát mấy đêm liền. Họ hát để tỏ tình yêu đương với nhau. Khi hát thường có các cụ già giúp đỡ đặt lời ví đối khẩu.
Hát những người có vợ có chồng (Mài piáo tồm tòi páo dung). Những cuộc hát này có mục đích chính là thưởng thức tài văn nghệ của nhau nên nội dung các bài hát chủ yếu ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, hỏi thăm sức khỏe, thăm công việc đồng áng, thăm gia đình con cháu của nhau. Họ không hát tỏ tình như trai gái chưa vợ chưa chồng nên thời gian hát ngắn hơn, thường chỉ một vài giờ là kết thúc.
Hát uống rượu (Páo dung hốp tiu): khi uống rượu vui vẻ thì đồng bào hát với nhau. Nội dung bài hát thường phù hợp với ý nghĩa của tiệc rượu. Ví như trong đám cưới, người ta hát những bài khuyên nhủ vợ chồng làm ăn hòa thuận, đông con nhiều cháu; trong tiệc rượu mừng nhà mới, người ta hát những bài chúc sức khỏe, sản xuất tốt, làm ăn gặp nhiều may mắn, ... Trong tiệc rượu, ai muốn hát cũng được, không phân biệt trai gái, không phân biệt tuổi tác.
Hát ru (Háo ton dung). Làn điệu hát ru rất nhẹ nhàng, êm dịu, bay bổng. Loại hát này thường được mở đầu và kết thúc bằng câu "Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng" (Ối a, ngủ ngon, ngủ ngoan con nhé). Khi ru, các bà, các chị thêm vào những câu hát dành riêng cho trẻ em, kể về những câu chuyện của trẻ em.
Hát có thể phản ánh một phần thực trạng xã hội tộc người trong lịch sử như "Người làm dâu" (Nhỉ nhàng dung), hát mời rượu, hát mừng cô dâu chú rể, hát ca ngợi sản xuất, hát hỏi thăm, hát chúc mừng năm mới, hát giữ khách, hát khuyên răn, gần đây là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới. Phần lớn các bài hát đều do người hát tự sáng tác tùy theo khả năng của mình. Do vậy, đề tài rất đa dạng nhưng có đặc điểm là không được ghi chép để truyền tụng từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, cũng có nhiều bài hát với các thể loại khác nhau được ghi chép bằng chữ Nôm Dao được phổ biến trong cộng đồng. Đó là các bài hát với các chủ đề: hát chào (chíp khé dung), hát tiễn đưa (phúng khé dung), hát mời rượu (hốp tiu dung), hát tình yêu (phây quyển dung), ... cũng không ít thơ ca được ghi thành truyện thơ dài như bài ca vượt biển (chúa khói dung), truyện thơ Lương Sơn Bá -Chúc Anh Đài (inh tòi dung), ... Những bài hát cổ ghi trong sách phổ biến là thể loại 7 từ (thất ngôn), có thể là khổ 4, khổ 8, 12 hoặc trường thiên. Những sáng tác mới mang tính tự do về ngôn từ hơn. Thơ và ca gắn liền với nhau. Thơ là lời của bài ca, vậy nên muốn có nhiều bài ca thì đồng bào phải sáng tác nhiều bài thơ.
Trong "Páo dung", đồng bào chia ra ba hình thức hát. Thứ nhất là hát hát (Páo dung), ở hình thức này, người ta hát ngân dài hơi nhất (còn gọi là hát rên); thứ hai là đọc hát (Tộ dung) là hình thức hát ngân trung bình, không lấy nhiều hơi như "Páo dung"; thứ ba là nói hát (Coóng dung), đây là hình thức hát nhanh nhất, gần như nói chuyện với nhau, đôi chỗ có ngâm, có kéo dài giọng nhưng rất ít. Trong ba hình thức này, đồng bào chủ yếu chỉ sử dụng hai hình thức hát "Páo dung" và "Tộ dung". Khi "Páo dung" mà người hát cảm thấy mệt, người ta tự chuyển sang "Tộ dung" để đỡ mất nhiều hơi hơn mà không ảnh hưởng gì đến lời hát. Chính bởi thế, cùng một nội dung bài hát nào đó, người ta vừa có thể "Páo dung" vừa có thể "Tộ dung". Hát "Páo dung" có thể hát đơn hoặc hát đối đáp, trong đó hát đối đáp được sử dụng rộng rãi hơn. Trong hát giao duyên nam nữ, những người cùng tông tộc không hát với nhau bởi ngoài việc thi tài, trai gái còn hát để làm quen, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau.
Với những nội dung và đặc điểm như trên nên "Páo dung" có thể được hát ở bất cứ nơi nào, có thể tại nhà, tại một khu đất rộng trong những lễ hội đầu xuân, tại đám cưới, tại những đêm trăng giao lưu, tại ruộng, tại nương hay ngay cả trên đường đi.
"Páo dung" không chỉ hát vào dịp đầu xuân hay khi có lễ hội, có các cuộc vui mà người ta hát bất cứ khi nào cảm thấy thích hát, muốn hát như trên đường đi nương, đi ruộng, khi cắt lúa, khi gặp nhau trên đường, khi khách tới chơi nhà, khi mời khách, giữ khách, tiễn khách, ... nhưng nhiều nhất là các dịp trai gái đến chơi làng, hát trong đám cưới, hát vào nhà mới hay những ngày hội làng, hội bản.
Ở người Dao, từ trẻ đến già hầu hết đều biết hát và sáng tác thơ ca. Hát "Páo dung" là loại hình nghệ thuật thu hút sự tham gia của mọi đối tượng trong cộng đồng, nam có, nữ có, thanh niên có, trung niên có, cao niên cũng có. Trong những cuộc vui lớn thì số lượng người hát cũng như độ tuổi tham gia hát đều không hạn chế. Mỗi đối tượng hát những thể loại khác nhau phù hợp với tuổi tác, tâm tư, tình cảm của mình: thanh niên thì hát giao duyên, trao đổi tâm tình, hẹn hò, kết bạn. Người trung tuổi thì hỏi thăm nhau sức khỏe, gia đình, anh em, chuyện làm ăn, chuyện con cái. Người già thì ôn lại chuyện xưa, kể chuyện con cháu.
"Páo dung" là một hình thức nghệ thuật giải trí không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao. Đó là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình, ôn lại quá trình lịch sử, làm cho con người gần nhau hơn, củng cố tình đoàn kết cộng đồng. Người ta hát khi kết thúc một năm lao động vất vả, mệt nhọc, hát để lấy lại tinh thần bước vào một năm mới với mong ước sức khỏe, mọi điều may mắn, hạnh phúc. Trai gái hát để tâm tình, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau. Người già hát để kể cho con cháu nghe về lịch sử di cư của tộc người mình. Bạn bè hát để chúc nhau hạnh phúc trong ngày cưới, hát để mời nhau chén rượu mừng, hát để hỏi thăm nhau, chia sẻ cùng nhau, ...
2. Giá trị của hát "Páo dung".
Có thể nói "Páo dung" là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao nói chung cũng như người Dao Yên Bái nói riêng. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Páo dung" mang trong mình những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Giá trị nghệ thuật thể hiện trong ca từ, thể hiện sự sáng tạo của cộng đồng trong việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thi ca, những giai điệu, tiết tấu của "Páo dung" cũng thể hiện sức sáng tạo độc đáo, mang bản sắc riêng của tộc người.
Giá trị lịch sử thể hiện rõ nét trong những lời ca kể về lịch sử di cư của tộc người hay những lời ca than thân, trách phận, thể hiện sự đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, thể hiện sự khao khát tự do, mong ước về một tình yêu vĩnh cửu của những đôi trai gái yêu nhau. Đó là những giá trị hiện thực đã từng tồn tại trong lịch sử xã hội tộc người được phản ánh trong thơ ca mà chúng ta cần khai thác và tìm hiểu.
"Páo dung" còn thể hiện rất rõ giá trị văn hóa của tộc người. Từ lời hát, cách hát, giai điệu, tiết tấu, âm nhạc đến nội dung đều thể hiện những nét văn hóa riêng, độc đáo của tộc người.
Giá trị giáo dục cũng được thể hiện rất rõ trong "Páo dung". "Páo dung" khuyên người ta chăm lao động, hướng tới cái thiện, không làm việc xấu, ghi nhớ công ơn mẹ cha, chăm chỉ học hành, vinh danh đỗ đạt, sống tốt với cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người.
Đến nay ở xã Đại Sơn, hát "Páo dung" vẫn tồn tại trong đời sống của đồng bào một cách phổ biến và dường như được giữ nguyên vẹn cả về hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, số người biết hát "Páo dung" ngày càng ít. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy làn điệu Páo dung - văn hóa phi vật thể độc đáo này là cần thiết trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay.
3. Thời gian và địa điểm tổ chức "Páo dung":
Thời gian tổ chức: 2 ngày, ngày 11, 12 tháng 6 năm 2013. Chương trình "Páo dung" được tổ chức tại nhiều địa điểm cho phù hợp với nội dung các bài hát: địa điểm chính được tổ chức tại nhà sàn cộng đồng tại Ủy ban nhân dân xã Đại Sơn, ngoài ra còn tổ chức hát ngoại cảnh như bên rừng quế, bên nhà đất truyền thống của người Dao Đỏ, ...
4. Công tác chuẩn bị cho nghi lễ:
Để chuẩn bị cho chương trình "Páo dung", phải tổ chức mời thầy Mo và những người phụ giúp. Đồng thời, các lễ vật cũng phải được chuẩn bị đầy đủ, mời cộng đồng tới tham dự, mời các thành viên tham gia hát, nhờ người giúp việc bếp núc, nội trợ, trang trí giấy, nước uống, quét dọn trong quá trình thực hiện chương trình.
* Chọn ngày, giờ và chọn thầy, đón thầy: Thời gian được chọn là tối ngày 11 và sáng ngày 12 tháng 6 năm 2013. Các thầy gồm có: Thầy Mo (chủ lễ): ông Đặng Tiến Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái); Hai thầy phụ: Ông Triệu Tiến Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái) và Ông Đặng Nho Hín (xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái). Các thầy này chỉ phục vụ cúng lễ trong bài hát "Người Dao vượt biển" (Phìu dìu khói dung), những bài hát không liên quan đến nghi lễ cúng tế.
Sáng ngày 10/6 đón thầy Mo trước, kế đó mới mời thầy phụ. Các thầy đã được thông báo trước, tới ngày này, các thầy chủ động báo cáo và xin tổ tiên nhà mình, khi được sẽ chuẩn bị đồ dùng trong nghi lễ, có người đến đón là các thầy đi tới nơi làm lễ luôn.
* Lễ vật chuẩn bị cho nghi lễ: Gạo tẻ: 20kg; 2 con lợn từ 40 đến 50kg/con; Rượu: 20 lít; Giấy màu (7 màu); Vàng, hương, dầu hỏa, đèn dầu; Hoa quả, bánh kẹo; 1 thuyền làm từ tre, gỗ, nứa, lá; 1 bàn thờ thấp có trải vải đỏ và một ghế ngồi cho thầy khi làm lễ; 1 bàn gỗ để đặt lễ trong quá trình cúng tế.
* Các thầy chuẩn bị: 2 bộ trang phục thầy cúng, 2 mũ vải đỏ; Tranh thờ (1 bộ 3 tranh Tam thanh); 1 sách cúng; 5 bộ vòng cổ bạc; 5 bộ phá nữ; 1 chuông; 1 gông; 1 lanh; 5 chuông; 2 chũm chọe; 1 trống; Bộ xin âm dương.
*. Danh sách các nghệ nhân tham gia hát "Páo dung":
1. Ông Đặng Nho Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
2. Ông Triệu Tiến Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
3. Ông Đặng Nho Hín (xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
4. Bà Bàn Thị Ton (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
5. Bà Phùng Thị Chạn (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
6. Bà Phùng Thị Lai (xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
7. Bà Lý Thị Ba (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
8. Bà Triệu Thị Sính (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
9. Ông Đặng Tòn Liếu (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
10. Ông Đặng Tòn Phạn (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
11. Ông Bàn Hữu Đông (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
12. Ông Bàn Phúc Thiên (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
5. Tiến trình hát "Páo dung":
Như trên đã nói, "Páo dung" là hát của tộc người Dao nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú. Trong điều kiện cho phép, chương trình quay phim bảo tồn này chỉ chọn lọc và thực hiện được những làn điệu và bài hát tiêu biểu nhất để làm nội dung cho kịch bản.
Trước hết là quá trình chuẩn bị nghi lễ và ca khúc hát vượt biển. Trước khi vào hát chính thức, công tác tổ chức được làm rất cẩn thận. Các thầy tự chuẩn bị những vật dụng cần dùng trong quá trình làm lễ, để ngay ngắn trên bàn ngồi làm lễ. Những người giúp việc thực hiện việc cắt giấy màu dán vào bàn thờ đặt lễ vật, xung quanh khu vực làm lễ, bày biện các đồ lễ vật theo sự chỉ đạo trực tiếp của ông thầy cả. Chiếc thuyền đã được chuẩn bị từ trước, đem ra đặt ngay cạnh con lợn cúng trên ban thờ đặt lễ.
Khi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất, thầy cả yêu cầu người giúp việc thắp hương, đốt đèn, rót rượu vào các chén để thầy chuẩn bị làm lễ. Những người phục vụ hương, đèn, rượu này không được phép vắng mặt trong suốt quá trình làm lễ và cũng không lúc nào được để hương tắt, đèn tắt hay rượu hết.
Xong việc, thầy Mo bắt đầu thỉnh chuông và cúng khấn mời tổ tiên về chứng giám và nghe khúc ca ôn lại lịch sử di cư của tộc người mình trong lịch sử. Đây là một trường ca dài kể về lịch sử của tộc người, từ khi không mặc áo quần, không biết chồng vợ, cho đến khi gặp trận đại hồng thủy, cỏ cây, con người chết hết, chỉ có hai anh em nhà nọ nhờ nương tựa trong quả bầu (trong truyện là hồ lô) mà thần sấm ban cho nên sống sót, đi khắp thế gian tìm người kết duyên, gặp con rùa, rùa bảo anh em lấy nhau để duy trì nòi giống nhưng hai em không tin, đánh vỡ mai rùa, rồi tiếp tục đi tìm nhưng thực là không còn một bóng người. Cuối cùng, hai anh em đành lấy nhau, sinh con đẻ cái, rồi sinh ra loài người. Số con đó một nửa lên non, một nửa xuống biển tạo thành 12 họ của tộc người như hiện nay. Nhưng do cuộc sống khó khăn, đoàn người quyết vượt biển đi tìm kế sinh nhai. Công cuộc vượt biển thật gian nan, vất vả nhưng với quyết tâm, với ý chí nghị lực phi thường, cuối cùng cũng hoàn tất đến bến bờ an toàn. Rồi các họ tộc cùng nhau cày cấy, vui chơi, hát ca, hưởng cuộc sống an bình, hạnh phúc đến muôn đời. Cốt truyện tuy giống với nhiều tộc người khác nhưng trong nội dung, ý thơ, lời hát, phong cách nghệ thuật trình diễn vẫn mang những nét bản sắc văn hóa của tộc người rất rõ nét. Đến khi đã lên hương, lên đèn đầy đủ, thầy cả bắt đầu ca:
PÌU DÌU KÍA KHÓI DUNG
(CA NGƯỜI DAO VƯỢT BIỂN)
Luồng kít nin kên kỳ chấy phúi
Slía luốn tồng siho chảng lít tầu
Chía kiếu chùn nghìn sũ dặm líu
Một kết một dằng buốn dặm biêu
Chẳng kết nhần mằn dặm ấy vạ
Liềm đía thó xanh kía tsliêu
Slin pết pé lụa chiệp phấy phíu
Xin chảng thút pầy duấn nụn tàu
Chảng kít nin kên vùi phấy dác
Dặm vụa túa sam sin tsluất mầu
Dùn xanh pham pé lụa chiệp phấy phúi
Mậu khuýa giăng mềnh dùn óm âu
Hạ kít nin kên khắng vui va
Ói kếnh sính chuần dặm híu tầu
Mụa kít nin kên vủi háu suôn
Thống nin dìa nhàng khấu mọn sliêu
Ù cá sính hùng phính sluất sấy
Chấy sluất tại dùa dung chuống châu
Kạp cháng dùn xanh lụa chiệp phíu
Duồi tậy thó xanh cánh chuống phíu
Dần Mão nhị nin kín tại quấy
Ù lìu ghịa tậy chám tìn pậu
Ù lìu chảng thin chùn một kiếu
Luồi nhà phộng pá một xong châu
Hai nhuần ếnh kiếu ù trừ vạ
Sbếp chuống luồi nhà chảng muột pâu
Duồi tậy lậu luồng khoa gọi sluất
Duồi luồng kết cháy tại hầu cầu
Siêu puốn hầu lâu duốn pụa ố
Phiêu duấn muồn puống pụa ố châu
Kình tỉnh dùn nin bồng súi phát
Hai phần tó mạnh chắn hầu lầu
Sluân xanh nạn tỏ bò nò vạ
Dâu día nàn hò kháu bói châu
Sluất chiu sliết día mậu mềnh nhụt
Sên bang síu duốn miền thin hầu
Đắp chảng thin tòng mậu thin khấu
Thin muồn thin đía síu pành pâu
Súi đía dằng luồng tài púng súi
Bầu lầu thoái tặng súi tình liều
Có pú nhị nhần phụ bây hộ
Tồ hoang kháu sấy muận ka kiều
Sluất sấy tồ hoang bầu lầu nọi
Pầu đầu thin đía siệu dàu dầu
Pá quấn bành dầu khán thin đía
Thin đía chiệp miêu mậu có châu
Pầu dầu kía chiêu thác pết cúa
Tú kín ùa quây làn lầu tầu
Ù quây khoi khấu chùn nghìn búa
Thin đía nhần mằn phấy líu hiêu
Dặm sáng bành dầu chiềm ngõ nịm
Chậy kắp hông đay vầy xấy phiêu
Phụ hây chấy mụi dặm siến va
Dậu quẫy lụn nghìn ká hoắng châu
Tá pó ù quây làn lậu chói
Chiên chía mậu nhân mạn cắp châu
Hành dầu chiệp chiêu mâu ngõ mịn
Siến chía ù quấy chiền vạ phiêu
Vụi sính duấn pâu phấy làng vạ
Cắp chánh ù quây dùa hắng phiêu
Kết chảng cắp chằng chiệp nhị cúa
Sin chảng trùn dùn hắng kiệu pâu
Phụ hây phang cắp pin phang cắp
Ếch khấu ù duồi phang cắp phiêu
Khói ngọn siêu hang đàu púi sấy
Găng mềnh chậu đía kết xong phiêu
Nhụt tàu kía thin vầy chong chếnh
Tậy ghịa còng bò choang chếch phiêu
Thin pun tậy pái chằng huân líu
Thất chịu khoa tó chảng nhằng pâu
Xanh ghịa hủn pùn mậu mềnh phích
Nhất có tông qua bìa muột châu
Mậu kế pun mềnh pé phính bộ
Khuýa chiến nhụt nhiêu pắn tồ phiêu
Phật chảng sbinh sên chằng nhân phích
Phật ghịa pành tín pé phích châu
Sbế pến nhân mằn chắn thin đía
Dặm tác pun mềnh pé phích châu
Sluất xấy sính lùng chấy liệp tỉnh
Xanh ghịa lục nàm lục phiêu châu
Pun pái lục nàm chằng lục phích
Lục nhiêu pun mềnh lục phích châu
Pun ghịa ngũ diêm cuộng lục kún
Nhất phích xanh nàn nhị phích phiêu
Khống chú sính hồng chấy sâu dặng
Dùn búa pun mềnh thin đía tầu
Chấy liệp họ tòng tộ sâu dặng
Chùn gáo nhân mằn thông biếu phiêu
Hoang tàu liều pham chấy ka khúa
Sìu dìu thin đía khuýa quân dầu
Chiêu hùng chấy chiêu có dịa tập
Tại mua liền bằng miễn tậy pâu
Túa hùng chấy khuýa pàn nhân sáy
Khuýa súi tàng chầy chắn mịn pâu
Pẹ mãi dùn tài tầy nhất kếch
Sâu dặng chùn tài tày nhị phiêu
Hái nhân tộ sâu chằng quấy cháy
Hái cô phiêu slun chằng quấy châu
Tộ sâu chía dặng cuôn mềnh bộ
Nhất cúa chìn làng nhị cúa phiêu
Chấy tỉnh nhất sên púi nhất súi
Thin đía nhất bò púi nhất chiêu
Chấy nài nhất nám púi nhất nhiêu
Nãm nhiêu chằng xong khú quấy phiêu
Nàn tong chiệp pết tếnh ca dạy
Nhiêu tong chiệp pết ká đào phiêu
Dần Mao nhị nin chạ mã phán
Pẹ nhính dạ dầu cuôn dạ dâu
Mềnh hùng sluất sấy phán thin đía
Sết pại nhân mằn pé nhính châu
Piền hùng sluất sấy pành on cúa
Thính chụ mềnh hùng phán pại chiêu
Say tông ừ kề pành mã khiếu
Duồi bô sết xanh pé phính châu
Miền mằn piu kía nàm kinh ngọn
Piền hùng nghìn hin kía tàng sliêu
Dần mao nhị nin thin tai hán
Ké mua sluất in chiu mụa khâu
Phấy có luồng muần mậu sún diến
Pết sluấn siêm tòng mậu có nhiều
Cuôn sbong mậu mãi dàu hoang chiến
Pẹ phích mậu làng hoang lụn dâu
Mậu sbấu số xanh mậu kế nọi
Pìu dìu kía khói khiếu tông chiêu
Phín liệp kía sên piền hùng póng
Bố liệp sâu liềm kía khói tàu
Cắp chằng tại dùn piu kía khói
Thất có tại chùn síu mịn biều
Quá khí hồng kề chùa chuống nọi
Ừ kề pành mã bin chùn biêu
Kắng quất lầy táu síu lầy cậu
Scâm ghịa lầy tầu síu lầy tầu
Danh thán piến than nàn phan duấn
Dùn tuông dân vắng dặm vần biêu
Tong chói chùn triêng pham pé nhất
Mậu kế nọi bò síu mịn biều
Dậu día luồng hùng tài káo kít
Puồng slui sín lọ khói nàn hầu
Kiềm lầu síu diếm bêu ghịa khói
Nạn pé luồng muồn síu đía biêu
Chuống tắn nhần mằn dàu hoang chiến
Chùn chuông phấy chụ sính hùng tầu
Só sbính thin say tài muộn quá
Tín sluất lìn chiêu pụa mịn tầu
Kía khói piền hùng chiệp nhị phích
Khúng día chày pun dặn kếch tàu
Dặm ếch chày phun kía tại khói
Súi lâu dặm thông chùn dặm biêu
Liềm chày biếu nhụn chùn tuông nọi
Ếch pú nhân tinh kía khói tàu
Ừ kề pành má mài lình sính
Vùi panh duốn pậu búa lìn chiêu
Phan chiu tú kín chùn buây khiếu
Chùn hành thán ngạn khẳng quân dần
Piu chiến phấu nọi lò sbăng quyện
Duồi sên canh cuống kía tàng sliêu
Tông quấy phộng vuof chiền ên nhụn
Pun dán hây tầu có phính phiêu
Nhất chùn kía khói có kế nọi
Tam chùn kía khói phấy chùn biều
Phấy chùn đắp thán rằng phay tố
Pham chùn kằng pá kắng chìu chiêu
Phấy chùa đắp chang ù quấy tây
Pết mạn sên tàu kắng quất chiêu
Pặng sên dung manh sống kía sấy
Kháu sính vầy ên sliêu kía sliêu
Nhất sên chám pại mậu canh chuống
Dậu kía nhị hang kháu nhị chiêu
Ông dìa chầy liệp sềnh chông chấu
Háu suận sính chiền phiêu chính tầu
Nhất kếnh ông dìa mịn quân hấy
Nhị kếnh sính chiền phiêu chính tầu
Pham kếnh bang tàn có cố tại
Tậu lây pành phiên pành pín phiêu
Tặng ka lây phính nhất dặng kế
Dậu púng phó muần liềm đía kiều
Có phính thính vần pháy khán dặng
Chiệp dặng phô muần liềm đía kiều
Tá kế dòi chùn on cọ lúi
Dặm dàu hái lậu khuốn phiêm dâu
Dịch nghĩa:
Sinh sống trước công nguyên kể lịch sử
Trước công nguyên con người sinh sống chưa có
Gia đình chồng vợ sinh sống trong rừng hỗn loạn
Người sống trước thượng nguyên thọ một nghìn tám trăm năm
Thân thể mặc đầy lông lá, không mặc áo quần
Đến trung nguyên ba trăm sáu mươi tư tuổi không lửa quang minh
Còn tối tăm, người sống hạ nguyên chưa tiếng nói
Muốn kính thánh thần không biết từ làm từ đâu
Mãi đến mộc cát niên gian mới biết hiếu thuận
Mới biết nghĩa vụ phải sinh con
Các thánh vương mới xuất thế
Chế ra cây búa dưỡng nhân gian
Mệnh sống con người sáu mươi tuổi
Dựa đất dưỡng sinh biết làm ăn
Bại đến Dần Mão hai năm trời điềm báo thần sấm hạ trần gian
Thần sấm trên trời truyền bá lại thần nhỏ rằng
Thần sấm có dặn hai anh em
Hai anh em nhớ lời dạy bảo
Mang răng đi cấy mọc hồ bô
Cây bầu phát triển them năm tháng
Ra hoa kết trái thành hồ bô
Thu hái hồ bô đem về cất
Hồ bô cất để trong nhà
Mừng tám tháng tư năm kinh định
Hồng thủy dâng ngập tận thiên đường
Anh em chui vào hồ bô ở
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Sơn bở nước ngập dâng tận trời
Dâng đến tận trời không lối thoát
Nghe nói thiên hạ nước ngập đầy
Nước dưới con sông mới sả thủy
Hồ bô đến đất nước ngừng dâng
Anh em hai người không thấy ai
Nhờ có hồ bô cứu được mạng
Du hành thiên hạ thấy buồn sầu
Cầm gậy du hành khắp thiên hạ
Thiên hạ thập châu không có người
Du hành nhiều châu đến tám nước
Thấy được con rùa ở giữa đường
Con rùa mở miệng đã cho biết
Thiên hạ nhân dân không còn ai
Không cần du hành tìm hạnh phúc
Tự kết hôn lễ chế nhân dân
Anh em chưa tin câu chuyện ấy
Con rùa mở miệng nói dối thôi
Đánh vỡ con rùa để ở đáy
Thật sự không ai thể ghép liền
Du hành mười châu tìm hạnh phúc
Mới tin con rùa nói thật thà
Hai anh em lúc này mới bàn bạc
Ghép mai con rùa ở thành nguyên
Kết trái ghép thành mười hai miếng
Ghép lại tuần hoàn như cũ luôn
Ghép lại thành liền như cũ
Ứng khẩu con rùa trở lại nguyên
Hai bên bờ biển cùng nhóm lửa
Khói lửa bay lên vẫn kết liền
Nguyện đầu quá thiên cùng làm chứng
Dưới đất cỏ sông cùng chứng minh
Trời xe duyên phận thành chồng vợ
Bảy ngày bảy đêm đã có bầu
Sinh ra quả dưa vô danh họ
Sinh ra quả dưa chửa thành người
Không cách phân minh thành ra họ
Chín trâu ngọc nữ mới phân chia
Leo lên thành sơn thành dân tộc
Đi xuống đồng bằng vạn họ dân
Hóa thành nhân dân khắp thiên hạ
Chưa được phân chia thành họ nào
Xuất thế thánh hoàng được phân định
Phân thành sáu nam sáu nữ danh
Phân cho sáu nam thành sáu họ
Sáu nữ phân thành sáu nữ danh
Phân xuống ngũ âm cộng lục quyển
Nam nữ hai họ mới thành duyên
Khổng tử thánh hoàng chê thơ chữ
Truyền bá thế gian cùng học chung
Chế lập học đường để học chữ
Truyền giáo nhân dân cùng hiểu hay
Hương đầu lưu tam chê ca nhạc
Vui chơi ca hát được hân hoan
Vương triều được lập để cai quản
Cây cao bóng cả che mọi người
Trúc vương chế hỏa thế gian dụng
Thủy hỏa trường kỳ phải có luôn
Ngũ cốc lúa gạo quý thứ nhất
Thơ chữ tính quý thứ nhì
Nhị nhân đọc thơ thành quý tử
Người nào canh tác thành quý nhân
Dùi mài kinh sử thành quan chức
Nhất quản triều đình nhị quản dân
Chế định nhất sơn với nhất thủy
Thiên hạ nhất hà với nhất châu
Sinh được nhất nam với nhất nữ
Nam nữ thành đôi thành gia đình
Nam đương mười tám biết xây dựng
Nữ đương mười tám biết cầu hôn
Dần Mão hai năm giặc kinh loạn
Nhân dân cũng lo quan cũng lo
Minh hoàng ra đời phạm thiên hạ
Sát hại nhân dân trăm họ người
Bàn Vương xuất thế bình an quốc
Nghe thấy minh hoàng phạm lại triều
Sai đông ngũ kỳ binh mã khổ
Tại sao sát sinh trăm họ dân
Nhân dân hoảng sợ chạy toán loạn
Bàn Vương nhỏ lệ quá trường thu
Dần Mão hai năm thiên đại hán
Cây cối ra khói chuối cũng khô
Bốn bể xung quanh đều không nước
Tư sử sông hồ vô hữu ngư
Quan dân vô thực buồn sầu thảm
Nhân dân nghèo đói loạn buồn sầu
Vô thực dưỡng sinh chịu nạn đói
Liều mình vượt biển ra biển Đông
Tiên lập quá sơn Bàn Vương bảng
Hậu lập sách lâm quá hải tờ
Ghép thành thuyền bơi sang biển Đông
Bảy chiếc đại thuyền trôi trên biển
Mênh mông nhiều ngày nhiều hải lý
Nước sâu sóng dữ rất khó đi
Chèo đến lưng chừng khó quay lại
Trong thuyền quỷ quái khó lòng qua
Lênh đênh sóng biển ba mươi ngày
Đành chịu khó khăn ngoài biển khơi
Lại sợ Long Vương gây ra họa
Phong ba bão táp thuyền bị chìm
Bát hương bát nước ném xuống biển
Vạn bách long môn dưới thủy lưu
Trong thuyền mọi người cùng hoảng sợ
Trong thuyền quy nghĩ ra nhiều điều
Có được thiên sư đến xem quẻ
Đoán ra liên châu tam miếu thần
Quá với Bàn Vương mười hai họ
Bỏ rơi không thờ thần thánh đường
Thần không phù hộ cho vượt biển
Thủy bộ bất thông thuyền khó đi
Trong thuyền cầu khấn ngay lập tức
Phù hộ các con vượt biển đường
Ngũ kỳ binh mã linh thần thánh
Hồi binh về bộ báo liên châu
Ba ngày được thấy thuyền hành khổ
Thuyền cũng bơi được đến bến bờ
Triều châu phủ bộ cùng các huyện
Cùng bàn canh tác dựa rừng gò
Đông quý tạ hoàn thân ơn khấn
Phân chia từng họ tự khác làm
Mỗi họ sang biển có một kế
Ba thuyền sang biển bốn thuyền hay
Bốn thuyền cập bến Triều Châu phủ
Chia ra bát hương tự khác lo
Hai thuyền cập bến Quảng Tây đảo
Ba thuyền Quảng Bác Quảng Triều Châu
Bốn thuyền cập bến u quáng địa
Tám vạn rừng gò rông phán châu
Nhất sơn chém trém trụi sang nơi khác
Bại đến nhị nơi dựa nhị phương
Ông cha thành lập thừa tông tổ
Hiếu thuận thánh đi đúng đúng đường
Nhất kính ông cha toan hoan hỉ
Nhị kính thánh Bàn đúng đường phương
Họ Đặng họ Lý cùng một kế
Lại làm bẫy khóa cài ở rừng
Các họ nghe thấy cũng bắt chước
Mười dặm kiểu kế di kiếm cầu
Bàn xong các kế ổn định hết
Không phải tơ vương nghĩ kế gì
Khi đã sang tới bến bờ an toàn, làm ăn may mắn, sinh sống hạnh phúc, thóc lúa đầy kho, gia súc đầy chuồng, người an vật thịnh, để cảm tạ sự phù hộ của các bậc thánh nhân, đúng theo lời hứa, từng họ của tộc người Dao làm lễ trả ơn. Bài ca "Trẩu đàng ý tría" và "Cú dung" thể hiện cụ thể nội dung đó:
TRẤU ĐÀNG Ý TRÍA
(HOÀNG ÂN CẢM TẠ)
Ká lỳ hóp lù trống sếnh ngoày hóp lù trồng san
Trống san trống sếnh trống vuậy sàn mềnh
Hoàn bào trí trói hoán chói ỳ kiông hoàn hoan
Trói boòng kỳ vuậy có co báp nghỉ thếnh sêng
Tạn thếnh dất mềnh tồng trị siên thông voàn nhụn
Siáng dềnh ý tría mó thểnh tông phang côồng dồ
Bòi tsếng miến thểnh say phang sía trọng bòi ngềng
Chói bọ hiàng đắn tạn thếnh siếu siếu dáng sỳ sáo
Hom tồng bềnh bềnh nhắp muồn siang tsếnh bò cú huồn huồn
Ý tría bềng bềng sáo trông triếp truổn ón siáng
Siàng ngềng quối bọ trống sếnh đằn thềnh
Ý tría biàng biàng sáo trông triếp truổn ón siắng
Trống sếnh đắn tsiàng ý tría bồng bồng quấy bọ
Trống sếnh đằn trồồng hòi háo kiếp nghí siền thống
Voàn nhủn mà đào trói vuậy nhắp muồn siang tsếng
Si áng dềnh ý tría phàn mềnh trống sềng duồn hiồng
Tsếng há coóng phú hiàng đắn tà dắt tsếng san
Tố ố ố tà nhị tsếng sếng tồ ka hiàng hoa
Triếp bếng tráp trói hiàng đằn lí nuối tà sam
Nhị sam tsếng sếng pịa pú dòi bàm
Tsếng san tố ố tsếng sếnh tsếngồ cà bày san trói vuậy
Bày sếng trói kiông hoan trói ý kiông tsếng tạn thếnh siếu
Siếu mềnh xỳ tái thông sam đào biang ký cà trí
Tồng tsao ý bòi còn nhuần bài lụ siắng dềng ý
Tría trếnh vọa pạ xuất siắng dếng ý tría sểng siắng
Pạ chi cá diềm vọa pí thiên siắng tsặt sêng
Nàn trí tí hía kăng cú nàn hì sam kăng chía
Trếnh día trếnh sam cằng thái dàng bó liếu thái
Yêm duổn siặng tsặt sêng doán huấn pạ táu duồn hàng
Nhần mằn quôi ố ngào mà quôi bàn cay dí đàu
Bồng piếu dí đàu bàm cà trí đàu xỳ tsếng
Tá siếu siếu dàng xy huấy nhần pạ tsếng tsếng
Nhần pạ huấy pị nhần siang tsếng pạ pị hiàng
Đàn bí nuối pạ pị dí mủ tò hàng pạ pị
Tsêng thiên nhất pạ pị thài dàng tsắt triếu pạ pị
I ố bi thái yêm tsắt triếu pạ pị yềm bọ tị
Nhụa pạ pị sí piên đào pạ lù xy pạ pị xý piên
Coong xuôi tsiàng bào pạ pị xý piên tại mụa
Dìa bàm pạ pị sý piên hù xăng miên siếu pạ
Pị sếng voàng vuầy tại hiàng đằn bi nuối
Pạ kám pị yêm pạ kám pị dàng siếu xy bọ
Siếu tại tám quội bọ trống sếng kiêm ón đòi diền
Siếu si bọ siếu háo trông tsía mạn yêm si tái
Lý hàng diều dàng si tái lì hàng háo kháu
Mộng trống trống yêm si dắt mềnh tồng trị tráo piên
Tsếng tsắt sàn diền tồng trí dạu piên tsếng tsắt
Hố pá siên xy siáng dềnh ý tría phông tsếng mí
Sí tsếng phổng pạ mí sì pạ phông tsuội luồi
San cói điến phông của cù san tại mua bàm
Bàm pạ trám pạ tuốn siếu mụa pạ trống pạ xằng
Tồng trông pạ tá pạ hiàng bò cú pạ tá pạ sênh ỳ tría
Pạ suất pạ tsêng ngìn vọa pạ pú pạ mềnh tồng
Bềnh khềng khêng hòi háo phàm mềnh siếu
Duồn siếu vuậy pạ ám sêng trao pú huận dất kuông
Ý tría của biểu nhị kuông si áng dềnh ý tría dấu
Hòi trếnh tong sềnh trao pú huấn ý tría bềng
Bềnh sềng trao pú huấn sêng voàng cói điện cói
Của mú niên mú nhụt mú nhắt ý bòi hì bù
Tsắt húa hì ghi thuấy trạ diền hí múa trao mú
Khú mú huấn mú sía mú tsông tị tsí
Lỳ đào tồng tso ý bòi mú nhần bòi tố puốn phang
Tì niệm dất đồng cà trị duân trói kcậu phang
Tì niệm sàn đào trám pại san kúa trám hoong
Mú t sý kằng tsuôn kê ngọ nàn tong ông
Ùa thái trú cà siên muồn diền siếu mủ lạp tá
Tsiên niên bềnh điền xuối thú ố puối siếu mủ lạp
Tá mán tại t siềng biàu dấu dì sân pặng san
Vuầy bệ khau sếng vuầy an hếch biếu dất
San bào của nhị san kếch biếu dất xuối bào
Của nhị xuấy thếnh vuồn nhần duồn mú tsí lì đào
Sàn đào dả hú san mí duồn coong xuôi
Dã bềnh mú nhần dất đồng cà trị hì lù san
Húa hì ghi thuẩy trạ thuẩy vuậy trụ trông hiàng
Húa tò tái kiềm bù xuối voán tsi kiông nàm ní
Duối trói kậu phang tì miện bào duốn cúa hói bào
Lụ cúa kai bào san cúa bếng boi tố mú tsí
Đào sàn đào dả hú san mí dả duồn coong xuấy
Dả bềng tría muộn puồn phang tị trí quân nhần
Hoi tám san đào tá hội voàng này tri thú
Bạp hí sí cáo mào phàng bạp hí bồng ghi
Ố trá siáng cói thiên đòng ỳ xuẩy trông cói
Tại đằn trú trông hiang húa hạ cói nhần
Tềng cói cúa ngòa dìn kúa há dáng muột
Tri dòi cày dòi niên dả cao suấy suấy
Cao niên cao cúa mú niên mú nhạt mú nhất
Mú yêm mú nhần tồng t si mú sỉ tría cà
Muồn đào siặng hiàng đằn lí nuối siêu hí
Dất lù nhị bù sam lù mềnh hiang hiang
Si pạ diên tại công siếu dí pá diên hò ý phồng
Dềnh diên vuậy tồng tsoo ý bòi hồng xuối phát
Há thiên đáy biau dấu dì sân siều hiang
Kếnh phộng trú trông hiang húa liền trào pham
Miệu sềng voáng buồn voàng dì sân pạng san
San vuầy bệ kháu sếnh vuầy an kháu mộng
Yêm kan pú trếnh yếu cúa biàng mằn nhụt đào
Tsoo tsắt triếu há bàn kan sạp nhị sếng
Biàu dấu dì sân siều hiang kếnh phộng yêm
Phú tềnh kan voàn nhủn đồ tsiang siên
Thông siắng dềng ỳ tría trống sếng kam tri
Ngũ si pạ cám cù sêng khí kiếp sêng
Boòng khí tải siếu si phú mú thóc xăng bào
Dòng họ tị nhần bồ tẩu nụm tồng bềng hòi
Háo suất vỏa phàn mềnh siên thông cà trí
Voàn nhủn tri dí tồng tsao ỳ bòi buôn cú
Sếng voàng hoi thiên bạp tí mạm cú duồn diền
Tsềng duồn dằng dằng cói cúa thiên đoòng ngũ
Buồi kiấu sêng duồn mủ óm há thiên đoòng
Thiền đềng phát ý hồng xuối yếm hí
Thiên piên coong xuối dào dào tsắt trói sàn
Nhuồn xuối piếu u hác óm ý cù voàng trí
Thiên bềng trí tí thiên trí si phang tị trí
Pát coó trí bay sàn nhuần xuối piếu trí dáu
Yềm dàng san sếng trí đáu pạ nhị nhần
Màn trí dáu trí dáu vùa miều điền đoòng trí
Dáu ngũ cú vùa miều mí biàng pạ nhị sếng
Biàu dấu dì sân duồi niên kăng trống trí dáu
Trí dáu t sắt seng mềnh nhụt triếu há
Bàm kan sếnh niên kan siắng duồn cáp
Dí nhân xăng dật tsiên pát pá lụ sạp
Sí xuấy hàng hiang duồn muồn ý biệu
Diếu mụ phú dí yềm phú tềng can dấu bòi
Cao cưa trông duồn káp dí nhần săng
Sam pá lụ sạp sì xuẩy hàng hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mụ phú dí yêm phú tiềng
Can dấu bòi cáo của hạ duồn cáp
Dí dật pá nhị sạp xì xuội hang hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mủ phú dí yềm phú tềng
Kan dấu bòi cao của kềng tệng duỗn miên sí
Nhuật tso pát trông trì nhất hồng xuối phát
Há gyàng gyáng duồn mú dằng dằng yếm hí
Thiên đàng yếm sí thiên ha nhần mằn cói
Diện thiên há nhần mằn trộng dáu phụ kihi
Tría mấy nhị nhần duồn trói hù lù tú muội
Tồô hoang tsắt sấy bào hàng thiên há tá kiến
Mú có nhần mằn trếnh bòi vuầy huân phấy
Họp phù tsi trí tsắt sạp nhị sếng biáu dẩu
Di sân biàng mằn pạ sếng duồi san kăng trống
Dấu bòi cao của mụa cít miền kan nhầm
Xăng bụ sạp káp dí pẹng mạn liều bìm
Trếnh bòi phú dí tại đằn trú trông
Hiáng húa biền trao sam miện sểng voàng
Sếng voàng tsắt sáy trí bạp kiềm bắn sểng
Điện xăng há lụ màn lụ ný nàm trí đào căn
Ní trí bềnh pán tráp xa voàng soo co dào lả
Boòng trí co bào sam trí hiố trao voàng trí mụa
Ngũ bo trí hoa đồng voàng trí diền túa voàng
Trí húa lù pan trí ố khống chú trí mầy
San họ đòong tộ xi siắng kháo quoán trế
Trí lạp trao phú huân muồn quoán há nhần
Mằn pạ sểng trí dáu ngũ cú san nồng
Voàng tái tri tsắt ngũ cú mí bìang tsố
Tsắt cù hoa mí tráo ngũ cú bồng chiang còong
Trông dáu tráo bềnh trông huấn sếng sàn
Mềnh biền tại sếng lềng đòi bềnh on
Dậu lòi cáo của mềnh trìu tại voàng tsắt sáy
Phán pại thiên há nhân mằn cói trìu diện
Cúa buần voáng sếng trí tsay dáu ngũ ghì
Pêng mà duồi hồ guếu săng sếng voàng
Chói bọ kiềm băn điện siăng
San tsên tsắt pá lụ sạp sì xuấy kap dí
Hàng hiang duồn muồn liệu lụ nàm dềng
Lủ sếng lủ ní phan dềng lủ sểng phan dềng
Sạp nhị sếng bìau dấu dì sân phân dềng
Siến yêm nàm ní phan dềng kiông yêm
Nàm ní phan dềng trí yêm nàm ní phan
Dềng cóo yên nàm ní phan dềng ngũ yên lụ
Chún tại sếng bềng voàng trí dáu của
San póong trọong sạp nhị sếng triang tô mà
Dày kiúa dấn sạp nhị miến bao pá sạp
Nhị sếng biàu dấu dì sân sềnh tểnh vuồi
Nú kháu san vuầy lệ kháu sổng vuồi an
Sếng voàng quây điện trí dáu biền trao sam
Miệu sếng voàng pụa coong tại voàng ngũ ghì
Pếng má dấu bòi cao của hông ú niên can
Phán pại thiên há nhần mằn cói diện quân
Voàng sát trìu pại trế sap nhị sếng bìau
Dịch nghĩa:
Hoàng ân cảm tạ đại thân phụ mẫu
Ngày xưa, dân tộc Dao còn sinh sống tại bên kia bờ biển.
Họ tộc người Dao cũng thờ phụ mẫu
Thờ thần linh và những vị thánh cao thượng đế
Để phù hộ cho gia đình thịnh vượng
Có sức khỏe dồi dào, hòa thuận, hạnh phúc
Cho con cháu biết kính trên nhường dưới
Biết thể hiện đạo lý làm người
Người Dao vẫn canh tác nương rẫy
Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên
Cuộc sống cứ thế trở thành truyền kiếp
Kéo dài từ năm này qua năm khác
Kéo dài từ đời này qua đời khác
Đến hai năm là năm Dần, Mão
Không may bị hạn hán mấy năm liền
Đến nỗi lá chuối bốc thành lửa
Cây cối ra khói, ra than tro hết
Con người không còn lương thực để ăn
Sông suối không còn nước cho con người uống
Khe suối cạn kiệt không còn nước
Con cá không còn nơi sinh sống
Mười hai họ của người Dao lòng đầy âu lo
Lo lắng cho sự sinh tồn của dân tộc mình
Họ bèn họp nhau lại cùng bàn
Nhằm nghĩ ra cách cứu sống dân tộc mình
Họ đồng tâm liều mình một phen
Nhất quyết vượt biển tìm kế sinh nhai
Mười hai họ cùng nhau chuẩn bị
Chuẩn bị một con thuyền rất to
Sắp xếp hành lý cùng lên thuyền
Lương thực còn sót lại mang theo
Đồ thờ phụng khá cũng đầy đủ
Thế rồi cùng nhau vượt biển
Vượt sóng muôn trùng đẩy ra khơi
Đi được tròn bảy ngày bảy đêm
Lênh đênh trên biển vô bờ bến
Bỗng đánh rơi một bát nhang to
Để thắp hương thờ Phật phù hộ
Bát hương đã rơi xuống biển sâu
Thế là phạm ý trời ý Phật
Trời bỗng nổi cơn thịnh nộ
Bốc sóng lên cao vút tầng mây
Sấm chớp cùng dông tố dữ dội
Mười hai họ chưa từng thấy bao giờ
Mười hai họ Dao trong thuyền kinh hoàng, sợ hãi
Tới lúc này mọi người mới nghĩ ra
Do đánh rơi bát nhanh thờ Phật
Bảo bối thờ Phật muôn đời nay
Nên thần Phật không còn linh thiêng nữa
Mới xảy ra họa lớn thế này
Mười hai họ cùng họp nhau lại
Cùng ngồi trong thuyền cầu khấn Phật tiên
Mong các vị thánh thần linh phù hộ
Cho chúng con qua được cơn sóng này
Được sóng yên gió lặng muôn trùng
Chúng con vượt biển được an toàn
Sang cập được bến bờ bên kia
Chúng con xin hứa sẽ tạ ơn
Mỗi họ bằng hai con lợn to
Bằng nhiều hũ rượu thơm gạo mới
Bằng gạo nếp thơm nhiều cân
Bằng bánh trái hoa quả dâng lên
Trai trẻ, gái trẻ dâng lễ vật
Có mời ba thầy để mời thần linh
Mời phụ mẫu đến từng gia đình
Đến từng họ nhận lễ tạ ơn
Đó là lòng thành của chúng con
Sau khi cầu khấn được như vậy
Các vị thần thánh rất linh thiêng
Trời tự nhiên sóng yên gió lặng
Trời quang, mây tạnh sáng bừng lên
Đoàn người vào được bờ an toàn
Từ đó, mười hai họ tộc người Dao
Không bao giờ vong ân bạc nghĩa
Đời đời, kiếp kiếp xin được trả ân
Hoàn ân trả nghĩa với phụ mẫu linh thiêng
Cứ như vậy thành lệ lưu truyền
Mỗi đời người tạ ơn một lần
"Cú dung" cũng là một đoạn ca thể hiện sự đền đáp công ơn đối với các bậc thần thánh của tộc người. Đoạn ca vừa thể hiện lịch sử tộc người, vừa thể hiện truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo vừa mang tính giáo dục sâu sắc:
U CÚ DUNG
(TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN)
Dấu dì sân thuối há kiềm bằn sêng điện
Pan hí trìu trao phú bọ tsiang huấn nàm
San pát phang san dào duồi san kăng
Trống dấu lòi cao của diền mào nhị niền
Thiên trí tại hàn sam miền sí sí xuống quaon
Tsoong mú mái pạ sếng mù biàng nhần
Mằn bào luộn mủ ký nọi hò triu ụp
Tsắt húa ké mụa tsắt diên coong hò
Mụ xuối siềm đòng mù nhì bềnh điền mụ
Xuối sạp nhị sếng biàu dấu dì sần niền
Niên kê ngỏ mủ líang tham hếch mủ kế
Nọi hò trếch bòi phiáo dào của hói dất
Tsiên tsắt pá hói lí sam có nhụt đào
Dàng san nàm pú sếng nụng nàn tồô sạp
Nhị căn hìang lù bao há ngũ hói bồng
Muồn sếng voàng ú nú trói san trếnh lòi
Hác óm duồn trông t sắt ýa duồn hàng siếu
Mủ tố ngản mà háng siếu mủ tố hiang
San lú pạ thông xuối lú pạ hòi dấu bói
Tá kiến quay treeng tại phông dả tố tại
Ý dả bói thếch vuần hói đáy bồng muốn
Sếng híang dậu phá tại phông tại ý
Tsuối bọ ngũ hói bồng muốn có nhần
San hoang dàu ýa kêng hoang kháu thiên
Mủ bệ kháu sêng mủ an si lìang
Sí tróc muồn lụ mú nhần vuầy cô vuầy tại
Trì nhần trộng dáu trụ trông hiang húa
Dia tí ngũ ghì pêng mà diền bói sết phẩy hồ
Bói guếu săng guêu tá sam miên mủ con tri
Tsố guếu tá sí nhất mú mẹng trì nhần trếnh
Lòi duồn trói duồn trông li nuối kầu huấn
Trụ trông hiang húa ngũ ghì pềng má nàm
Họng puốn trú cà siên vuầng đào
Du oán miến hí siáng san an liàng nhụn sọ
Pú nhần têng mí kêng sam trao dất tsắt
Duồn hàng tố ngản mà hàng tố hiang
Duồn đào phiu siáng quoang tông đó tsiáo trao
Phú bọ tsiang huấn nàm phang sàn đào lạp hí
Bồng ghi ố trá duồi san kăng trống ngũ cú
Phộng voàng tại sộc tsắt nhụt sạp nguc chông
Chì nhất sạp nhị sểng biàu dấu dì san
Trếnh bói voàn an tạp trỉa tại san phú mú
San an biáng nhụn duồi muốn ý biệu
Dất tọi của biểu nhj tọi sềnh trông nhị
Của biếu sam tọi sềnh trông tsiệp trú
Tếnh tái hiàng diều dì sâu kiáo đồng mạn
Tọi y trông tsiệp chú y cú tái lạy phú dí
Yềm phú tềng kàn dất niên sí ký siêu dìn
Siếu vụi dất niên si cý sam ngà sí tráy
Tsuối trắn ngàn tsiền của biếu dất niên si cý
Vuồi bòi sọ pú nhần tềng sọ pú nhần hảo
Sọ pú ngòa dìn kúa há dáng muột chi dòi
Cay dòi ca ly quoàn bù thóng dán ngoáy
Bý pạ háo thóong hoi dất đồng cà trí tsiền
Ý bói duôn trói mú niên mú nhuột mú nhất
Ý bói tsắt san hí siáng hò siáng vèng trị
Yùi si liáng nhụn siáng đằn tsếng tsắt hí
Nhủn tồng trí há đằn tsếng tsắt pá nhủn
Puần quân hi siáng pù si trói ơn dất
Hí nhị poong pù si liàng nhủn pạ tuẩn
Hò niên pạ tuấn hò nhụt nhuẩn tuẩn sạp
Niên tá siáng nhị sạp niên ta há dáu
San hi nhủn dáu san phổng voàn pù si
Hoòng hoòng áp trói tua đồng lì nuối soo
Doòng tú hóa ngàn tsiền pụa bày sao
Bênh sao nọp tsếng phúa có nhân tsắt sáy
Hoàn kuông vuầy phộng dất soong
Dậu trụ kiáng mú nhất poong liáng piên troó dảu nhủn đầu dòi
Dịch nghĩa:
TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN
Bản cổ sơ khai phân thiên địa
Chế lập năm họ chế loài cây
Chế sơn đầu nhân dân được ở
Chế lập cung điện thánh nhân an
Chế được thánh điện chế ngũ cốc
Chế được ngũ cốc dưỡng nhân dân
Ngũ cốc xuất thế phân lương huyện
Xuất tại phân lương phân quốc triều
Khai thiên lập địa ngũ âm họ
Chế được nhân gian vô vàn người
Kinh dịch nguyên niên phát hồng thủy
Gò bở nước dâng đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Nước ngập đến trời khó mà lường
Hồng thủy ngập trời biến bại dạng
Thiên hạ không người chuyền cổ ngôn
Chỉ còn hai anh em còn tồn tại
Hồ lô trôi nổi đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm hồng thủy ngập
Anh em hai người đi khắp nơi
Đi khắp các nơi không có ai
Còn lại anh em hai người thôi
Đi đến ba suối khe thật dốc
Gặp được con rùa ở trên đường
Anh em hai người mở miệng hỏi
Con rùa xuất khẩu không còn ai
Tay cầm gậy sắt lại đi tiếp
Đúng là thiên hạ chẳng còn ai
Đi khắp các nơi không ai cả
Lại ghép con rùa mai thành liền
Liễn biên thắp hương khói liên kết
Đành phải lấy nhau nối tông đường
Đẻ ra con người không gì dưỡng
Ngũ cốc đại vương anh mới thương
Thần nông hoàng đế chế ngũ cốc
Lưu danh thiên hạ dưỡng nhân dân
Ngũ cốc chính thức là bảo ngọc
Cứu được mọi người sống ấm no
Chuột chúa sang biển tha giống lúa
Con rồng phun nước tưới lúa xanh
Thanh minh cốc vũ cho mưa xuống
Được thấy cây lúa xanh tốt tươi
Thần lúa thổ địa quan ngũ cốc
Hoa tiến tiển nàng quản lúa cây
Lúa hoa chị em chuyên chăm sóc
Ngũ cốc đại vương cho lúa kho
Lúa tẻ đến dùng làm cơm bữa
Lúa nếp để dùng làm rượu thơm
Ngũ cốc đúng ba đường nhân ngọc
Trăm họ nhân dân cũng phải cầu
Thứ nhất cung kính các vị vua
Thứ hai là để cứu dân cư
Cao Vương ở trời chế thiên địa
Bình vương ở đất chế suối sông
Chế được sông suối vô vàn khúc
Lại chế đại thuyền mặt nước đi
Thiên tư hạ giáng thiên ban điện
Lưu tam chế được vạn bài ca
Long cung truyền phép chém quỷ kiếm
Đàn tiền cầu phép diệt trừ yêu
Kèn cũng khẽ thổi trống khẽ đánh
Kinh phí chín bậc không bước nhầm
Thiên thượng nhất tinh du thiên quá
Nghìn dòng sông suối chảy về đông
Giữ yên gia đình toàn lương nguyện
Kế tài vượng quá đại thiên nga
Người thầy đương thiên chiêu hòa đến
Hòa ông hòa mẫu nhập hòa kho
Bên cạnh câu truyện cổ được phổ biến rộng rãi như trên, trong "Páo dung", đồng bào còn rất nhiều thể loại khác nhau. Có cả những truyện thơ sao chép từ Trung Quốc như "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài" nhưng nó thể hiện tâm tư, tình cảm của cộng đồng, được ghi chép cẩn thận và lưu truyền rất rộng rãi:
ÈNG TÒI CẤU GHÌN DUNG
(LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI)
Pham pé nìn cô hắng chìn khiếu
Èng tòi chói hố thó sâu ngìn
Khấu tháu họ tòng tộ sâu hỏng
Chiệp puân quyênhấy tộ sâu ngìn
Nhị nhân giòi chuộng chiệp họ quyện
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Phía dẳng nhị nhân chuổng péng pắt
Tòi thiên tộ sâu chuộng nhất pin
Nhị nhân chói lọ tòng lấy
Tộ sâu phía dẳng tú tam nin
Tộ chiến kinh sâu trin pé puấn
Èng tòi phấy pháng diếm cha vìn
Nhất tài phây chụ lòng día chía
Nhị mộc dàu día mẩu xong lìn
Chai tàu mái tú gằng dầu chấy
Èng tòi phía suất mạn sầu ngìn
Chệ pệ phìn sanh lòng quây khấu
Nhị nhân thau siếu sluất muồn chìn
Thau siếu nhệ miền pịn nàn sía
Làng tam phang púng kía chai pin
Phúng tráu lậu tàu dặm sía líu
Nhị thiên thau siếu tún kiêm ngìn
Èng tòi búa kiếu làng pham dé
Nin hô sin mạn tháu cha vìn
Phúng tháu lầu tàu có chấy khấu
Nhị nhân sau siếu có cha vìn
Pham pé kiệu quôi họ tòng lấy
Èng tòi quây duốn chậy muồn chìn
Día lấy dìa nhàng phiêm quyên hấy
Tú kín èng tòi tháu mịn chìn
Sin thiên ây xam kháng tút líu
Chuộng có nhâu nhân nin kía nin
Tam tứ quê tháu họ tòng lấy
Phiêm tuông dàu día dẫu khoi ngìn
Khấu pịn tộ sâu phiêm pị pháng
Pliêm tuông dã ói duấn cha vìn
Tam tứ phây làng phiêm phây duốn
Sâu phang siêu khí thuất mần chìn
Quê tháu èng tòi nhuần chìn chói
Huống chìn khói khấu muộn pao ngìn
Èng tòi thính chụ làng tam tứ
Nhân sin chong có thính chai pin
Tam tứ tháu siêu dặm phang chía
Èng tòi thau siếu thính khoi ngìn
Tòi thiên tộ sâu pin tử mui
Tam tứ phiêm tuoonng dặm siến ngìn
Dặn siến khoi phang tiệp sâu tói
Làng tam thính siến mui chiên ngìn
Tòi thiên nhị nhân tòi sâu dặng
Làng tam thính siến mụi chiên ngìn
Pin muộn hái chiêu hái quyện khé
Diền hò tài tháu ố vìn pin
Pịn chấy chuộng chiêu làng tam tứ
Èng tòi tú chuộng chói tam nin
Èng tòi búa chiêm mụi dìa chía
Dìa chía thính nhàng suất diết sing
Nhị nhân chuộng chói họ tòng lấy
Chuộng hèng chuộng chuội sâu pìn
Tam tứ thục sinh sính chiên mụi
Nhị nhân thính híu mụi chiên ngìn
Dìa nhàng thính chụ dìa chía vủa
Cha tưng siu khí phộng chà chìn
Èng tòi thó chà tam tứ diếm
Họp pùm tò chịa thó tòi pìn
Dặm siến pòng chìn tam tứ khiếu
Èng tòi phang pháng suất mần chìn
Èng tòi pín búa làng tam tứ
Búa lòng pháy thính mụi kiêm ngìn
Dàng sấy lậu tàu mạn tú lìn
Èng tói búa chiên làng tam tứ
Quôi cha ý día quá phiêm pìn
Chói dụa kiêm phây chính lìn khấu
Dặm pây mạn púi chía tàng nin
Làng tam phiem tuông tồ dàu día
Khấu tuông gom luổi lạ lìn lìn
Dìa día tủ kín làng tam tứ
Dìa nhàng tú kín luổi lìn lìn lo
Cha lấy dìa nhàng muộn tam tứ
Tuông vẩy hái día dàu phiêm pin
Dầu hò lọ líu mịn khé khiếu
Vuẩy hò dàu día hái pin pin ngìn
Chói lọ họ tòng vuẩy hái chảy
Vuẩy hái diền dầu dàu día pin
Tam tứ thính chụ dìa chía vủa
Khấu dẻ khoi ngìn luổi dả lìn
Piên tuoonng tồ dàu dẳm vuẩy hái
Dìa chía mịn chìn thính pháy ngìn
Chuộng chói cha tuông khiếu họ quyện
Vuẩy chụ èng tòi tháu lẩu pin
Nhị nhân lẩu ngũ phang tún tỉnh
Khống chú tộ sâu chuộng nhất pin
Sín puống nhị nhân chuộng pá sin
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Tộ sâu tam min dẳm phang chía
Duối nhất thính pấy chiên quá ngìn
Dìa nhàng thính híu dàu phiểm líu
Dặm tú èng tòi tháu siếu lìn
Dìa nhàng thính chụ tam tứ chủa
Ý dụa tồ dàu hái dặng ngìn
Hố nhất dìa nhàng khiếu phang muận
Hố nhất mài tin chổng tú lìn
Tam từ dìa nhàng hắng khấu muộn
Pin muổn àng tòi dìa chía ngìn
Èng tòi dìa chía vủa khò phí
Tăm tứ mẩu dùn khùng quá ngìn
Léng líu mái cha thình chà phiến
Tam tứ mạu dùn khùng hẳn sin
Tam tứ ói lìn dẳm điểu vủa
Dùn thín mái chạ tỉnh líu chìn
Mai chạ diếu mộc tú lìn khiếu
Khò phí hàng mùi khung hặm pin
Tam tứ mài chìn pết sấu muổn
Dẳm hẳn èng tòi dặm tú lìn
Èng tòi thính chụ hèng mùi pin
Búa riếu hèng mùi thính mụi ngìn
Quây cha búa kiếu làng tam tứ
Ý hẳn èng tòi quá tậu ngìn
Diếu tài tam mộc tú lìn mùi
Dìa chía sẩy kiêm leng nữ chìn
Nhị nhân chụ mẩu tài puẩn
Liều gia chiền phiêm hố sấy lìn
Bèng mùi thính chụ èng tòi vả
Khấu tuông vậy vả pin nàn lìn
Hanh mình búa chiếu dặm tú púi
Diếu tài than siếu suất muần chìn
Èng tòi mài ngìn dặm khú vả
Sin ngũ ấy xam thút dết pin
Ây xam phía chàng siền siếu phiến
Chúy búa hàng thôi quây duấn vìn
Quê cha pin pá tam tứ tộ
Pháy khoi tộ khán mủi tam ngìn
Mái cha dàng thủ tú lín khiếu
Nhị nhân diêm thôi mạn mộc lìn
Tam tứ kín sâu thán siếu lây
Dẳm pây diêm sấy siếu cha vìn
Pin pá ầy xam tham cếnh phấy
Chà tuông dàu día dẳm pây thiên
Dìa nhàng tú kín tam tứ phẩy
Chiệp puân khò phí dẩu khò liền
Lòng chía phiêm phây liều dẳm duẩn
Động dỳ tô cháy tủm con xin
Khấu chính phin sanh tài tạp tậy
Cháng chói tồm chiêu tại lẩu pin
Cháng trói tồm chiêu tại lẩu phấu
Pin pá èng tòi hặm siếu lin
Èng tòi hàng chá tại lậu kía
Tú kín làng tam châu cháng in
Hèng kía mỉn chìn khoi chía kiếu
Tam tứ mài dình khoi chấu lìn
Tứ lình tứ sín phân mú khai
Ử lìn ư sín má kha thai
Ỷ pín tân kho pài lồng huấy
Ỷ pín cao quan siếu páo thài
Tam tứ mài lình pịn khoi chấu
Díp tú èng tòi tháu siếu lìn
Tồng tho nhị nhân vả kín
Khiếu nhân tự mộc pịn tú lìn
Tam tứ tú lìn èng tòi khiếu
Pêu giạ mái cha chói sấy min
Nhị nhân oeens chằng in dang tử
Buôi ngũ thiên tông dòi tú lin
Mã cha piên tú nhàng chin chúa
Thập hẳn èng tòi dăm thôi lìn
Pịa chây èng tòi làng tam tứ
Buôi ngũ thiên tòng hắng họp chìn
Mái cha dẳm siến đam thiu vết
Pến tòi in dang buôi ngũ thiên
Seng chấy nhị nhân chuổng pếnh pắt
Phấy chấy nhị nhân chuổng họp chìn
Siếu thôi diêm phây thính tú púi
Chố chấy cấu ngìn chùn thôi min
Tam tứ thôi cúi tú lìn khiếu
Nhị nhân dau siêu ngũ chinh thiên
Buôi kía mái cha muồn chìn nhịa
Mái cha tư kín luổi lìn lìn
Dịch nghĩa:
LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI
Sơn Bá niên cao hướng tiến khổ
Anh Đài đi sau tiền học đường
Đi đến học đường đọc thư viện
Cảm thấy vui vẻ được đến trường
Người cùng trường học chung một lớp
Ngày thì chung đọc ngủ cùng giường
Viết chữ hai người chung chiếc bút
Cùng bàn đọc sách cùng một trang
Hai người cùng học ở trường đấy
Đọc sách viết chữ được ba năm
Dùi mài kinh thư trăm nghìn quyển
Anh Đài suy nghĩ muốn về nhà
Thứ nhất nhớ mẹ hai nhớ bố
Lại lo sau này không có duyên
Đoạn đầu mua được quang dầu đấy
Anh Đài viết ra ý rất nhiều
Tạm biệt tiên sinh còn phải về
Hai người chào chúc cùng chia tay
Hai người chia tay khó mà được
Sơn Bá tiễn đưa một đoạn đường
Tiễn đến đầu đường nói khó hết
Bắt tay hứa hẹn rất rất nhiều
Anh Đài khẽ bảo Lương Sơn Bá
Sau này Sơn Bá phải đến nhà
Tiễn đến đầu đường chia hai ngả
Hai người tay vẫy cùng chào nhau
Sơn Bá quay lại về trường học
Anh Đài về đến bố mẹ nhà
Bố mẹ Anh Đài rất mừng vui
Được thấy con mình đã tới nhà
Thay hết nam nhi bộ trang phục
Trang phục con gái thật là xinh
Sơn bá về đến nơi trường học
Tâm tư buồn chán khó học bài
Buổi sáng buồn không muốn rửa mặt
Trong lòng buồn chán muốn về nhà
Miệng thì đọc sách tâm suy nghĩ
Tại sao mình cứ muốn về nhà
Sơn Bá tâm tư càng nhung nhớ
Thu xếp sách vở rồi lên đường
Về đến gia đình Anh Đài thấy
Trước mặt Anh Đài hỏi mấy lời
Anh Đài nghe chuyện Sơn Bá nói
Hai người khẽ bước chân ra ngoài
Sơn Bá giơ dơ tay xin phét hỏi
Anh Đài giơ tay xin trả lời
Cùng trường đọc tính là muội
Sơn Bá trong lòng chưa dám tin
Nếu như không tin cho xem sách
Sơn Bá thấy thế thì đúng rồi
Đối chữ trên bài giống nhau hết
Lương Sơn mới biết muội là em
Cho hỏi ở đâu khách xa lạ
Vì sao lại đến trước cửa nhà
Anh Đài bảo thật mẹ của muội
Bố mẹ của nàng hỏi nàng một câu
Chắc rằng đây là Lương Sơn Bá
Anh Đài cùng ở cùng học ba năm
Chúng cháu học cùng ở trường đấy
Cùng đi cùng ngủ sách cùng trang
Bây giờ Sơn Bá mới thấy muội
Hai người mới biết muội chân tình
Mẹ nàng nghĩ thấy chuyện của bố
Gia đình đun nước pha ấm trà
Anh Đài mời trà Lương Sơn Bá
Trà khay đặt xuống để ở bàn
Cảm tạ trà thơm chàng được uống
Anh Đài tiễn đưa Sơn Bá về
Anh Đài bảo cậu Lương Sơn Bá
Bảo chàng hãy nghe muội nói vài lời
Trần gian vô duyên không lấy được
Hai người về âm sẽ thành duyên
Anh Đài bảo thật Lương Sơn Bá
Về nhà chàng đừng quá buồn sầu
Chắc chắn về âm có duyên phận
Âm duyên mãi mãi sẽ không già
Lương Sơn tâm tư buồn đau khổ
Giọt lệ lúc nào cũng trào tuôn
Bố mẹ Sơn Bá nhìn chàng khóc
Mẹ mà nhìn thấy nhỏ lệ tuôn
Bố mẹ gia đình hỏi Sơn Bá
Vì sao lại thấy con buồn sầu
Vì sao nét mặt luôn đổi sắc
Buồn sầu như vậy là vì sao?
Đi học ở trường có gì vậy?
Vì sao nguyên nhân vì cái gì?
Sơn Bá nghe thấy bố mẹ hỏi
Miệng cũng trả lời lệ cũng tuôn
Trong tâm buồn sầu con suy nghĩ
Vì con đã mất Trúc Anh Đài
Đã cùng Anh Đài một trường học
Mẹ thầy bảo Sơn Bá không lo
Chúng con hai người đã hẹn ước
Khổng Tử đọc sách chung một trang
Quạt mát hai người chung một quạt
Cùng học ba năm cũng sống ba năm
Bây giờ mới biết thấy xuyến xao
Mới biết Anh Đài là con gái
Không được cùng nàng thành vợ con
Bố mẹ nghe thấy Sơn Bá kể
Không phải nghĩ về chuyện này
Vài hôm bố sẽ đi dạm hỏi
Sẽ cưới Anh Đài thành vợ con
Bố mẹ Anh Đài nói rất tiếc
Nhưng vì đã có Mã Văn Tài
Sơn Bá đến sau không còn phận
Đành để chỗ khác hỏi nàng xuân
Anh Đài nghe thấy thật tội nghiệp
Rất thương Sơn Bá đáng tủi thân
Sơn Bá có lòng không đến sớm
Bây giờ đến muộn rất là buồn
Bố mẹ Anh Đài đã nhận lễ
Sơn Bá vô duyên bị đến sau
Văn Tài sơn đến được duyên phận
Bỏ lại Sơn Bá sống đơn côi
Sơn Bá có tiền hỏi phương khác
Đừng trách Anh Đài không nhận hôn
Anh Đài nghe chuyện người làm mối
Gửi lời bà mối về đến nhà
Về nhà bảo cậu Lương Sơn Bá
Đừng mà nhớ quá Trúc Anh Đài
Sớm đến ba hôm chàng sẽ được
Nhận lễ Văn Tài rồi khó thoát
Ngậm đắng nuốt cay đành chịu thua
Hai người trần không lấy được nhau
Để lại trân tâm âm thế liền
Anh Đài có lời nói không hết
Xé áo thân thể viết thành thơ
Viết thành ý thơ gửi bà mối
Gửi dặn bà mối mang đến nhà
Đến nhà đưa cho Sơn Bá đọc
Sẽ mở ra đọc ý của nàng
Văn Tài dương thế được lấy muội
Nhị nhân âm thế sẽ thành duyên
Sơn Bá đọc thơ rồi suy nghĩ
Chắc gì âm thế đã thành duyên
Chàng đọc thơ nàng khóc muốn chết
Cả nhà buồn bã không hiểu sao
Mẹ chàng nhìn thấy con mình chết
Thế bà vừa tiếc lại vừa buồn
Bố chàng suy nghĩ không thiết sống
Như dao cắt ruột rất là thương
Đi đón tiên sinh để xem địa
Táng tại đại châu đại lộ biên
Táng tại đại châu đại bộ phủ
Còn để Anh Đài đến đấy biết
Anh Đài xuất đi đến đấy
Được thấy ngôi mộ thật đau thương
Đi đến trước mộ rồi khẽ gọi
Đón được Anh Đài đến kết duyên
Hữu binh hữu thiêng khai phần mộ
Không binh không thiêng vợ Văn Tài
Nhật điểm tân kho bầy long vị
Nhất cao quan hưởng ngọc đài
Sơn Bá hữu binh khai phần mộ
Đón được người tình đến tận tay
Trần gian hai người đã hẹn ước
Bây giờ về âm ta cùng duyên
Sơn Bá được chung Anh Đài nữ
Thừa bại Văn Tài ở thế gian
Văn tài đón được nàng chân váy
Không được Anh Đài đến tận tay
Thành đôi uyên ương Anh Đài Lương Sơn Bá
Bay tận trên trời háo thành tiên
Sống ở trên trời chung chiếc bút
Thành tiên hai người giống hộp tiền
Văn tài tức giận vác thuổng đao
Liền đôi uyên ương bay lên trời
Trong rất nhiều nội dung của "Páo dung", phần phản ánh thực tế lịch sử xã hội tộc người luôn chiếm vị trí quan trọng. Trong cái muôn màu của thực tế đó, có một nội dung luôn được đề cập đó là thân phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ, họ lên án cái khổ, cái lễ giáo phong kiến, khát khao tự do. "Nhị nhàng dung" (Khúc hát người làm dâu) là một trong số rất nhiều tác phẩm như thế:
NHỊ NHÀNG DUNG
(KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU)
Diên chói tấu tuông nhân tài muộn
Lọ dịa pham chiu nhân tinh chùa
Nhất canh tịnh híu chằng long ngó
Dia chía sấy kên lánh híu chùn
Chiệp nhất chiệp nhị nhân tài muộn
Chiệp tam chiệp tứ chính mủi chiển
Chiệp pham chiệp phấy chắng lụa ngó
Chiệp hứu chiệp của cháu miền ca
Chiệp chua nhị chiệp chằng tháu tạy
Pùa tàu đam đám siếu khên chày
Tai cha vuột co say chía kiếm
Tai phấy vuội co say piếm phiệm
Siếu nhun dâng cán siếu lìm ố
Dây cám pụa dằng dổ pụa dằng
Nhất canh tại chén ô vìn lầy
Nhị canh tại chói ô vìm pin
Tam canh thác mãi giả hò cắp
Tứ canh giả cắp mản liều chang
Hứng canh pụa vìm cắp chiếu tsói
Thinh găng trong pệm tại pé diếm
Tại pé sam pùng dân nhụn nhì
Thình gắng chong pệm phiu pế diếm
Dầu sấu sách nhàng lầy sách chấy
Thin gắng chang pện pam pé diêm
Pam pé chíp tài bêu ghịa lầy
Chây phiu phang in dịa lầy chíp
Chíp tài tò duấn pá mụ chầy
Tài nhất co câu chuộng lầy sồ
Tài nhị co câu bình ên phiêm
Tài tam co câu dên hai phấu
Tài tứ co câu diên phâu phiêm
Tài ngũ co câu dùn nhà ấy
Mâu dang man day siếu câu quê
Dặm chấy chiu muốn día lấy tắng
Tài pé vùi tài giả mà quê
Nhị nhấn dịa má pái pham pái
Pái thém nhụt chìa nhàng dằm quê
Chong tàu mái tói kiêm khoa chậu
Kiêu pá lụa lòng tịnh hố tsong
Tình tú hớ t sang hắng nhằng dắng
Phộng trìu cong súi tố liệu phay
Cong súi tố mình dắm tổ duần
Ké mụa biên sành nhàng dằm cuôi
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU
Còn ở trong bụng người đến hỏi
Lọt lòng ba hôm người định trà
Canh một người đã định hôn lễ
Bố mẹ lúc ấy nhận đủ tiền
Mười một mười hai người ăn hỏi
Mười ba mười bốn mới thành niên
Mười lăm mười sáu nhận hẹn ước
Mười bảy mười tám đến nhà chồng
Mười chín hai mươi sống cực khổ
Tay cầm chiếc chổi quét rác nhà
Trong nhà rác rưởi quét rất nhiều
Quét nhà xong hết lại quét sân
Canh một trong nhà phải giã gạo
Canh hai giã gạo ở ngoài hè
Canh ba vo gạo ở ngoài suối
Canh bốn bên trõ bắc nồi xôi
Canh năm vào vườn hái rau rượu
Đến khi trời sáng chín nồi canh
Trời sáng sắp cơm xong mời bác
Bác cả lấy mâm ném xuống vườn
Em thím nhanh tay đến đỡ lấy
Không để xóm làng nghe tiếng kêu
Sắp mâm thứ hai cho bác hai
Bác hai lại chê nước canh đục
Lại bị bác hai mắng chửi nhiều
Bà cô thứ nhất chê cơm sống
Bà cô thứ hai chê gạo đen
Bà cô thứ ba chê nàng chậm
Bà cô thứ tư chê nàng lười
Bà cô thứ năm được nàng ý
Dù hay dù dở chờ anh về
Em có trong hòm mấy bộ áo
Giao cho bà thứ năm dùng
Đầu giường có đôi vàng ta dũa
Để cho anh chàng hỏi vợ hai
Hỏi được vợ hai như nàng ý
Mấy dòng suối chảy về nguồn
Dòng nước chảy đi quay lại được
Lúc đấy thì nàng mới trở về
Một nội dung rất quan trọng và chiếm nhiều bài ca trong "Páo dung" của người Dao là những khúc hát giao duyên, hát tâm tình, hát trai gái tìm hiểu nhau, hát mừng hạnh phúc lứa đôi trong các đám cưới. Dưới đây là một số bài hát tiêu biểu:
Bài 1: THÁN MIẾN TÒNG DUNG
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Piền câu khói thin tsấy liệp tậy
Chấy dòi thin đía mạn dằng phiêu
Liêu pham dậu chấy diềm dùn puận
Năm tai tòng ka nhấu ká phiêu
Nặm nhân nìm tong chiệp pết chiếm dàu dùn
Kiềm min hênh mình muộn quế dặng
Ý khếnh sầu tuông dặm khá nhầu
Chảng dẳm khá dìa dìa dặm khá chía
Nằm tsống nhấu nhụn khú dùn phiêu
Năm kha lọ dàng min khắng pịa
Sềnh tếnh hồng dìa thái chấu lầu
Nhân khoa lọ dàng mịn nhằng nhịa
Mệnh ka đàu dùn cuổi sấy phiêu
Dăm chấy hái miền tài phang áp
Diềm dùn tháu phú cắp chàng song
Ông cuốn liềm pham hành chìn thác
Bì bện chíp tsiên quê duấn tòng
Phàn lụi mùi nhân phúng tsiên thác
Phúng to kiêm khoa thán miến tòng
Mùi miền tsinh súi cắp huân hí
Cháng tsay pến tói phú dùm phiêu
Pú phú ìm dang chàng tsay tói
Chía hồ đàm dùn chậy nhất tòng
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Tổ Bàn Vương khai thiên lập địa
Thành thiên hạ trời đất con người
Cuộc sống sung sướng có ăn có ở
Sinh sôi nảy nở được hạnh phúc
Trai mười tám thì phải lấy vợ
Gái mười tám thì phải lấy chồng
Đặt trầu cau dạm ngõ ăn hỏi
Kế xem sách có hợp nhau không
Bố mẹ hai bên cùng hòa hợp
Lấy nhau mới nên vợ nên chồng
Trai sinh ra thờ cúng tổ tiên
Luôn hướng mặt về phía nhà mình
Gái sinh ra mặt hướng ra cửa
Đi lấy chồng thành con người ta
Không ép hai người phải lấy nhau
Đến duyên phận phải thành vợ chồng
Nhà trai làm bữa cơm tại nhà gái
Rồi đón dâu về làm lễ kết hôn
Thầy mờ lễ chúc vợ chồng trăm năm hạnh phúc
Làm phép cảm ơn nhà gái đã đưa dâu về đến nhà trai
Chúc hai vợ chồng hạnh phúc nên đôi
Mãi mãi chỉ chung một đường đi
Bài 2: TSUI DUOÁN
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Tsui tsắng kho toòng thin hồng phú
Vuồi huân kít cúa tú quyên dầu
In dang kít phúi chiằng lộng phộng
Gọi khoa kít cháy hịn kiều kiều
Dắt soong hín cháy soong soong hin
Tồông phiêm tồông ấy tsay cha kiều
Mài mại trọn chùn dã dồng hậy
Mạn dặng tsin dằng trắn miến phầu
Pụa triền kếnh síng tếnh cha dạy
Hồ nhất triền tsui mạn dặng phâu
Tríp tsiên kho toòng soong quyên hấy
Vuồi mộng tría to tsá yền dầu
Dậu día tím khóe dẳm tsing tsố
Tsá á líu nghìn vuồn dẳm tói tầu
Trộng kháu choáng tsiên dòi tsăn ấy
Siam siệu púng tàng ý súy âu
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Được chàng chung sống thật là vui
Được chàng chung sống thật hạnh phúc
Cũng bõ công nàng cầu thần khấn phật
Cũng bõ công nàng bấy lâu nay
Cầu được quý chàng thật như ý
Đưa nàng cùng chung hưởng vinh hoa
Hai bên giao duyên cùng hẹn ước
Hẹn thề giao ước nguyện thành đôi
Ta thề ta sẽ không chuyển hướng
Đời đời chung sống mãi bên nhau
Buồn sầu hoạn nạn cùng nhau chịu
Vui sướng bên nhau cũng đủ đầy
Sinh con nhiều cháu bề gia thất
Không nỡ lòng nào để phôi phai
CHIÊN HIANG DUNG
(HÁT GIAO DUYÊN)
Pháy khán tồng thin trầy mấy ngạn
Thài dàng so chíu kiắng chiên hiang
Páy píu phiêm tuông khiắng phây bặm
Nàn nỏi lình chiền tsấy phú phang
Muồng hín phiêm tuông chúa phây hặn
Trị día kìng phin khùng hoắng tan
Kình luồng phún siếu lìn trừng puận
Tú phiêu phúi mấy dẳm dàu hoang
Thính trụ quấy phin kiềm ngin nhấu
Tóng thin tsấy phú trịn hoàng than
Mộng phim trún tịng kiêm ngin vỏa
Mộng hắng coong hò súi pậu tàng
Trịn píu mộng phiêu chuộng bày vuội
Chuộng có hiàng bầu pụa ón hiang
Hùng mấu bò quân chuộng piến diến
Dàng kế chuộng đồng diễn chuộng phang
Dịch nghĩa:
HÁT GIAO DUYÊN
Thần không phù hộ nàng tự nguyện
Tự có nhiều nàng nguyện kết duyên
Không chê nàng xấu cùng vun đắp
Đừng như trăng tỏ trăng lại mờ
Miễn làm sao chàng không đổi ý
Nàng đây giữ lấy tấm lòng son
Được trời phù hộ chung duyên phận
Sung sướng vui vẻ biết bao nhiêu
Nàng tự giữ nguyên như đông hải
Trường lưu mãi mãi sẽ không phai
Được thần phù hộ chung vị trí
Không muốn cách ly một hướng nào
Chỉ sợ người tình không giữ ý
Để nàng đợi mãi trở thành không
Lừa nàng lang thang buồn biết mấy
Không được cùng chàng xây đắp chung
DÙNG CHẬU MÀI CON, CHÌNH MÀI LẬU
(CÂY ĐA CÓ GỐC, TÌNH CÓ LỐI)
Chìu chiu chin mụi phiêm phẩy thảu
Mậy híu mìu phiêm phảng hải pin
Dùng chậu mài con, chình mài lậu
Thúi xuất mài nhuần cắp khói liều
Ên dùn mây goi chỏi phiêu khí
Ỷ phiên piển lậu bêu lọ pin
Tấu lây phỏng phây nàn thảu chiếm
Quả hoi phiêm tuang nin quyả nin
Tú thin xẩy dịa hòng ên phú
Diệm vắng phin ên mui chiếm tú puồng liều
Dịch nghĩa:
CÂY ĐA CÓ GỐC, TÌNH CÓ LỐI
Ngày ngày lòng em nhớ đến anh
Chảng biết lòng anh nhớ phương nào
Cây đa có gốc tình có lối
Nước hợp dòng chảy về biển khơi
Số phận không mở tự mình mở
Đừng có sử đến giữa chừng thôi
Không thể không đến bởi lòng quá nhớ
Chẳng lẽ để trong lòng năm qua năm
Được trời ban xuống hồng ơn phúc
Không uổng nghĩa tình anh đã gặp em
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Liều phàm ca ngìn liều trìng chậu
Kiếm xúi thân tàu liễu quấy dang
Liều tú quấy giang trậu hiang hoong
Mộng hắng thái dâm biến thái dàng
Liệp líu phiềm kê liều trìng trậu
Liều trìng mậy trậu trịn hoàng hiang
Trình hiền dâm trậu phúng trình kiếu
Mán mạn thìu tsia quây duán hiang
Bậu tàu tsing tsing duán hòng vọong
Pị táu tsiết phinh dia chíu dang
Búa trìng liều ên quá phiên thán
Ý bêu kiêm trậu tún lầy hoang
Hái nhất cồng pau hiêu siếu bấy
Thìa tsia tài vụi thán duyên bàng
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Lời cổ anh hỏi em
Giữ em ở lại chơi vui với anh
Muốn giữ anh ở lại với gia đình
Mong được tình cảm đẹp như vầng thái dương
Giữ mãi anh cũng không thể được rồi
Anh phải về mọi thứ đã chuẩn bị rồi
Anh từ từ đi cho an toàn may mắn
Anh cảm ơn gia đình có lời mời tốt
Anh biết chỉ để trong lòng
Nhưng anh không thể ở lại được
Không phải do anh không ở lại được
Mà lần sau gặp lại không chấp nhận anh
Sau gặp lại em tình vẫn như cũ
Khi nào có được thời gian quý
Mời em sang gia đình anh chơi
Tạm biệt em anh phải về rồi
Bài ca lao động là một nội dung không thể thiếu của "Páo dung", người ta có thể ca khi đang làm trên nương, cũng có thể ca khi đang trên đường lên nương hoặc ca khi cảm thấy mệt ngồi nghỉ dưới gốc cây, bên lán nương, ... Hình thức thường là hát đối đáp, nói chuyện giữa hai bên. Nội dung xoay quanh hỏi đáp chuyện làm nương của mỗi gia đình như lúa có tốt không, có bị sâu bệnh không, năm nay có được mùa không, được bao nhiêu?, ...
MUỘN KIẾM
(ĐI NƯƠNG)
Liều pham tsêu vần sấy muộn kiếm
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín dang
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín trậu
Khoi tài pín búa pháy mìu tan
Người đáp ca:
Liều pham ca ngìn chùn búa kiếm
Búa kiếm phiếu tsun pham hín tan
Búa kiếm phiếu tsun tan hín píu
Phay khoi trùn búa quổi king dang
Người hỏi ca tiếp:
Liều pham ca ngìn trói phang muộn
Muộn kiếm siêu vùa tú tría tsin
Muộn kiếm siêu vùa tú tría pé
Pháy píu mộng phin pín búa lìn
Người đáp ca:
Quối píu mậy liền mìu pín búa
Pháy phíu vùa mìu mậu tría tsin
Triên ngìn vùa búa tú tría triệp
Ý tú goi mầy tàn xíu lìm
Dịch nghĩa:
ĐI NƯƠNG
Cổ xưa hỏi người đang lao động
Hỏi thăm bên ấy có mấy người
Hỏi người bên đấy cho xin biết
Khai ngôn biến báo tiểu nhân đơn
Người đáp lời ca:
Cổ nhân chuyền báo cho cùng biết
Bên này lao động có ba người
Báo chàng lao động ba người đấy
Khai ngôn biến báo quý anh chàng
Người hỏi tiếp gặt lúa được bao nhiêu
Cổ xưa có câu lại hỏi tiếp:
Hỏi rằng gặt hái được bao nhiêu
Hôm nay gặt lúa được mấy chục
Khẽ bảo cho anh được biết cùng
Người đáp tiếp bài hai:
Quý chàng không chê nàng xin đáp
Lúa nàng bị kém chẳng được là bao
Chân tình bảo chàng chẳng mấy chục
Xin chàng được biết đừng có cười.
Lời hát mừng nhà mới là những lời ca vui tươi, đằm thắm nhằm chúc mừng cho gia đình nhà chủ đã cố gắng, giỏi giang, biết làm ăn phát triển kinh tế. Nội dung lời hát cũng chúc tụng cho gia đình, họ hàng, làng bản mọi người đều mạnh khỏe, yên vui và làm ăn phát đạt:
Bài 1: NHÓM BỆP CẤY PÁ DUNG TOÒNG
(NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG)
Dất chá tồng pung thái dàng hịn
Nhị chá nàm hò xiêm xúi than
Pham chá phàm pung quyên dâm tậu
Phây pung nhầm quấy xúi vui voan
Pịa sên tróm túa kìng tồng tậy
Gyịa xúi nghìu chìm kíng tống nhan
Pịa hiang tróo síu kìng bố
Kìng tồng bồ nhần phiêm lấy hoang
Liều pham tsều vuần sấy dụa kiếm
Bêu tín gyạ hò sấy dụa nhần
Dụa tú bầy nhầu tài khí tíu
Sấy dụa ìn dang tầu mậy tầu
Dịch nghĩa :
NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG
Một gép phương đông thái dương hiện
Nhị gép nam hà thâm thủy thâm
Tam ghép tam phương quoan am đẩu
Tứ phương nhâm quý thủy chào lưu
Vào gò trém cây kinh động địa
Xuống nước bơi đò kinh động giang
Vào làng tán tỉnh kinh động báo
Kinh động người đã ngủ không yên
Lưu tam sao văn thử mời gọi
Nhử được con cá cắn đến câu
Thấy được cá cắn câu mới dám gọi
Không thì lại sợ không dám mời
Bài 2: VUẦY PHÚ TÍU NHI DUNG
(HÁT VÀO NHÀ MỚI)
Cá chông hiang húa chì trống sềng
Ký mềnh tồng trí chống sì côông
Dán phú mi tráo duồn muồn biểu
Phàn pêng phàn triáng có quây tông
Kiêm buần thó tsắt sòng puôi tráo
Tại cha p sống phú hú ca trông
Sông quôi phụ lụ trí ca côông
Nòm nhần sạp pát phống quân trế
Ní nhần sáp t pát sái kiềm đòng
Sống phú tráo sống phú chiàng
Sống quây phụ lụ chi ca miàng
Diáng chi muốn làn cú muôn khủ
Kiềm ngàn tròi pạ muốn lòng phang
Siếu yềm yếm siếu yềm yếm
Nàm nhần đắp phó thiêm quản chế
Ný nhần đắp phó sống dàng kiêm
Siếu òi ói siếu òi òi
Tsắt trai pát nạn duồi thiên hí
Kiềm ngàn dòi pạ sí phang bói
Dịch nghĩa:
HÁT VÀO NHÀ MỚI
Gia đình tổ tông cũng phù hộ
Các thầy song việc hồi phúc về
Đình đám gia đình đã bế mạc
Phân binh phân tướng trở về hương
Khay vàng giót ra đôi chén rượu
Để hồi phúc lộc về gia đình
Hồi phúc hồi lộc về gia chủ
Hồng phúc hồng lộc đầy gia đình
Nam nhân mười tám được quan trức
Nữ nhân mười tám đẹp như tiên
Rượu này hồi lộc cho bà chủ
Hồi cho phúc lộc gia chủ nàng
Chăn nuôi lợn gà đầy chuồng trại
Ngũ cốc lúa gạo ắp đầy kho
Sức khỏe dồi đao được thịnh vượng
Tiền tài vàng bạc sếp đầy hòm
Nam nhân xông nhà thăng quan trức
Nữ nhân xông nhà cho bạc vàng
Ốm đau thay cho đã mạnh khỏe
Tiền tài vàng bạc tứ phương về
CẤY HỐP TIU
(MỜI UỐNG RƯỢU)
Cà chí côống cà chí côống
Dật nhất si liàng san pạ thồng
Tsếng tá siếu xi tố đằn voàn nhụt liểu
Dật niên sí ký tá xồng dồng
Cà chí miáng cà chí miàng
Dật nhất si liàng san li hoang
Kiên nhất tsếng tá siếu si tố đằn voàn nhụt liếu
Dật niên sí kí tá phồng quoang
Dịch nghĩa:
MỜI UỐNG RƯỢU
Gia chủ ông gia chủ ông
Một ngày bận rộn rất nhiều việc
Suy nghĩ chưa thông suốt cái gì
Hôm nay mời được các thầy tới
Hoàn ơn song hết cầu chúc may
Một năm bốn quý được dồi dào
Gia chủ bà ơi gia chủ bà
Một năm bốn quý được đàng hoàng
Bài hát giáo huấn trong "Páo dung" không nhiều như những nội dung khác nhưng được lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác, nội dung cô đọng, xúc tích, mang tính giáo dục cao:
BUA TRỤ HÍU TÍA MẢ GIÁO
(BÀI HÁT GIÁO HUẤN)
Vuậy nhần ói trụ ý hộ nhần luộn bán
Trụ trấu kèng tsum trụ hộ chiền
Puồng trụ ó nhần ý tú tsáu
Día ý mài nhất tụ tìn pùi
Kín nhần tìn tậy ý deng máo
Phụ quấy yồng vòa dẩm tú tàng
Mai công mài tá nhần thán khú
Pun mềnh phun phá tú nin tàng
Nụn nhần ý síu nhần líu bồ líu
Puồng tsui khoa bọ ýa siêm tòng
Kiêm nhất dẩm pây mềnh nhất dạy
Mậy chiằng nhụt tríu tsíng tài pây
Sấy nhần tụ híu dằng kia pẹ
Ý tú pàm lùng dậu pàm đau
Ý tú phì deng cíu tía mả
Ý tú hoắng nhần loòng toọng than
Ý tú sết seng mạn hoòng dặng
Ý tú phàng thao trấu hỏi nhần
Ý tú thàm khoa thàm tầu nhần cha của
Ý tú khyú pế hỏi nhần triên
Ý quoẳng cuồng nhần căn phú quấy
Ý tú día phẩy máo mặng tàng
Ý tú píng chiến nhần giáo búa
Hỏi trụ quần cằn hỏi cằn
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIÁO HUẤN
Vì người không ai được ở không
Phải cầy phải cấy phải đi làm
Gặp người nhũng nhiễu chớ dòm ngó
Chẳng may tới lại phải đền
Thấy ruộng đất của người chớ tranh chấp
Phú quý vinh hoa chẳng vững bền
Trẻ con chớ cười người tóc bạc
Hoa rơi đầu vực bị gió đêm
Hôm nay chưa biết việc ngày mai
Giờ ngọ nắng tới mới biết khổ
Đời người phải biết trắng đen
Không phạm trên trời không phạm đất
Không cãi lời lẽ với mẹ cha
Không được lừa gạt với bạn bè
Không được sát sinh các thú vật
Không được lấy trộm của mọi người
Không được tham tài và tham sắc
Không được tức giận xúc phạm người
Không được tham giầu quên nghèo khổ
Không được ham sống sợ chết
Không được quên đi lời dạy bảo
Luôn ghi luôn nhớ để trong lòng
GIÀNG IN PÁ DUNG
(BÀI HÁT THUỐC PHIỆN)
Chiếp pát dỉa tòi số cấu vả
Trùn diều thin đía chuống chìu vìn
Diất nhiều chùn sinh mạn nhiền híu
Giàng in lán chái pại chà ting
Mài sanh pàng chuồng tu nàn khĩ
Tũ kín chía to ngàn luội lìn
Giàng in dùn tài pến cú quái
Diất nhiều khĩ chụ mạn nhiền lìn
Xuân nhiền khĩ in pến pùng diẩu
Õ nhiền khĩ chụ kít nhiền vịn
Phàm canh piến día tá sanh chế
Thao nhiền péng khuya diậm pầy thin
Chấu chả diậm luấn siên sễ ố
Diệm tsòng tũ pếu chuội choòng ngàn
Diậm pháng sai nhầy khòa chây phíu
Chấu chả chì nhiền nhụn mìn chìn
Mài chìn mái nhụa dòi cha khĩ
To phíu píu tài tũ tiêm thoong
Ý mải giàng in chậy càn thĩ
Chụ siệu sài nhầy nam nhiều doọng
Mài phâu toóng háng mậu phâu giang
Váng đam mình giạng siêu khùng song
Giàng in chẽ chìn mậu sa sấu
Mài chẽ diậm hoàn nhiếm quyá choong
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT THUỐC PHIỆN
Cầm bút đặt bàn kể chuyện cổ
Truyền bảo thiên hạ khắp mọi nhà
Một người truyền tiếng vạn người biết
Thuốc phiện lười làm hại gia đình
Có chồng nghiện gia đình làm ăn khó
Được thấy nhiều người chảy nước mắt
Thuốc phiện nguyên lai rất kỳ lạ
Một người hút phải vạn người theo
Người thuận tình hút nên anh em
Kẻ ác hút phải đi ăn trộm
Nửa đêm canh ba bàn mưu kế
Bất lương đốt lửa chẳng biêt trời
Ăn trộm chẳng biết tình anh em
Trộm xong no bụng lên giường ngủ
Chẳng đoái hoài con thơ vợ dại
Mà chỉ biết điều trước mắt
Có tiền mua thịt cả nhà ăn
Ít nhiều cho nhau được giọt canh
Đừng mua thuốc phiện một mình hút
Vợ con nữ nam đều căm ghét
Có chồng coi như không chồng
Gánh nặng mang tiếng chịu ở không
Vay nợ bao nhiêu vì thuốc phiện
Nợ vay không trả nước mắt ròng
Hát ru (Háo ton dung) là những lời ca mượt mà, êm ái nhằm kích thích cho trẻ mau đắm mình trong giấc ngủ. Trong các điệu hát ru, nội dung thường được các bà mẹ sáng tác nhằm giáo dục cho con cái về đạo lý làm người; về tình yêu thương quê hương, hướng cho con ý chí phấn đấu về sau:
HÁT BẮU NGÀ PÍ DÒM
(HÁT RU CON NGỦ)
Ôí àn an ngà bế ói dàm cằn pí chiến mà ôi dòm
Te ma trấu công trấu mắn nhặn
Ngà xê ói cằn pi chiến dòm, dòm cáu ố ồ ôi
Ngà dả tài híu hắm te ma trấu công khấu
Ngà trụ cằn quay pi chiến ý dà ôi dàn ôi
An án túng tsún ma te oi ối àn an
Ngà xê bế ói dòm chiến nà ôi dòm ôi án
Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng
Chẳm châu lí lút theng tăng đi
Miéo tẳn tung noòng txeng tẳng veng
Nả là quăng quăng slải thìn gầy
Mạy đẳm ơn lò khẳn gẩy cổ
Bản dịch:
HÁT RU CON NGỦ
Hát ru là những lời trầm bổng
Thướt tha mượt mà êm ái nhằm kích thích
Cho bé ngủ đắm mình giấc ngủ dịu hiền
Và có cả lời ca thương yêu dạy dỗ cho
Trẻ sau này biết làm người hiếu thảo
Cha mẹ biết lễ phép ra vào
Ối í a, ngủ ngon, ngủ ngoan đi
Con cóc kêu ở gầm chạn bát
Mèo con khều thức ăn trên chạn
Mặt trăng còn khuyết ở trên trời
Ta nằm nhìn thấy trăng ở xa
Gần đây, là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới được sáng tác rất nhiều. Những bài hát này thường không được ghi lại mà chỉ truyền miệng, hát cho nhau nghe, học nhau để hát. Nội dung của những bài hát này rất phong phú, dưới đây là một số bài hát tiêu biểu cho những sáng tác mới này:
HÁ GẮNG CẮNG BÉ
(ĐÊM TRĂNG NHỚ BÁC)
Dằn tằn tú kín kênh xiên cấu
Cành xiên día cấu dá vần hang
Nhớ dạng Bác Hồ mềnh phiêm chái
Sín giọ dùn mậu hịn thái dáng
Tú kín xiết phinh báy vậy chái
Tú kín nhụt mềnh chúi miện hang
Tú kín sín sên mậu dùn óm
Tẩy tuông òn lọ khú guồn láng
Thin chẳng xiết phing gắng dầu lặng
Hang lây dáng ba tăng điện quang
Pháng chịu chìn hoi dìu miền sấy
Chổng choi sến liềm lình cúa hoang
Liện kê sấy chẹ sên liềm đía
Lậu tằn lậu muội kháu càn nám
Sấy kiêm lải lậu thông hành cấu
Mình hây mái mại dạ phầy làng
Phiếu tham phiếu dấm mài miền búa
Mai húa mai miền thắm quế hang
Ngó kênh sằng ba mái pậu xiết
Kè cóng đùng đuôi gái xuất hang
Đại Sơn làm giầu từ cây quế
Thâm canh cây lúa pú mềnh hang
Mài đặng pé hồ phòng biến sấy
Lải ca guần hấy dẩm phây lang
Pháng chụ chín hoi phìn khấu sấy
Kiêm sấy nhụt mềnh chui miền hang
Dằn tằn tú cành xiêm cấu
Cành xiêm día cấu thính vần hang
Dịch nghĩa:
ĐÊM TRĂNG NHỚ BÁC
Đêm trăng nhìn trời thêm nhớ Bác
Đêm thanh trăng sáng tỏa ngàn hương
Nhớ Đảng, Bác Hồ minh tâm chí
Xua tan sương gió hiện thái dương
Được thấy thất tinh bảy vị chói
Được thấy nguyệt minh rọi khắp làng
Được thấy thanh sơn vô vàn sáng
Bạn chốn an lạc hảo hoan lương
Bầu trời trăng thanh sao sáng loáng
Thôn bạn lập là đèn điện quang
Nghĩ đến tiền sự người Dao ta
Trú tại Lâm Sơn hoang dã nhà
Du canh dựng nhà nơi xa vắng
Đường đi lối lại lắm gian nan
Ngày nay đại lộ thông hành khứ
Du chợ bán buôn được thanh nhàn
Khai xuân khởi sự hữu nhân giáo
Mua bán có khách đến tận nơi
Trường kỳ kháng chiến ắt thành công
Gà trống đung đưa vọng khắp bồng
Đại Sơn làm giàu từ cây quế
Thâm canh cây lúa chính nuôi thân
Có Đảng, Bác Hồ luôn sống mãi
Đại gia hoan hỉ bất tơ vương
Nhớ đến ngày xưa cực khổ lắm
Kim tuế nguyệt minh chiếu sáng ngời
Đêm thanh nhìn trời cao ngan ngát
Lặng nghe rừng hát vọng vang xa
DÌU MIỀN YÊN BÁI
Dìu miền Yên Bái chúa puẩn pé
Hấu pẹ xan tang tá pán nhiền
Hải phín dìu miền có trẩy vả
Khé giảng chuông tài chỉa khính dồng
Dào dìu pun tài pua pĩe phính
Tát pán pun tài trấu có hô
Tá pán rì nhiền trong trú xí
Tào pá xiền ôi chiáng phiếu khoa
Hồng pú xai xin triàng puồng cáo
Vín vỉu khán tài năng nhụt khoa
Xan tang chán chối hấu tráu hệp
Pẹ phín phái phơi thíp nhiêu khoa
Hấu pẹ kít huân trú hấu pẹ
Lui tom pẹ pủ phiếu lìn khoa
Phúng thiêu tháo hiang thờ pịa cha
Chán trấu phiêu tài trú lui đáo
Máo náng diàng tào triêu khú khan
Trang trú vuần khoa náng mô típ
Hàng dì hoa tháo mòng di nhiền
Màu nhiên liỏng ôi thìàng xì diến
Lui nóng thầu còng láo xa ló
Tuổi tào chê mài phỏng liến
Liến cao liến ai chính hón chê
Buổn lào buổn thinh chòn chẩy báo
Tá bòn bèo đao bệ bèo dào
Phên thí cành thuôm ním nhìn nhình
Phẩy bổn xí nhìn nhiến buổn tìm
Phuất chẩu phênh liền chiệp bết phùi
Quá tăng sành dịp chính dìu miền
Nhào nhìm phái sôn thí sơn nhất
Phấy lọ nhiên nhìn phẩy nhiềm chê
Phiên dịch:
NGƯỜI DAO YÊN BÁI
Người Dao Yên Bái chín phần trăm
Người Động, Xá, Muồn cùng là Dao
Người Dao có tiếng nói riêng
Chữ nho chữ hán giống người Hmông
Người Dao gồm có ba bốn nhóm
Đỏ, Chẹt, Trắng, Tuyển cũng là Dao
Dao Đỏ phụ nữ trang phục đỏ
Đầu đội khăn thêu yếm cũng thêu
Áo thêu quần thụng thắt lưng đỏ
Tua nhiều bông đỏ như nhiệt hồng
Dao Chẹt phụ nữ ống quần hẹp
Bó sát vào chân và rất hẹp
Dao trắng tân hôn mặc quần trắng
Yếm tà áo trắng thêu nhiều hoa
Đưa dâu đến làng phải hát xin
Xin vào hát bản xin vào nhà
Dao Tuyển thì mặc áo dài
Mũ nhỏ bằng gỗ nhìn rất hay
Trang trí hoa vải nhiều màu sắc
Cỏ cây động vật với hình người
Đàn ông gồm có hai thứ áo
Địa bàn cư trú phải thuận tiện
Giáp ranh vùng thấp với vùng cao
Dao Tuyển, Chẹt nhà nửa sàn nửa đất
Dao Đỏ nhà đất, Trắng nhà sàn
Hình thái sinh sống nông nghiệp chính
Lúa ruộng thì ít nương thì nhiều
Bản sắc sinh trưởng mười tám tuổi
Cấp sắc lên đèn mới là Dao
Người Dao khi sống ăn sinh nhật
Chết xuống âm phủ mới mát lòng
KẾT LUẬN:
"Páo dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú, đó là những vần thơ dân gian được ghép với các tiết tấu, các giai điệu và sử dụng như những tác phẩm âm nhạc.
"Páo dung" phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, bênh vực người yếu, ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
"Páo dung" được lưu truyền lâu đời trong cộng đồng, có ý nghĩa trao truyền, giáo dục các thế hệ tộc người, ôn lại quá trình lịch sử tộc người, đề cao đạo lý, tình yêu con người, yêu thiên nhiên, cỏ cây hoa lá.
"Páo dung" thể hiện nghệ thuật dân ca, ngôn ngữ của tộc người. Nghệ thuật chuyển tải hiện thực đời sống xã hội vào thơ ca vô cùng đặc sắc, thể hiện trình độ văn học, ý nghĩa khái quát cao của tộc người.
Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Páo dung" xứng đáng được nghiên cứu và bảo tồn nhằm phát huy giá trị của nó trong cộng đồng cũng như tới các tộc người khác và bạn bè quốc tế.
BAN BIÊN TẬP CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ
6596 lượt xem
Cổng thông tin điện tử tỉnh - "Páo dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú, đó là những vần thơ dân gian được ghép với các tiết tấu, các giai điệu và sử dụng như những tác phẩm âm nhạc. "Páo dung" phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, bênh vực người yếu, ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
I. Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái.
Trong 12 tộc người có dân số tương đối đông sinh sống ở Yên Bái, người Dao có khoảng 64.000 người, chiếm 9,1% dân số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa – nơi tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Đồng bào sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên, chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên.
Người Dao ở Yên Bái có nhiều tên gọi khác nhau như: người Động, người Xá, người Mán, ... Người Dao tự gọi mình là “Kiềm miền” (tức là người ở rừng).
Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Để phân biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.
Các nhóm Dao cũng có sự khác nhau ít nhiều về tiếng nói song đều thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông – Dao (nằm trong ngữ hệ Nam Á).
Hình thái kinh tế chủ yếu của người Dao ở Yên Bái là sản xuất nông nghiệp với hai loại hình: lúa nương và lúa nước. Trong đó lúa nước chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra, đồng bào còn trồng một số loại cây hoa màu như ngô, sắn, ... Rau của người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, các cây họ đậu, khoai, củ từ, dưa gang, .... Đặc biệt ở người Dao Yên Bái phát triển mạnh 2 loại cây công nghiệp đó là cây quế và cây chè. Ngoài cây lúa, hoa màu, quế và chè đồng bào còn có thu nhập thêm từ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà...
Người Dao có các nghề thủ công truyền thống phong phú, đa dạng và phát triển rất sớm, trong đó nổi bật là làm giấy dó, dệt vải, nhuộm chăn, in và thêu hoa văn trên vải, đan lát các đồ đựng bằng tre, nứa, giang, mây song, nghề rèn. Nghề rèn của đồng bào Dao cũng phát triển, chủ yếu là các nông cụ như: dao, cuốc, cào cỏ, lưỡi cày. Nghề làm đồ trang sức bằng bạc, sanh căng và bằng đồng làm thành vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn, xà tích.
Đồng bào Dao thường dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng bản riêng biệt hoặc xen cư với các tộc người khác. Ở người Dao Yên Bái hội tụ đầy đủ 3 loại hình nhà ở đó là: nhà sàn của nhóm Dao quần trắng, nhà đất của nhóm Dao Đỏ và nhà nửa sàn nửa đất của nhóm Dao Quần Chẹt và Dao Tuyển. Hiện nay, những gia đình người Dao có cuộc sống khá giả đã xây nhà theo kiểu mới.
Trang phục truyền thống của người Dao Yên Bái đặc sắc và nổi bật ở nghệ thuật trang trí trên quần áo với mô típ hoa văn cây cỏ, động vật, hình người, hình chim, kết chữ Hán được cách điệu rất sinh động. Trang phục đàn ông thường có hai loại: áo ngắn mặc hàng ngày và áo dài mặc trong lễ hội, lễ cấp sắc hay đám cưới. Trang phục nữ phong phú hơn với những trang trí hoa văn truyền thống, đầu đội khăn.
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản, thức ăn chính của người Dao là cơm tẻ, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ và các loại thảo mộc khác. Ngày nay, đồng bào đã trồng nhiều loại rau khác nhau ngay tại vườn nhà để phục vụ nhu cầu hàng ngày khi không vào rừng hái rau. Các loại gia súc, gia cầm được nuôi chủ yếu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình cũng như những tín ngưỡng dân gian của đồng bào. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam.
Các hoạt động sinh hoạt xã hội – gia đình của người Dao ở Yên Bái cũng rất phong phú và đa dạng. Các nhóm Dao đều thờ cúng tổ tiên và thờ Bàn Vương. Thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình. Bàn Vương được coi như thủy tổ của các dòng họ nên cũng cúng bái chung với tổ tiên. Cùng với phong tục cúng Bàn Vương thì người Dao còn có nghi thức “cấp sắc”. Đây là một tục lệ phổ biến và bắt buộc đối với tất cả đàn ông Dao. Một trong những nghi lễ rất quan trọng phải nhắc đến đó là "Tết nhảy” (Nhiàng chầm đao). Nghi lễ này nhằm mục đích cúng Bàn Vương và luyện binh tướng (âm binh) để bảo vệ cuộc sống và sinh hoạt gia đình.
Hôn nhân của người Dao Yên Bái có nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc, nhiều hình thức sinh hoạt truyền thống được thực hiện trong đám cưới đặc biệt là hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Đây là một nghi thức sinh hoạt truyền thống vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Tục cưới xin của người Dao phải trải qua nhiều nghi lễ khá phức tạp, mỗi nhóm có những nghi lễ riêng. Thường thì hôn lễ của người Dao được tiến hành qua các bước sau: nhà trai đến nhà gái xin so tuổi đôi nam nữ; nhà trai báo cho nhà gái biết kết quả so tuổi của đôi nam nữ; định ngày cưới và dâng lễ; lễ cưới và lại mặt. Người Dao thường có tục ở rể 3 năm, sau đó mới được ở riêng hoặc về nhà trai ở hẳn.
Tang ma là một trong những nghi lễ rất quan trọng của vòng đời người Dao phản ảnh nhiều tục lệ từ xa xưa. Đồng bào Dao quan niệm rằng con người có phần hồn và phần xác, khi nào phần xác bị hại nặng quá thì người bị chết. Một đám tang của người Dao thường có các các nghi lễ sau: Lễ khâm niệm, lễ xôi gà và lập bàn thờ (lễ cấp thủy và dâng rượu, gia súc); lễ làm chay, lễ nhập quan yểm bùa, lễ đưa đám, lễ hạ huyệt và lễ cúng cơm. Hầu hết các nhóm người Dao ở Yên Bái không có tục cải táng người chết. Đồng bào rất kiêng kỵ việc dựng vợ gả chồng cho con hay làm nhà mới, trồng cấy, gieo hạt giống trùng với ngày mất của người thân. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình.
Người Dao Yên Bái đều có vốn thơ ca dân gian rất phong phú, đồng bào hát "Páo dung" (Pá dung, Pả dung) gợi nhớ lịch sử, xã hội tộc người, ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, thế giới động vật, ca ngợi sản xuất dưới nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và còn gắn vào những bài hát giáo lý, xã hội, gia đình. Người Dao có rất nhiều chuyện cổ tích kể về mọi hiện tượng xảy ra trong xã hội, thiên nhiên. Các câu chuyện đều mang tính giáo dục sâu sắc, anh em phải sống hòa thuận, yêu thương nhau.
Ngày nay truyền thống văn hóa dân gian luôn được bảo tồn, khai thác, phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các tộc người khác trong tỉnh tộc người Dao cũng đang góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái ngày càng giàu đẹp hơn.
II. Khái quát về người Dao ở huyện Văn Yên.
1. Khái quát chung về huyện Văn Yên.
Văn Yên là một huyện vùng núi nằm về phía Bắc của tỉnh Yên Bái, được thành lập từ tháng 3 năm 1965. Huyện Văn Yên nằm trong tọa độ địa lý 104º23' đến 104º23' độ kinh đông và từ 21º50'30 đến 22º12' vĩ độ bắc, phía Đông giáp huyện Lục Yên và Yên Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn, phía Nam giáp huyện Trấn Yên, phía Bắc giáp huyện Văn Bàn và huyện Bảo Yên (tỉnh Lao Cai). Theo số liệu thống kê năm 2009, tổng diện tích đất tự nhiên 1.391,54 Km2, cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái 40 km về phía Bắc. Toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn, bao gồm: Mậu A, An Thịnh, Lang Thíp, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, Lâm Giang, An Bình, Quang Minh, Đông An, Phong Dụ Hạ, Phong Dụ Thượng, Xuân Tầm, Tân Hợp, Đông Cuông, Mậu Đông, Ngòi A, Yên Thái, Yên Hưng, Yên Hợp, Xuân Ái, Hoàng Thắng, Viễn Sơn, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Đại Sơn, Đại Phác, Yên Phú. Cả huyện có 8 xã đặc biệt khó khăn vào diện đầu tư chương trình 135.
Dân số trung bình đến năm 2009 là 116.000 người, mật độ dân số trung bình 83 người/km2. Trong đó: người Kinh: 65.117 người (56,33%); người Tày: 17.573 người (15,2%); người Dao: 26.487 người (22,91%); người Hmông: 4.480 người (3,87%); các tộc người khác: 1.957 người (1,69%).
Địa hình huyện Văn Yên tương đối đa dạng và phức tạp, đồi núi liên tiếp và cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc thuộc thung lũng sông Hồng kẹp giữa hai dãy núi cao là Con Voi và Púng Luông. Hệ thống sông ngòi dày đặc với các kiểu địa hình khác nhau như vùng núi cao hiểm trở, vùng đồi bát úp lượn sang nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và các cánh đồng phù sa nhỏ hẹp ven sông. Sự chênh lệch địa hình giữa các vùng trong huyện rất lớn, đỉnh cao nhất là Pú Luông cao 2985m., nơi thấp nhất là 20m so với mặt nước biển. Do đặc điểm địa hình như trên nên Văn Yên là huyện có nhiều tiềm năng về rừng. Rừng ở Văn Yên chủ yếu là loại rừng á nhiệt đới và nhiệt đới núi cao với các loại cây gỗ quý như pơ mu, thông, nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ, ...
Huyện Văn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Nhưng khí hậu Văn Yên tương đối ổn định, ít đột biến phù hợp với trồng trọt và chăn nuôi, trồng các loại cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp dài ngày như chè, quế. Quế Văn Yên được cho là giống quế tốt nhất Việt Nam, có hàm lượng tinh dầu cao thứ 2 ở Việt Nam (sau quế Trà My), đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Diện tích trồng quế ở Văn Yên lên tới 16 nghìn hecta. Cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày như sắn, lạc, đậu đỗ các loại. Những nơi có khí hậu mát ở vùng cao còn cho phép trồng nhiều dược liệu quý và chăn nuôi gia súc có sừng như bò, dê, hươu, nai.
Các tài nguyên thiên nhiên khá phong phú và đa dạng, ngoài tài nguyên rừng còn tài nguyên khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản của Văn Yên tương đối đa dạng và phong phú với các kim loại quý hiếm như vàng, sắt, đồng, graphit, ... Đây là những tài nguyên có trữ lượng lớn hứa hẹn cho ngành công nghiệp khai khoáng ở Văn Yên có cơ hội phát triển.
Sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của Văn Yên. Là một huyện được xác định có tiềm năng về kinh tế nông - lâm nghiệp với các đặc thù và thế mạnh riêng, những năm qua địa phương đã từng bước hình thành cơ cấu kinh tế nông, lâm, công nghiệp - dịch vụ và sản xuất. Đặc biệt kinh tế trang trại ở Văn Yên khá phát triển, đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nông nghiệp độc canh đã chuyển sang chuyên canh gắn liền với kinh doanh tổng hợp theo hướng sản xuất hàng hóa.
2. Người Dao ở huyện Văn Yên.
Tính đến năm 2009 người Dao ở huyện Văn Yên là 26.487 người chiếm 22,91% dân số toàn huyện. Huyện Văn Yên hiện có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Phần lớn người Dao ở đây sống tập trung ở các xã Xuân tầm, Mỏ Vàng, Viễn Sơn, Đại Sơn, Châu Quế Thượng, Lang Thíp. Họ cư trú thành các bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Họ có hai loại hình cư trú phân tán và tập trung tương ứng với nhóm du cạnh hoặc định canh sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nguồn sống chính của họ là lúa nước và lúa nương, chăn nuôi, trồng cây ăn quả , cây đặc sản. Nhìn chung đời sống của người Dao còn nhiều khó khăn. Riêng ở xã Đại sơn nhờ có thu nhập từ cây quế nên đời sống kính tế trở nên khá giả hơn. Người Dao ở đây còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc truyền thống như cấp sắc, đám cưới, tang ma, ...
III. Khái quát về người Dao ở xã Đại Sơn, huyện Văn Yên.
1. Khái quát về xã Đại Sơn, huyện Văn Yên.
Xã Đại Sơn là xã thuộc vùng II của huyện Văn Yên, được thành lập vào năm 1973. Xã nằm ở tọa độ địa lý là 21º49'17"B đến 104º34' 35"Đ, phía Bắc giáp xã Đại Phác, phía Đông giáp xã Yên Phú, phía Nam giáp xã Mỏ Vàng, phía Đông Nam giáp xã Viễn Sơn, phía Tây giáp xã Nà Hẩu (đều của huyện Văn Yên). Từ thành phố Yên Bái theo tỉnh lộ 151 lên thị trấn Mậu A (40km), qua cầu Mậu A đi về hướng Tây Nam khoảng 10km là đến xã Đại Sơn. Xã có diện tích 83,75 km², dân số là 2376 người, mật độ dân số đạt 28 người/km².
Sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của xã Đại Sơn. Đồng bào ở đây thường trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn và trồng các loại cây công nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao như keo, bồ đề mỡ. Đặc biệt vùng đất Đại Sơn nổi tiếng với việc trồng quế, cây quế đã đem lại cho đồng bào cuộc sống no đủ, nhiều nhà đã trở nên giàu có nhờ cây quế, kinh tế Đại Sơn khởi sắc hơn một số xã khác trong vùng cũng nhờ cây quế.
2. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội của người Dao xã Đại Sơn.
* Lịch sử di cư của người Dao ở Đại Sơn, huyện Văn Yên
Theo khảo sát ở những địa phương có người Dao sinh sống thì người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc) họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ 17), với hai hướng chính là đường bộ và đường biển. Người Dao di cư vào Việt Nam theo nhiều đợt sớm nhất từ thế kỷ XIII, các nhóm Dao ở tỉnh Yên Bái chủ yếu di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng sang.
Xã Đại Sơn, huyện Văn Yên hiện chỉ có nhóm Dao Đỏ sinh sống. Họ thường sống thành bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Nguồn sống chính của người Dao ở Đại Sơn là trồng lúa nước, lúa nương. Những năm gần đây, người Dao ở xã Đại Sơn rất phát triển chăn nuôi bò, lợn, gà ... Ngoài ra, còn phát triển trồng cây ăn quả, cây đặc sản như chè, đặc biệt là cây quế. Ở đây còn có các nghề thủ công như đan lát, rèn đúc, nghề dệt nhưng những nghề này chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp của các gia đình.
* Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Dao ở Đại Sơn
Đại Sơn là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Dao Đỏ, vậy nên nhà đất là loại hình nhà ở chủ yếu của đồng bào. Đó là loại nhà hình chữ nhật, thường có hai mái, trong nhà thường có từ ba đến năm gian, bộ sườn nhà được chế tạo khá đơn giản. Nguyên vật liệu làm nhà thường kiếm ngay tại chỗ, chủ yếu là cây rừng. Phần gian nhà bên phải dành đặt giường ngủ của khách, buồng ngủ của chủ nhà đặt ở phía bên phải bàn thờ, giường ngủ của con trai thường đặt sau giường của khách, còn phòng ngủ của con gái thường đặt phía trong gần bếp. Bàn thờ được đặt ở gian giữa, nhà thường có hai bếp (một bếp ở gian ngoài để sưởi ấm vào mùa đông dành cho đàn ông và khi có khách đến). Nhà của người Dao thường được bố trí: bếp là nơi tập trung của cả gia đình vào mùa đông, là nơi rộng nhất trong nhà. Nhà ở của người Dao có ít cửa ra vào, đặc biệt là ít của sổ, đa số chỉ có một cửa sổ đặt ở giường nằm ngủ. Đây là loại nhà tổng hợp bếp, chuồng gia súc, các công cụ sản xuất và sinh hoạt đều thuộc phạm vi nhà ở.
Trang phục của người Dao đỏ: Trong các nhóm Dao thì trang phục của người dao Đỏ thường được làm cầu kỳ và sử dụng nhiều màu sắc hơn cả. Đối với trang phục nam giới không có gì khác biệt lắm so với trang phục nam giới trong các ngành Dao. Đàn ông Dao đỏ thường đội mũ nồi hoặc vấn khăn dài, áo chàm được may theo lối cổ khoanh bí, áo dài gần trùm mông, vạt áo may thẳng có cài khuy lộn dọc từ ngực xuống bụng, sau lưng áo có miếng vải hoa văn hình bùa chú. Quần của đàn ông là quần thụng vải đen, may kiểu chân què bổ đũng dài gần chạm cổ chân và cạp quần luồn dây rút bằng sợi vải hoặc sợi gai. Trang phục của nữ giới Dao Đỏ được tạo điểm nhấn bằng những gam màu đỏ của vải hoặc sợi trên nền vải đen và thường được may công phu hơn, gồm có các bộ phận: khăn, áo, thắt lưng, quần, xà cạp cùng đồ trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay…. Để tạo thành bộ y phục đẹp phải có vải đen làm nền để thêu hoa văn, chỉ thêu gồm 5 màu cơ bản: đỏ, trắng, đen, xanh, vàng, nhưng chủ yêu là màu đỏ. Người Dao đỏ thích dùng mầu đỏ tươi rực rỡ để trang trí: khăn đỏ, ngực áo, cổ áo đỏ, khăn đỏ, tua đỏ, yếm đỏ, nẹp ngực áo đỏ, yếm lưng đỏ...
Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản thức ăn chính của người Dao là lúa nước và lúa nương, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ, các loại rau trồng trong vườn nhà và các loại thảo mộc khác. Cùng với đó là các thức ăn từ gia súc gia cầm. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam. Người Dao rất thích ăn ớt, gừng, riềng, lá sả, hạt dổi, lá chanh, các thứ rau thơm và các thứ nước chua. Hàng ngày đồng bào uống nước chè, nước vối, nước từ các loại cây thuốc... Người Dao cũng uống các loại rượu cất từ gạo, ngô, khoai, sắn và các loại cây có bột như: báng, móc. Men rượu đều chế biến bằng các thứ lá và rễ cây rừng.
3. Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Dao ở Đại Sơn
* Tiếng nói - chữ viết: Tiếng Dao nói chung và Dao Đỏ nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Hmông - Dao, nằm trong ngữ hệ Nam Á. Chữ viết của người Dao còn trong một số tài liệu lưu giữ được là chữ Hán và chữ Nôm Dao.
* Một số nghi lễ truyền thống
- Lễ Cấp Sắc: Đây là một nghi lễ truyền thống độc đáo có tính lịch sử lâu đời trong đời sống sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao công nhận sự trưởng thành cả về vật chất lẫn tinh thần của người đàn ông. Theo quan niệm của người Dao thì cấp sắc là để được thánh thần công nhận, được âm binh và có thể làm nghề cúng bái. Nghi lễ của lễ cấp sắc rất mở, có thể là một, hay nhiều cá nhân của một gia đình, dòng họ hay cả một tập thể của nhiều gia đình, nhiều dòng họ, nhiều bàn làng khác nhau tổ chức. Lễ cấp sắc có rất nhiều bậc, bậc đầu tiên họ được cấp 3 đèn và 36 binh mã, bậc hai được cấp 7 đèn và 72 binh mã, bậc ba được cấp 12 đèn và 120 binh mã. Lễ cấp sắc 3 đèn và 7 đèn được tổ chức thường xuyên trong cộng đồng tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện của các gia đình, dòng họ. Riêng nghi lễ cấp sắc 12 đèn có quy mô lớn hơn hai nghi lễ trên nên phải hai, ba mươi năm mới có một lần. Nội dung chính của lễ cấp sắc tiến hành theo trình tự sau: lễ lên đèn, lễ ban mũ thầy cúng, Lễ trình diện Ngọc hoàng, Lễ cấp tinh, Lễ hạ đèn và giao quân, lễ qua cầu, lễ đặt tên. Các nghi thức trong lễ cấp sắc đều nhằm mục đích hướng thiện, giúp con người trưởng thành hơn, đạo đức hơn, sống tốt hơn và quan trọng là những lời giáo huấn này được thực hiện bằng những lời thề trước sự giám sát của tổ tiên và nhiều quan binh nên càng làm tăng tính giáo dục. Đây là một nghi lễ giao tiếp có tính kế thừa, kết nối các giá trị văn hóa giữa các thế hệ chứa đựng nhiều thành tố quan trọng của bản sắc văn hóa Dao. Đồng thời lễ cấp sắc cũng là dịp để cộng đồng cùng thưởng thức các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhảy múa hết sức hấp dẫn. Các điệu múa trong lễ cấp sắc rất đặc sắc. Múa ở đây có sự đan xen hòa quyện giữa yếu tố lao động trần thế và tôn giáo thể hiện sự giao hòa giữa hai thế giới, điệu múa đặc trưng, đặc sắc, vui nhộn nhất là Múa Rùa. Múa Rùa diễn ra trong không khí vui tươi, những động tác múa nhịp nhàng, khỏe khoắn của các chàng trai miêu tả lại việc đuổi rùa, tìm rùa, bắt rùa, giết rùa. Múa Rùa là một nét đẹp, thể hiện tính phồn thực và mối giao hòa trong cộng đồng dân tộc.
- Tết nhảy: Đây là tết riêng của mồi gia đình, cũng mang tính dòng họ. Tết này này nhằm mục đích luyện âm binh cho bộ tranh Đại đường để thờ phụng các thần linh, bảo vệ cuộc sống gia đình. Vì vậy nó mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo rất rõ rệt. Tết nhảy được tiến hành vào tháng chạp, năm nào cũng tổ chức nghi lễ này cứ ba năm làm thành một chu kỳ. Chỉ có gia đình nào có bàn thờ tổ và đã sắm tranh Đại đường thì mới có tết nhảy. Tết nhảy đòi hỏi một quá trình chuẩn bị khá lâu, phải nấu rượu, nuôi lợn, thanh niên luyện tập các điệu múa, chuẩn bị dao, gươm bằng gỗ.
Quá trình của tết nhảy trải qua các bước sau: lập đàn tẩy uế, làm lễ khấn các thần thánh. Nội dung chính của nghi lễ là nhảy múa và khấn tụng được tổ chức liên tục trong suốt những ngày đêm làm tết. Mỗi người múa tay đều cầm cờ, trống chiêng, sập sèng... múa theo điệu quay vòng. Rồi sau đó là nhiều điệu múa truyền thống được trình diễn như: múa kiếm, múa dạo (lạp miên a dạo), múa nhảy rùa (Pẻo tộ)... Tất cả những động tác của các điệu múa này đều được thực hiện một cách liên tục với sự khéo léo và tinh tế của người trình diễn. Những điệu múa, lời hát trong Tết nhảy thường hướng đến những điều tốt lành, hạnh phúc. Lễ "nhìang chầm đao" chủ yếu phục vụ cho tôn giáo tín ngưỡng, nhưng ít nhiều có mầu sắc văn nghệ, toát lên ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao sống đoàn kết, thủy chung, tình nghĩa.
- Một số lễ tết khác của tộc người trong năm:
+ Tết Nguyên Đán: Khác với dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng mang đậm nét văn hóa dân tộc mình. Với người Dao cũng vậy họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Đồng bào Dao đón tết đơn giản nhưng lễ nghi lại cầu kỳ và độc đáo. Với người Dao, tết nguyên Đán là mở đầu cho một năm mới đã bận rộn chuẩn bị từ 27, 28 tháng chạp. Từ 27/12 nhân dân đã chuẩn bị mọi thứ cho việc đón tết như: gạo, bột, lá gai, củi, rau, bò, lợn, trang trí nhà của và đặc biệt sắp đặt quần áo.
Ngày 30 tết nhà nào cũng phải nấu một nồi nước thơm thật to để ai cũng phải tắm. Theo quan niệm của người Dao thì tất cả mọi người phải tắm rửa sạch sẽ để rũ bỏ mọi xấu xa, bẩn thỉu của năm cũ bước vào năm mới sạch sẽ, trong lành. Chiều 30 tết nhà nào cũng lập đàn cúng để mời gia tiên và các thần linh về ăn tết với con cháu. Bao giờ cũng vậy tối 30 tết mọi người trong gia đình quây quần bên nồi bánh trưng để trò truyện về năm đã qua. Các thứ bánh được người Dao cúng trong ngày tết ngoài bánh trưng còn có các thứ bánh khác như bánh dầy, bánh gai, bánh bột nếp....Cũng giống người kinh trên bàn thờ của mỗi gia đình người Dao có thêm cành đào, trong chén lúc nào cũng có rượi và nước, hương được đốt liên tục. Ngoài ra người Dao còn quan niệm kiêng không mở hòm trong 3 ngày tết nên phải lấy sẵn quần áo và đồ dùng trước giao thừa. Trong 3 ngày tết cũng không được san sẻ hay cho ai bất cứ thứ gì. Đêm giao thừa người Dao có tục thay nước đầu năm mới trên bàn thờ. Từ đêm giao thừa đến mùng một, họ kiêng không ăn rau chỉ ăn cơm, các loại bánh và thịt động vật. Sau khi cúng giao thừa song mọi người trong gia đình quây quần vui vẻ, ăn uống, ca hát và chúc tụng nhau những lời chúc tốt lành cho năm mới. Sáng mùng một sau khi song xuôi mọi thủ tục ở gia đình, mỗi nhà một người nam giới mặc trang phục truyền thống tạo thành một đoàn đi chúc tết tất cả các nhà.Tết cũng là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi hội ngày xuân.
+ Tết cùng năm: Đây là tết của gia đình, dòng họ. Dòng họ nào cũng tổ chức tết này vào tháng 12 âm lịch, nhưng tập chung nhất vào các ngày 15 đến 25 tết. Các gia đình luân phiên nhau tổ chức tết, luân phiên mời nhau.Mục đích của tết này trước là để lập đàn cúng tạ ơn gia tiên, các thần linh đã phù hộ cho gia cho, dòng tộc một năm may mắn thành công...Sau là ngày xum họp của anh em ruột thịt, họ tộc, bạn bè thân thiết để trò chuyện thông báo cho nhau về một năm qua. Lễ vật chuẩn bị cho tết năm cùng khá đầy đủ với thịt lợn, gà, bánh dầy. Bánh dầy là một trong những lễ vật không thể thiếu được trong tết năm cùng.
+ Tết cơm mới: Đây là một trong những lễ cúng quan trọng của mỗi gia đình Dao được tổ chức tại nhà.Cúng cơm mới là để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tốt tươi, lúa ngô có thể thu hoạch được. Lễ cúng được tổ chức trong nhà. Khi lúa sắp được thu hoạch, người ta chọn ngày tốt, gặt lấy ít thóc đầu mùa đem phơi khô, lấy gạo nấu cơm cúng. Nếu lúa chưa chín họ lấy gạo cũ về thổi cơm, ngắt lấy vài bông bỏ vào nồi cơm để có hương vị cơm mới và coi đó là cơm mới. Đàn cúng gồm: 5 bát cơm, 5 chén rượi, 1 chén nước, 1con gà luộc, một ít tiền ma, một bát hương. Chủ nhà đứng trang nghiêm trước bà thờ kế công ơn cử tổ tiên và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ mãi mãi về sau để công việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Sau lễ này, đồng bào chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để thu hoạch lúa mới.
4. Các tập quán xã hội và tín ngưỡng
- Các tập quán theo chu kỳ đời người
+ Sinh đẻ: Người Dao đẻ ngồi và đẻ ngay trong buồng ngủ, không được đẻ ở nơi khác, do mẹ chồng, mẹ đẻ hoặc chồng đỡ cho. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế mới bế lên, tắm rửa bằng nước nóng. Người ta cắt rốn bằng dao nứa. Ngay từ khi đẻ sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng và rượi. Trẻ sinh được ba ngày thì gia đình lập giàn cúng mụ gọi là làm lễ "nam khan". Sau khi sinh khoảng từ 3 đến 7 ngày, họ chọn ngày tốt để làm lễ để đặt tên cho trẻ. Tên của bé cũng được chọn rất kỹ, không được trùng với tên của gia tiên, ông bà, chú bác, anh em nội ngoại gần xa. Người Dao Đỏ thường đặt tên con đầu là: Cấu, San, Lộ... Con trai út lại thường đặt tên là: Lai, Lĩu...
+ Cưới hỏi: Lễ cưới của người Dao Đỏ có nhiều nét đọc đáo, trước ngày cưới khoảng một năm bên nhà trai phải trao các khoản thách cưới bằng tiền để cô dâu chuẩn bị cho ngày cưới. Suốt thời gian một năm ấy, cô gái phải dành thời gian để thiêu thùa, sắm sửa trang phục, chuẩn bị của hồi môn.Đến ngày cưới nhà trai cử người đến đón dâu, tùy theo giờ tốt, người ta đưa cô dâu vào nhà chồng theo các hướng theo quy định. Khi ăn cỗ, họ nhà trai ngồi riêng, nhà gái ngồi riêng. Người Dao Đỏ còn có tục bất kỳ ai trong họ nhà trai cũng như nhà gái đến dự đám cưới đều có phần thịt, bánh mang về.
+ Tang ma: Ngay sau khi người chết tắt thở, người ta bắn ba phát súng, nếu là người trưởng tộc hoặc được cấp sắc 7 đèn trở lên thì chọc thủng nóc nhà bắn chỉ thiên báo cho Ngọc Hoàng và báo cho dân làng biết. Đám ma cử người Dao Đỏ cũng tiến hành tất cả các thủ tục như các nhóm Dao khác. Mồ mả người chết được chôn vĩnh viễn. Đồng bào quan niệm đám ma chỉ là bước đem người chết đi cất giấu để không cho ma xấu bắt hồn và làm nhục thể xác.
+ Làm nhà mới: Việc làm nhà mới với người Dao Đỏ là rất quan trọng. Việc chọn địa điểm làm nhà là quan trọng hơn cả. Đồng bào thường làm ở nơi khuất gió, cao ráo, gần khe suối, gần ruộng nương thuận tiện cho việc lấy củi, hái rau.Nghi lễ chon đất cũng rất được coi trọng, đồng bào quan niệm nếu gặp được điền lành khi chọn đất làm nhà thì sẽ gặp nhiều may mắn làm ăn gặp nhiều thuận lợi. Sau khi dựng nhà song, theo giờ tốt đã chọn, đồng bào sẽ làm lễ vào nhà mới như sau: một cụ già cầm đuốc đi trước, theo sau là chủ nhà và những người trong gia đình đem theo bàn thờ tổ tiên và một số đồ vật tượng trưng. Sau đó họ làm cơm để kính báo và mời tổ tiên về nhà mới cùng con cháu.
5. Một số tín ngưỡng thờ cúng dân gian
- Thờ cúng tổ tiên: Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình đồng bào người Dao, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Theo quan niệm của người Dao tổ tiên là loại ma lành phù hộ con cháu, tuy nhiên nếu không thờ cúng cận thận tổ tiên cũng có thể bắt tội làm con cháu ốm đau bệnh tật. Thường người Dao thờ tổ tiên chín đời. Điều này thể hiện rõ trong các nghi lễ lớn như cấp sắc, tảo mộ hoặc trong các dịp tết của gia đình.
Việc lập bàn thờ tổ phải tuân thủ theo quy định rất nghiêm ngặt. Bởi vậy nó thể hiện bề dày truyền thống gia đình và cũng là niềm tự hào của truyền thống gia đình. Bàn thờ tổ luôn được đặt ở gian giữa nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đằng trước hay bên cạnh bàn thờ người ta treo một cái trống bằng dây thừng hay da thú, dây này buộc lên thượng lương của nhà. Ngay trên vách cạnh bàn thờ người ta treo hai ống nứa hay hai túi vải đựng hai bộ tranh "Tam thanh lớn" và "Tam thanh nhỏ". Vì bàn thờ tổ là nơi tôn nghiêm nên phụ nữ đặc biệt là các cô dâu ít được gần nhà thờ, đặc biệt là không bao giờ được thắp hương hoặc bê lễ vật lên bàn thờ cúng. Ngay từ khi quét nhà người ta luôn luôn chú ý quay mặt về phía bàn thờ mà quét quay lui trở ra, quay lưng về phía bàn thờ bị coi như là một thái độ thiếu tôn kính đối với tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên thường là do chủ gia đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Nếu nhà không có đàn ông thì đến ngày lễ tết, đốt hương ở phen thờ, cúng lễ cũng phải nhờ đàn ông khác trong họ đến cúng.
- Thờ cúng Bàn vương "Chẩu đàng": Thờ cúng Bàn vương là một tục lệ khá điển hình trong sinh hoạt của người Dao. Bàn Vương được đồng bào coi là thủy tổ của dòng họ nên việc thờ cúng Bàn Vương được người Dao coi như một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả dân tộc. Thường ngày, Bàn Vương được thờ cúng chung với tổ tiên của từng gia đình, từng họ. Trong các nghi lễ lớn lễ cấp sắc, tết nhảy... đều phải cúng Bàn Vương. Ngoài việc cúng Bàn Vương hàng ngày còn có những lễ cúng bàn vương riêng với các nghi lẽ chính sau: Lễ khuất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa.Việc thờ cúng Bàn Vương không phải chỉ là sự chung thủy uống nước nhớ nguồn, nhớ công ơn của tổ tiên, mà còn là yếu tố văn hóa quan trọng được lưu truyền qua nhiều thế hệ của người Dao.
6. Văn học dân gian:
Dân tộc Dao vốn có một lịch sử và một nền văn hóa lâu đời, một nền văn học nghệ thuật và những tri thức dân gian rất phong phú, phản ánh lên cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ của người Dao. Trong các sáng tác dân gian của dân tộc Dao, văn học dân gian ( Truyện cổ, thơ ca, câu đố, Hát, Múa, Tực ngữ, Vẽ...) chiếm phần lớn. Dân tộc Dao không có văn tự riêng nhưng họ sử dụng chữ Hán đã Dao hóa. Cùng với các tác phẩm truyền miệng còn có các tác phẩm khuyết danh bằng chữ nôm Dao. Các sáng tác bằng truyền miệng được diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân nên phong phú và khá phổ biến. Nội dung của văn học dân gian chủ yếu đề cập đến nguồn gốc của dân tộc Dao, ca ngợi thiên nhiên, tình yêu trai gái,đề cao lao động, kinh nghiệm cuộc sống.
7. Tri thức dân gian
- Cách tính thời gian dân gian: Đối với người Dao, việc tính tớn thời gian rất quan trọng và phải tiến hành thường xuyên để biết thời vụ sản xuất, biết ngày tốt, ngày xấu, ngày cho phép khởi điểm các công việc có tính chất đặt nền móng, biết được những ngày kiêng kỵ không đi làm nương. Song đồng bào không có hệ thống lichj riêng mà chỉ dựa hoàn toàn theo cách tính lịch Trung Quốc. Cách tính tháng hoặc năm, người ta dựa vào chu kỳ mặt trăng như cách tính thời gian theo lịch âm của người Việt, cũng theo lục giáp ( 10 can, 12 chi ) và gọi tên theo tên 12 con vật.
- Cách phán đoán thời tiết, khí hậu: Đồng bào Dao có một số kinh nghiệm phán đoán thời tiết, khí hậu để sản xuất cho kịp thời vụ. Những kinh nghiệm đó đã được đúc kết, tích lũy từ lâu đời trên cơ sở nhận xét sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên như: khi thấy " xâu kỉa piáo" ( kiến dọn tổ ) thì báo hiệu trời sắp mưa, nếu kiến ở bờ suối dọn tổ thì sắp có nước lũ. Hoa " xấu dòng phăng" ( rau muống rừng) nở đỏ rực, báo hiệu không lo rét trở lại , cấy lúa sớm......
- Y học dân gian: dân tộc Dao đã tích lũy được nhiều vốn y học cổ truyền quý giá. Các vị thuốc chủ yếu hái lượm ở rừng, ít khi trồng sẵn. Có loại lấy rễ, có loại lấy lá hoặc vỏ, cũng có loại lấy quả hoặc hoa ... . Có vị thuốc sắc uống để chữa bệnh đường ruột, đau xương ...; có vị giã nhỏ để rịt hoặc bó hư chữa gẫy xương, vết thương nhỏ... ; có vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa như các bệnh ngứa, lở loét, phù thũng... Nhìn chung có thể chia làm ba loại thuốc chính: thuốc bổ, thuốc trị bệnh và thuốc độc giết hại thú rừng.
IV. Nghệ thuật “Páo Dung” của người Dao xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.
1. Sơ lược về hát "Páo dung" của người Dao.
"Páo dung" (hay còn gọi là "Pá dung" hay "Pả dung") là một lối hát trên cơ sở giai điệu, tiết tấu có sẵn, cố định để ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, yêu thế giới động vật, yêu lao động sản xuất, yêu quê hương, đất nước hay ôn lại quá trình lịch sử - xã hội tộc người. Đây là nhu cầu sinh hoạt văn nghệ phổ biến của cộng đồng Dao từ xưa đến nay. Đồng bào quan niệm "Có sừng dài mới đi vào được làng" (mài chong đáo chính pịa tú lảng), nghĩa là phải biết hát và hát đối giỏi mới được vào làng. Theo thông lệ của đồng bào, đã là khách muốn vào làng phải biết hát. Do vậy, người Dao nói chung, ai cũng có nguyện vọng là muốn hát và hát giỏi.
"Páo dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú. Nó phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt, có thể kể về quá trình lịch sử - xã hội của tộc người như: "Người Dao vượt biển" (Phìu dìu khói dung), muốn hát "người Dao vượt biển" đòi hỏi phải thuộc mới được hát. Có thể người này thay người kia hát nhưng phải tiếp nối nhau cho trọn bài vì đồng bào quan niệm nếu dừng lại giữa chừng thì quá trình vượt biển của tộc người không đến nơi đến chốn, lênh đênh, lưu lạc ngoài biển cả. Khi không thuộc một đoạn nào đó thì phải có người nhắc hoặc phải có sách để xem.
Hát trai gái chưa vợ chưa chồng (Páo dung tòi tồm dòi lủng) hát ca ngợi tình yêu đôi lứa, hát đối đáp, giao duyên. Trai gái có thể hát mấy đêm liền. Họ hát để tỏ tình yêu đương với nhau. Khi hát thường có các cụ già giúp đỡ đặt lời ví đối khẩu.
Hát những người có vợ có chồng (Mài piáo tồm tòi páo dung). Những cuộc hát này có mục đích chính là thưởng thức tài văn nghệ của nhau nên nội dung các bài hát chủ yếu ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi thiên nhiên tươi đẹp, hỏi thăm sức khỏe, thăm công việc đồng áng, thăm gia đình con cháu của nhau. Họ không hát tỏ tình như trai gái chưa vợ chưa chồng nên thời gian hát ngắn hơn, thường chỉ một vài giờ là kết thúc.
Hát uống rượu (Páo dung hốp tiu): khi uống rượu vui vẻ thì đồng bào hát với nhau. Nội dung bài hát thường phù hợp với ý nghĩa của tiệc rượu. Ví như trong đám cưới, người ta hát những bài khuyên nhủ vợ chồng làm ăn hòa thuận, đông con nhiều cháu; trong tiệc rượu mừng nhà mới, người ta hát những bài chúc sức khỏe, sản xuất tốt, làm ăn gặp nhiều may mắn, ... Trong tiệc rượu, ai muốn hát cũng được, không phân biệt trai gái, không phân biệt tuổi tác.
Hát ru (Háo ton dung). Làn điệu hát ru rất nhẹ nhàng, êm dịu, bay bổng. Loại hát này thường được mở đầu và kết thúc bằng câu "Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng" (Ối a, ngủ ngon, ngủ ngoan con nhé). Khi ru, các bà, các chị thêm vào những câu hát dành riêng cho trẻ em, kể về những câu chuyện của trẻ em.
Hát có thể phản ánh một phần thực trạng xã hội tộc người trong lịch sử như "Người làm dâu" (Nhỉ nhàng dung), hát mời rượu, hát mừng cô dâu chú rể, hát ca ngợi sản xuất, hát hỏi thăm, hát chúc mừng năm mới, hát giữ khách, hát khuyên răn, gần đây là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới. Phần lớn các bài hát đều do người hát tự sáng tác tùy theo khả năng của mình. Do vậy, đề tài rất đa dạng nhưng có đặc điểm là không được ghi chép để truyền tụng từ đời này sang đời khác. Tuy nhiên, cũng có nhiều bài hát với các thể loại khác nhau được ghi chép bằng chữ Nôm Dao được phổ biến trong cộng đồng. Đó là các bài hát với các chủ đề: hát chào (chíp khé dung), hát tiễn đưa (phúng khé dung), hát mời rượu (hốp tiu dung), hát tình yêu (phây quyển dung), ... cũng không ít thơ ca được ghi thành truyện thơ dài như bài ca vượt biển (chúa khói dung), truyện thơ Lương Sơn Bá -Chúc Anh Đài (inh tòi dung), ... Những bài hát cổ ghi trong sách phổ biến là thể loại 7 từ (thất ngôn), có thể là khổ 4, khổ 8, 12 hoặc trường thiên. Những sáng tác mới mang tính tự do về ngôn từ hơn. Thơ và ca gắn liền với nhau. Thơ là lời của bài ca, vậy nên muốn có nhiều bài ca thì đồng bào phải sáng tác nhiều bài thơ.
Trong "Páo dung", đồng bào chia ra ba hình thức hát. Thứ nhất là hát hát (Páo dung), ở hình thức này, người ta hát ngân dài hơi nhất (còn gọi là hát rên); thứ hai là đọc hát (Tộ dung) là hình thức hát ngân trung bình, không lấy nhiều hơi như "Páo dung"; thứ ba là nói hát (Coóng dung), đây là hình thức hát nhanh nhất, gần như nói chuyện với nhau, đôi chỗ có ngâm, có kéo dài giọng nhưng rất ít. Trong ba hình thức này, đồng bào chủ yếu chỉ sử dụng hai hình thức hát "Páo dung" và "Tộ dung". Khi "Páo dung" mà người hát cảm thấy mệt, người ta tự chuyển sang "Tộ dung" để đỡ mất nhiều hơi hơn mà không ảnh hưởng gì đến lời hát. Chính bởi thế, cùng một nội dung bài hát nào đó, người ta vừa có thể "Páo dung" vừa có thể "Tộ dung". Hát "Páo dung" có thể hát đơn hoặc hát đối đáp, trong đó hát đối đáp được sử dụng rộng rãi hơn. Trong hát giao duyên nam nữ, những người cùng tông tộc không hát với nhau bởi ngoài việc thi tài, trai gái còn hát để làm quen, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau.
Với những nội dung và đặc điểm như trên nên "Páo dung" có thể được hát ở bất cứ nơi nào, có thể tại nhà, tại một khu đất rộng trong những lễ hội đầu xuân, tại đám cưới, tại những đêm trăng giao lưu, tại ruộng, tại nương hay ngay cả trên đường đi.
"Páo dung" không chỉ hát vào dịp đầu xuân hay khi có lễ hội, có các cuộc vui mà người ta hát bất cứ khi nào cảm thấy thích hát, muốn hát như trên đường đi nương, đi ruộng, khi cắt lúa, khi gặp nhau trên đường, khi khách tới chơi nhà, khi mời khách, giữ khách, tiễn khách, ... nhưng nhiều nhất là các dịp trai gái đến chơi làng, hát trong đám cưới, hát vào nhà mới hay những ngày hội làng, hội bản.
Ở người Dao, từ trẻ đến già hầu hết đều biết hát và sáng tác thơ ca. Hát "Páo dung" là loại hình nghệ thuật thu hút sự tham gia của mọi đối tượng trong cộng đồng, nam có, nữ có, thanh niên có, trung niên có, cao niên cũng có. Trong những cuộc vui lớn thì số lượng người hát cũng như độ tuổi tham gia hát đều không hạn chế. Mỗi đối tượng hát những thể loại khác nhau phù hợp với tuổi tác, tâm tư, tình cảm của mình: thanh niên thì hát giao duyên, trao đổi tâm tình, hẹn hò, kết bạn. Người trung tuổi thì hỏi thăm nhau sức khỏe, gia đình, anh em, chuyện làm ăn, chuyện con cái. Người già thì ôn lại chuyện xưa, kể chuyện con cháu.
"Páo dung" là một hình thức nghệ thuật giải trí không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người Dao. Đó là phương tiện để bày tỏ tình cảm, trao đổi tâm tình, ôn lại quá trình lịch sử, làm cho con người gần nhau hơn, củng cố tình đoàn kết cộng đồng. Người ta hát khi kết thúc một năm lao động vất vả, mệt nhọc, hát để lấy lại tinh thần bước vào một năm mới với mong ước sức khỏe, mọi điều may mắn, hạnh phúc. Trai gái hát để tâm tình, tìm hiểu, yêu nhau rồi lấy nhau. Người già hát để kể cho con cháu nghe về lịch sử di cư của tộc người mình. Bạn bè hát để chúc nhau hạnh phúc trong ngày cưới, hát để mời nhau chén rượu mừng, hát để hỏi thăm nhau, chia sẻ cùng nhau, ...
2. Giá trị của hát "Páo dung".
Có thể nói "Páo dung" là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao nói chung cũng như người Dao Yên Bái nói riêng. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Páo dung" mang trong mình những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Giá trị nghệ thuật thể hiện trong ca từ, thể hiện sự sáng tạo của cộng đồng trong việc đưa ngôn ngữ đời thường vào thi ca, những giai điệu, tiết tấu của "Páo dung" cũng thể hiện sức sáng tạo độc đáo, mang bản sắc riêng của tộc người.
Giá trị lịch sử thể hiện rõ nét trong những lời ca kể về lịch sử di cư của tộc người hay những lời ca than thân, trách phận, thể hiện sự đấu tranh chống lại lễ giáo phong kiến, thể hiện sự khao khát tự do, mong ước về một tình yêu vĩnh cửu của những đôi trai gái yêu nhau. Đó là những giá trị hiện thực đã từng tồn tại trong lịch sử xã hội tộc người được phản ánh trong thơ ca mà chúng ta cần khai thác và tìm hiểu.
"Páo dung" còn thể hiện rất rõ giá trị văn hóa của tộc người. Từ lời hát, cách hát, giai điệu, tiết tấu, âm nhạc đến nội dung đều thể hiện những nét văn hóa riêng, độc đáo của tộc người.
Giá trị giáo dục cũng được thể hiện rất rõ trong "Páo dung". "Páo dung" khuyên người ta chăm lao động, hướng tới cái thiện, không làm việc xấu, ghi nhớ công ơn mẹ cha, chăm chỉ học hành, vinh danh đỗ đạt, sống tốt với cộng đồng, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của tộc người.
Đến nay ở xã Đại Sơn, hát "Páo dung" vẫn tồn tại trong đời sống của đồng bào một cách phổ biến và dường như được giữ nguyên vẹn cả về hình thức cũng như nội dung. Tuy nhiên, số người biết hát "Páo dung" ngày càng ít. Vì vậy, việc bảo tồn và phát huy làn điệu Páo dung - văn hóa phi vật thể độc đáo này là cần thiết trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay.
3. Thời gian và địa điểm tổ chức "Páo dung":
Thời gian tổ chức: 2 ngày, ngày 11, 12 tháng 6 năm 2013. Chương trình "Páo dung" được tổ chức tại nhiều địa điểm cho phù hợp với nội dung các bài hát: địa điểm chính được tổ chức tại nhà sàn cộng đồng tại Ủy ban nhân dân xã Đại Sơn, ngoài ra còn tổ chức hát ngoại cảnh như bên rừng quế, bên nhà đất truyền thống của người Dao Đỏ, ...
4. Công tác chuẩn bị cho nghi lễ:
Để chuẩn bị cho chương trình "Páo dung", phải tổ chức mời thầy Mo và những người phụ giúp. Đồng thời, các lễ vật cũng phải được chuẩn bị đầy đủ, mời cộng đồng tới tham dự, mời các thành viên tham gia hát, nhờ người giúp việc bếp núc, nội trợ, trang trí giấy, nước uống, quét dọn trong quá trình thực hiện chương trình.
* Chọn ngày, giờ và chọn thầy, đón thầy: Thời gian được chọn là tối ngày 11 và sáng ngày 12 tháng 6 năm 2013. Các thầy gồm có: Thầy Mo (chủ lễ): ông Đặng Tiến Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái); Hai thầy phụ: Ông Triệu Tiến Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái) và Ông Đặng Nho Hín (xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái). Các thầy này chỉ phục vụ cúng lễ trong bài hát "Người Dao vượt biển" (Phìu dìu khói dung), những bài hát không liên quan đến nghi lễ cúng tế.
Sáng ngày 10/6 đón thầy Mo trước, kế đó mới mời thầy phụ. Các thầy đã được thông báo trước, tới ngày này, các thầy chủ động báo cáo và xin tổ tiên nhà mình, khi được sẽ chuẩn bị đồ dùng trong nghi lễ, có người đến đón là các thầy đi tới nơi làm lễ luôn.
* Lễ vật chuẩn bị cho nghi lễ: Gạo tẻ: 20kg; 2 con lợn từ 40 đến 50kg/con; Rượu: 20 lít; Giấy màu (7 màu); Vàng, hương, dầu hỏa, đèn dầu; Hoa quả, bánh kẹo; 1 thuyền làm từ tre, gỗ, nứa, lá; 1 bàn thờ thấp có trải vải đỏ và một ghế ngồi cho thầy khi làm lễ; 1 bàn gỗ để đặt lễ trong quá trình cúng tế.
* Các thầy chuẩn bị: 2 bộ trang phục thầy cúng, 2 mũ vải đỏ; Tranh thờ (1 bộ 3 tranh Tam thanh); 1 sách cúng; 5 bộ vòng cổ bạc; 5 bộ phá nữ; 1 chuông; 1 gông; 1 lanh; 5 chuông; 2 chũm chọe; 1 trống; Bộ xin âm dương.
*. Danh sách các nghệ nhân tham gia hát "Páo dung":
1. Ông Đặng Nho Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
2. Ông Triệu Tiến Vượng (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
3. Ông Đặng Nho Hín (xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
4. Bà Bàn Thị Ton (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
5. Bà Phùng Thị Chạn (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
6. Bà Phùng Thị Lai (xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
7. Bà Lý Thị Ba (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
8. Bà Triệu Thị Sính (xã Viễn Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
9. Ông Đặng Tòn Liếu (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
10. Ông Đặng Tòn Phạn (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
11. Ông Bàn Hữu Đông (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
12. Ông Bàn Phúc Thiên (xã Đại Sơn, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái)
5. Tiến trình hát "Páo dung":
Như trên đã nói, "Páo dung" là hát của tộc người Dao nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú. Trong điều kiện cho phép, chương trình quay phim bảo tồn này chỉ chọn lọc và thực hiện được những làn điệu và bài hát tiêu biểu nhất để làm nội dung cho kịch bản.
Trước hết là quá trình chuẩn bị nghi lễ và ca khúc hát vượt biển. Trước khi vào hát chính thức, công tác tổ chức được làm rất cẩn thận. Các thầy tự chuẩn bị những vật dụng cần dùng trong quá trình làm lễ, để ngay ngắn trên bàn ngồi làm lễ. Những người giúp việc thực hiện việc cắt giấy màu dán vào bàn thờ đặt lễ vật, xung quanh khu vực làm lễ, bày biện các đồ lễ vật theo sự chỉ đạo trực tiếp của ông thầy cả. Chiếc thuyền đã được chuẩn bị từ trước, đem ra đặt ngay cạnh con lợn cúng trên ban thờ đặt lễ.
Khi công tác chuẩn bị đã được hoàn tất, thầy cả yêu cầu người giúp việc thắp hương, đốt đèn, rót rượu vào các chén để thầy chuẩn bị làm lễ. Những người phục vụ hương, đèn, rượu này không được phép vắng mặt trong suốt quá trình làm lễ và cũng không lúc nào được để hương tắt, đèn tắt hay rượu hết.
Xong việc, thầy Mo bắt đầu thỉnh chuông và cúng khấn mời tổ tiên về chứng giám và nghe khúc ca ôn lại lịch sử di cư của tộc người mình trong lịch sử. Đây là một trường ca dài kể về lịch sử của tộc người, từ khi không mặc áo quần, không biết chồng vợ, cho đến khi gặp trận đại hồng thủy, cỏ cây, con người chết hết, chỉ có hai anh em nhà nọ nhờ nương tựa trong quả bầu (trong truyện là hồ lô) mà thần sấm ban cho nên sống sót, đi khắp thế gian tìm người kết duyên, gặp con rùa, rùa bảo anh em lấy nhau để duy trì nòi giống nhưng hai em không tin, đánh vỡ mai rùa, rồi tiếp tục đi tìm nhưng thực là không còn một bóng người. Cuối cùng, hai anh em đành lấy nhau, sinh con đẻ cái, rồi sinh ra loài người. Số con đó một nửa lên non, một nửa xuống biển tạo thành 12 họ của tộc người như hiện nay. Nhưng do cuộc sống khó khăn, đoàn người quyết vượt biển đi tìm kế sinh nhai. Công cuộc vượt biển thật gian nan, vất vả nhưng với quyết tâm, với ý chí nghị lực phi thường, cuối cùng cũng hoàn tất đến bến bờ an toàn. Rồi các họ tộc cùng nhau cày cấy, vui chơi, hát ca, hưởng cuộc sống an bình, hạnh phúc đến muôn đời. Cốt truyện tuy giống với nhiều tộc người khác nhưng trong nội dung, ý thơ, lời hát, phong cách nghệ thuật trình diễn vẫn mang những nét bản sắc văn hóa của tộc người rất rõ nét. Đến khi đã lên hương, lên đèn đầy đủ, thầy cả bắt đầu ca:
PÌU DÌU KÍA KHÓI DUNG
(CA NGƯỜI DAO VƯỢT BIỂN)
Luồng kít nin kên kỳ chấy phúi
Slía luốn tồng siho chảng lít tầu
Chía kiếu chùn nghìn sũ dặm líu
Một kết một dằng buốn dặm biêu
Chẳng kết nhần mằn dặm ấy vạ
Liềm đía thó xanh kía tsliêu
Slin pết pé lụa chiệp phấy phíu
Xin chảng thút pầy duấn nụn tàu
Chảng kít nin kên vùi phấy dác
Dặm vụa túa sam sin tsluất mầu
Dùn xanh pham pé lụa chiệp phấy phúi
Mậu khuýa giăng mềnh dùn óm âu
Hạ kít nin kên khắng vui va
Ói kếnh sính chuần dặm híu tầu
Mụa kít nin kên vủi háu suôn
Thống nin dìa nhàng khấu mọn sliêu
Ù cá sính hùng phính sluất sấy
Chấy sluất tại dùa dung chuống châu
Kạp cháng dùn xanh lụa chiệp phíu
Duồi tậy thó xanh cánh chuống phíu
Dần Mão nhị nin kín tại quấy
Ù lìu ghịa tậy chám tìn pậu
Ù lìu chảng thin chùn một kiếu
Luồi nhà phộng pá một xong châu
Hai nhuần ếnh kiếu ù trừ vạ
Sbếp chuống luồi nhà chảng muột pâu
Duồi tậy lậu luồng khoa gọi sluất
Duồi luồng kết cháy tại hầu cầu
Siêu puốn hầu lâu duốn pụa ố
Phiêu duấn muồn puống pụa ố châu
Kình tỉnh dùn nin bồng súi phát
Hai phần tó mạnh chắn hầu lầu
Sluân xanh nạn tỏ bò nò vạ
Dâu día nàn hò kháu bói châu
Sluất chiu sliết día mậu mềnh nhụt
Sên bang síu duốn miền thin hầu
Đắp chảng thin tòng mậu thin khấu
Thin muồn thin đía síu pành pâu
Súi đía dằng luồng tài púng súi
Bầu lầu thoái tặng súi tình liều
Có pú nhị nhần phụ bây hộ
Tồ hoang kháu sấy muận ka kiều
Sluất sấy tồ hoang bầu lầu nọi
Pầu đầu thin đía siệu dàu dầu
Pá quấn bành dầu khán thin đía
Thin đía chiệp miêu mậu có châu
Pầu dầu kía chiêu thác pết cúa
Tú kín ùa quây làn lầu tầu
Ù quây khoi khấu chùn nghìn búa
Thin đía nhần mằn phấy líu hiêu
Dặm sáng bành dầu chiềm ngõ nịm
Chậy kắp hông đay vầy xấy phiêu
Phụ hây chấy mụi dặm siến va
Dậu quẫy lụn nghìn ká hoắng châu
Tá pó ù quây làn lậu chói
Chiên chía mậu nhân mạn cắp châu
Hành dầu chiệp chiêu mâu ngõ mịn
Siến chía ù quấy chiền vạ phiêu
Vụi sính duấn pâu phấy làng vạ
Cắp chánh ù quây dùa hắng phiêu
Kết chảng cắp chằng chiệp nhị cúa
Sin chảng trùn dùn hắng kiệu pâu
Phụ hây phang cắp pin phang cắp
Ếch khấu ù duồi phang cắp phiêu
Khói ngọn siêu hang đàu púi sấy
Găng mềnh chậu đía kết xong phiêu
Nhụt tàu kía thin vầy chong chếnh
Tậy ghịa còng bò choang chếch phiêu
Thin pun tậy pái chằng huân líu
Thất chịu khoa tó chảng nhằng pâu
Xanh ghịa hủn pùn mậu mềnh phích
Nhất có tông qua bìa muột châu
Mậu kế pun mềnh pé phính bộ
Khuýa chiến nhụt nhiêu pắn tồ phiêu
Phật chảng sbinh sên chằng nhân phích
Phật ghịa pành tín pé phích châu
Sbế pến nhân mằn chắn thin đía
Dặm tác pun mềnh pé phích châu
Sluất xấy sính lùng chấy liệp tỉnh
Xanh ghịa lục nàm lục phiêu châu
Pun pái lục nàm chằng lục phích
Lục nhiêu pun mềnh lục phích châu
Pun ghịa ngũ diêm cuộng lục kún
Nhất phích xanh nàn nhị phích phiêu
Khống chú sính hồng chấy sâu dặng
Dùn búa pun mềnh thin đía tầu
Chấy liệp họ tòng tộ sâu dặng
Chùn gáo nhân mằn thông biếu phiêu
Hoang tàu liều pham chấy ka khúa
Sìu dìu thin đía khuýa quân dầu
Chiêu hùng chấy chiêu có dịa tập
Tại mua liền bằng miễn tậy pâu
Túa hùng chấy khuýa pàn nhân sáy
Khuýa súi tàng chầy chắn mịn pâu
Pẹ mãi dùn tài tầy nhất kếch
Sâu dặng chùn tài tày nhị phiêu
Hái nhân tộ sâu chằng quấy cháy
Hái cô phiêu slun chằng quấy châu
Tộ sâu chía dặng cuôn mềnh bộ
Nhất cúa chìn làng nhị cúa phiêu
Chấy tỉnh nhất sên púi nhất súi
Thin đía nhất bò púi nhất chiêu
Chấy nài nhất nám púi nhất nhiêu
Nãm nhiêu chằng xong khú quấy phiêu
Nàn tong chiệp pết tếnh ca dạy
Nhiêu tong chiệp pết ká đào phiêu
Dần Mao nhị nin chạ mã phán
Pẹ nhính dạ dầu cuôn dạ dâu
Mềnh hùng sluất sấy phán thin đía
Sết pại nhân mằn pé nhính châu
Piền hùng sluất sấy pành on cúa
Thính chụ mềnh hùng phán pại chiêu
Say tông ừ kề pành mã khiếu
Duồi bô sết xanh pé phính châu
Miền mằn piu kía nàm kinh ngọn
Piền hùng nghìn hin kía tàng sliêu
Dần mao nhị nin thin tai hán
Ké mua sluất in chiu mụa khâu
Phấy có luồng muần mậu sún diến
Pết sluấn siêm tòng mậu có nhiều
Cuôn sbong mậu mãi dàu hoang chiến
Pẹ phích mậu làng hoang lụn dâu
Mậu sbấu số xanh mậu kế nọi
Pìu dìu kía khói khiếu tông chiêu
Phín liệp kía sên piền hùng póng
Bố liệp sâu liềm kía khói tàu
Cắp chằng tại dùn piu kía khói
Thất có tại chùn síu mịn biều
Quá khí hồng kề chùa chuống nọi
Ừ kề pành mã bin chùn biêu
Kắng quất lầy táu síu lầy cậu
Scâm ghịa lầy tầu síu lầy tầu
Danh thán piến than nàn phan duấn
Dùn tuông dân vắng dặm vần biêu
Tong chói chùn triêng pham pé nhất
Mậu kế nọi bò síu mịn biều
Dậu día luồng hùng tài káo kít
Puồng slui sín lọ khói nàn hầu
Kiềm lầu síu diếm bêu ghịa khói
Nạn pé luồng muồn síu đía biêu
Chuống tắn nhần mằn dàu hoang chiến
Chùn chuông phấy chụ sính hùng tầu
Só sbính thin say tài muộn quá
Tín sluất lìn chiêu pụa mịn tầu
Kía khói piền hùng chiệp nhị phích
Khúng día chày pun dặn kếch tàu
Dặm ếch chày phun kía tại khói
Súi lâu dặm thông chùn dặm biêu
Liềm chày biếu nhụn chùn tuông nọi
Ếch pú nhân tinh kía khói tàu
Ừ kề pành má mài lình sính
Vùi panh duốn pậu búa lìn chiêu
Phan chiu tú kín chùn buây khiếu
Chùn hành thán ngạn khẳng quân dần
Piu chiến phấu nọi lò sbăng quyện
Duồi sên canh cuống kía tàng sliêu
Tông quấy phộng vuof chiền ên nhụn
Pun dán hây tầu có phính phiêu
Nhất chùn kía khói có kế nọi
Tam chùn kía khói phấy chùn biều
Phấy chùn đắp thán rằng phay tố
Pham chùn kằng pá kắng chìu chiêu
Phấy chùa đắp chang ù quấy tây
Pết mạn sên tàu kắng quất chiêu
Pặng sên dung manh sống kía sấy
Kháu sính vầy ên sliêu kía sliêu
Nhất sên chám pại mậu canh chuống
Dậu kía nhị hang kháu nhị chiêu
Ông dìa chầy liệp sềnh chông chấu
Háu suận sính chiền phiêu chính tầu
Nhất kếnh ông dìa mịn quân hấy
Nhị kếnh sính chiền phiêu chính tầu
Pham kếnh bang tàn có cố tại
Tậu lây pành phiên pành pín phiêu
Tặng ka lây phính nhất dặng kế
Dậu púng phó muần liềm đía kiều
Có phính thính vần pháy khán dặng
Chiệp dặng phô muần liềm đía kiều
Tá kế dòi chùn on cọ lúi
Dặm dàu hái lậu khuốn phiêm dâu
Dịch nghĩa:
Sinh sống trước công nguyên kể lịch sử
Trước công nguyên con người sinh sống chưa có
Gia đình chồng vợ sinh sống trong rừng hỗn loạn
Người sống trước thượng nguyên thọ một nghìn tám trăm năm
Thân thể mặc đầy lông lá, không mặc áo quần
Đến trung nguyên ba trăm sáu mươi tư tuổi không lửa quang minh
Còn tối tăm, người sống hạ nguyên chưa tiếng nói
Muốn kính thánh thần không biết từ làm từ đâu
Mãi đến mộc cát niên gian mới biết hiếu thuận
Mới biết nghĩa vụ phải sinh con
Các thánh vương mới xuất thế
Chế ra cây búa dưỡng nhân gian
Mệnh sống con người sáu mươi tuổi
Dựa đất dưỡng sinh biết làm ăn
Bại đến Dần Mão hai năm trời điềm báo thần sấm hạ trần gian
Thần sấm trên trời truyền bá lại thần nhỏ rằng
Thần sấm có dặn hai anh em
Hai anh em nhớ lời dạy bảo
Mang răng đi cấy mọc hồ bô
Cây bầu phát triển them năm tháng
Ra hoa kết trái thành hồ bô
Thu hái hồ bô đem về cất
Hồ bô cất để trong nhà
Mừng tám tháng tư năm kinh định
Hồng thủy dâng ngập tận thiên đường
Anh em chui vào hồ bô ở
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Sơn bở nước ngập dâng tận trời
Dâng đến tận trời không lối thoát
Nghe nói thiên hạ nước ngập đầy
Nước dưới con sông mới sả thủy
Hồ bô đến đất nước ngừng dâng
Anh em hai người không thấy ai
Nhờ có hồ bô cứu được mạng
Du hành thiên hạ thấy buồn sầu
Cầm gậy du hành khắp thiên hạ
Thiên hạ thập châu không có người
Du hành nhiều châu đến tám nước
Thấy được con rùa ở giữa đường
Con rùa mở miệng đã cho biết
Thiên hạ nhân dân không còn ai
Không cần du hành tìm hạnh phúc
Tự kết hôn lễ chế nhân dân
Anh em chưa tin câu chuyện ấy
Con rùa mở miệng nói dối thôi
Đánh vỡ con rùa để ở đáy
Thật sự không ai thể ghép liền
Du hành mười châu tìm hạnh phúc
Mới tin con rùa nói thật thà
Hai anh em lúc này mới bàn bạc
Ghép mai con rùa ở thành nguyên
Kết trái ghép thành mười hai miếng
Ghép lại tuần hoàn như cũ luôn
Ghép lại thành liền như cũ
Ứng khẩu con rùa trở lại nguyên
Hai bên bờ biển cùng nhóm lửa
Khói lửa bay lên vẫn kết liền
Nguyện đầu quá thiên cùng làm chứng
Dưới đất cỏ sông cùng chứng minh
Trời xe duyên phận thành chồng vợ
Bảy ngày bảy đêm đã có bầu
Sinh ra quả dưa vô danh họ
Sinh ra quả dưa chửa thành người
Không cách phân minh thành ra họ
Chín trâu ngọc nữ mới phân chia
Leo lên thành sơn thành dân tộc
Đi xuống đồng bằng vạn họ dân
Hóa thành nhân dân khắp thiên hạ
Chưa được phân chia thành họ nào
Xuất thế thánh hoàng được phân định
Phân thành sáu nam sáu nữ danh
Phân cho sáu nam thành sáu họ
Sáu nữ phân thành sáu nữ danh
Phân xuống ngũ âm cộng lục quyển
Nam nữ hai họ mới thành duyên
Khổng tử thánh hoàng chê thơ chữ
Truyền bá thế gian cùng học chung
Chế lập học đường để học chữ
Truyền giáo nhân dân cùng hiểu hay
Hương đầu lưu tam chê ca nhạc
Vui chơi ca hát được hân hoan
Vương triều được lập để cai quản
Cây cao bóng cả che mọi người
Trúc vương chế hỏa thế gian dụng
Thủy hỏa trường kỳ phải có luôn
Ngũ cốc lúa gạo quý thứ nhất
Thơ chữ tính quý thứ nhì
Nhị nhân đọc thơ thành quý tử
Người nào canh tác thành quý nhân
Dùi mài kinh sử thành quan chức
Nhất quản triều đình nhị quản dân
Chế định nhất sơn với nhất thủy
Thiên hạ nhất hà với nhất châu
Sinh được nhất nam với nhất nữ
Nam nữ thành đôi thành gia đình
Nam đương mười tám biết xây dựng
Nữ đương mười tám biết cầu hôn
Dần Mão hai năm giặc kinh loạn
Nhân dân cũng lo quan cũng lo
Minh hoàng ra đời phạm thiên hạ
Sát hại nhân dân trăm họ người
Bàn Vương xuất thế bình an quốc
Nghe thấy minh hoàng phạm lại triều
Sai đông ngũ kỳ binh mã khổ
Tại sao sát sinh trăm họ dân
Nhân dân hoảng sợ chạy toán loạn
Bàn Vương nhỏ lệ quá trường thu
Dần Mão hai năm thiên đại hán
Cây cối ra khói chuối cũng khô
Bốn bể xung quanh đều không nước
Tư sử sông hồ vô hữu ngư
Quan dân vô thực buồn sầu thảm
Nhân dân nghèo đói loạn buồn sầu
Vô thực dưỡng sinh chịu nạn đói
Liều mình vượt biển ra biển Đông
Tiên lập quá sơn Bàn Vương bảng
Hậu lập sách lâm quá hải tờ
Ghép thành thuyền bơi sang biển Đông
Bảy chiếc đại thuyền trôi trên biển
Mênh mông nhiều ngày nhiều hải lý
Nước sâu sóng dữ rất khó đi
Chèo đến lưng chừng khó quay lại
Trong thuyền quỷ quái khó lòng qua
Lênh đênh sóng biển ba mươi ngày
Đành chịu khó khăn ngoài biển khơi
Lại sợ Long Vương gây ra họa
Phong ba bão táp thuyền bị chìm
Bát hương bát nước ném xuống biển
Vạn bách long môn dưới thủy lưu
Trong thuyền mọi người cùng hoảng sợ
Trong thuyền quy nghĩ ra nhiều điều
Có được thiên sư đến xem quẻ
Đoán ra liên châu tam miếu thần
Quá với Bàn Vương mười hai họ
Bỏ rơi không thờ thần thánh đường
Thần không phù hộ cho vượt biển
Thủy bộ bất thông thuyền khó đi
Trong thuyền cầu khấn ngay lập tức
Phù hộ các con vượt biển đường
Ngũ kỳ binh mã linh thần thánh
Hồi binh về bộ báo liên châu
Ba ngày được thấy thuyền hành khổ
Thuyền cũng bơi được đến bến bờ
Triều châu phủ bộ cùng các huyện
Cùng bàn canh tác dựa rừng gò
Đông quý tạ hoàn thân ơn khấn
Phân chia từng họ tự khác làm
Mỗi họ sang biển có một kế
Ba thuyền sang biển bốn thuyền hay
Bốn thuyền cập bến Triều Châu phủ
Chia ra bát hương tự khác lo
Hai thuyền cập bến Quảng Tây đảo
Ba thuyền Quảng Bác Quảng Triều Châu
Bốn thuyền cập bến u quáng địa
Tám vạn rừng gò rông phán châu
Nhất sơn chém trém trụi sang nơi khác
Bại đến nhị nơi dựa nhị phương
Ông cha thành lập thừa tông tổ
Hiếu thuận thánh đi đúng đúng đường
Nhất kính ông cha toan hoan hỉ
Nhị kính thánh Bàn đúng đường phương
Họ Đặng họ Lý cùng một kế
Lại làm bẫy khóa cài ở rừng
Các họ nghe thấy cũng bắt chước
Mười dặm kiểu kế di kiếm cầu
Bàn xong các kế ổn định hết
Không phải tơ vương nghĩ kế gì
Khi đã sang tới bến bờ an toàn, làm ăn may mắn, sinh sống hạnh phúc, thóc lúa đầy kho, gia súc đầy chuồng, người an vật thịnh, để cảm tạ sự phù hộ của các bậc thánh nhân, đúng theo lời hứa, từng họ của tộc người Dao làm lễ trả ơn. Bài ca "Trẩu đàng ý tría" và "Cú dung" thể hiện cụ thể nội dung đó:
TRẤU ĐÀNG Ý TRÍA
(HOÀNG ÂN CẢM TẠ)
Ká lỳ hóp lù trống sếnh ngoày hóp lù trồng san
Trống san trống sếnh trống vuậy sàn mềnh
Hoàn bào trí trói hoán chói ỳ kiông hoàn hoan
Trói boòng kỳ vuậy có co báp nghỉ thếnh sêng
Tạn thếnh dất mềnh tồng trị siên thông voàn nhụn
Siáng dềnh ý tría mó thểnh tông phang côồng dồ
Bòi tsếng miến thểnh say phang sía trọng bòi ngềng
Chói bọ hiàng đắn tạn thếnh siếu siếu dáng sỳ sáo
Hom tồng bềnh bềnh nhắp muồn siang tsếnh bò cú huồn huồn
Ý tría bềng bềng sáo trông triếp truổn ón siáng
Siàng ngềng quối bọ trống sếnh đằn thềnh
Ý tría biàng biàng sáo trông triếp truổn ón siắng
Trống sếnh đắn tsiàng ý tría bồng bồng quấy bọ
Trống sếnh đằn trồồng hòi háo kiếp nghí siền thống
Voàn nhủn mà đào trói vuậy nhắp muồn siang tsếng
Si áng dềnh ý tría phàn mềnh trống sềng duồn hiồng
Tsếng há coóng phú hiàng đắn tà dắt tsếng san
Tố ố ố tà nhị tsếng sếng tồ ka hiàng hoa
Triếp bếng tráp trói hiàng đằn lí nuối tà sam
Nhị sam tsếng sếng pịa pú dòi bàm
Tsếng san tố ố tsếng sếnh tsếngồ cà bày san trói vuậy
Bày sếng trói kiông hoan trói ý kiông tsếng tạn thếnh siếu
Siếu mềnh xỳ tái thông sam đào biang ký cà trí
Tồng tsao ý bòi còn nhuần bài lụ siắng dềng ý
Tría trếnh vọa pạ xuất siắng dếng ý tría sểng siắng
Pạ chi cá diềm vọa pí thiên siắng tsặt sêng
Nàn trí tí hía kăng cú nàn hì sam kăng chía
Trếnh día trếnh sam cằng thái dàng bó liếu thái
Yêm duổn siặng tsặt sêng doán huấn pạ táu duồn hàng
Nhần mằn quôi ố ngào mà quôi bàn cay dí đàu
Bồng piếu dí đàu bàm cà trí đàu xỳ tsếng
Tá siếu siếu dàng xy huấy nhần pạ tsếng tsếng
Nhần pạ huấy pị nhần siang tsếng pạ pị hiàng
Đàn bí nuối pạ pị dí mủ tò hàng pạ pị
Tsêng thiên nhất pạ pị thài dàng tsắt triếu pạ pị
I ố bi thái yêm tsắt triếu pạ pị yềm bọ tị
Nhụa pạ pị sí piên đào pạ lù xy pạ pị xý piên
Coong xuôi tsiàng bào pạ pị xý piên tại mụa
Dìa bàm pạ pị sý piên hù xăng miên siếu pạ
Pị sếng voàng vuầy tại hiàng đằn bi nuối
Pạ kám pị yêm pạ kám pị dàng siếu xy bọ
Siếu tại tám quội bọ trống sếng kiêm ón đòi diền
Siếu si bọ siếu háo trông tsía mạn yêm si tái
Lý hàng diều dàng si tái lì hàng háo kháu
Mộng trống trống yêm si dắt mềnh tồng trị tráo piên
Tsếng tsắt sàn diền tồng trí dạu piên tsếng tsắt
Hố pá siên xy siáng dềnh ý tría phông tsếng mí
Sí tsếng phổng pạ mí sì pạ phông tsuội luồi
San cói điến phông của cù san tại mua bàm
Bàm pạ trám pạ tuốn siếu mụa pạ trống pạ xằng
Tồng trông pạ tá pạ hiàng bò cú pạ tá pạ sênh ỳ tría
Pạ suất pạ tsêng ngìn vọa pạ pú pạ mềnh tồng
Bềnh khềng khêng hòi háo phàm mềnh siếu
Duồn siếu vuậy pạ ám sêng trao pú huận dất kuông
Ý tría của biểu nhị kuông si áng dềnh ý tría dấu
Hòi trếnh tong sềnh trao pú huấn ý tría bềng
Bềnh sềng trao pú huấn sêng voàng cói điện cói
Của mú niên mú nhụt mú nhắt ý bòi hì bù
Tsắt húa hì ghi thuấy trạ diền hí múa trao mú
Khú mú huấn mú sía mú tsông tị tsí
Lỳ đào tồng tso ý bòi mú nhần bòi tố puốn phang
Tì niệm dất đồng cà trị duân trói kcậu phang
Tì niệm sàn đào trám pại san kúa trám hoong
Mú t sý kằng tsuôn kê ngọ nàn tong ông
Ùa thái trú cà siên muồn diền siếu mủ lạp tá
Tsiên niên bềnh điền xuối thú ố puối siếu mủ lạp
Tá mán tại t siềng biàu dấu dì sân pặng san
Vuầy bệ khau sếng vuầy an hếch biếu dất
San bào của nhị san kếch biếu dất xuối bào
Của nhị xuấy thếnh vuồn nhần duồn mú tsí lì đào
Sàn đào dả hú san mí duồn coong xuôi
Dã bềnh mú nhần dất đồng cà trị hì lù san
Húa hì ghi thuẩy trạ thuẩy vuậy trụ trông hiàng
Húa tò tái kiềm bù xuối voán tsi kiông nàm ní
Duối trói kậu phang tì miện bào duốn cúa hói bào
Lụ cúa kai bào san cúa bếng boi tố mú tsí
Đào sàn đào dả hú san mí dả duồn coong xuấy
Dả bềng tría muộn puồn phang tị trí quân nhần
Hoi tám san đào tá hội voàng này tri thú
Bạp hí sí cáo mào phàng bạp hí bồng ghi
Ố trá siáng cói thiên đòng ỳ xuẩy trông cói
Tại đằn trú trông hiang húa hạ cói nhần
Tềng cói cúa ngòa dìn kúa há dáng muột
Tri dòi cày dòi niên dả cao suấy suấy
Cao niên cao cúa mú niên mú nhạt mú nhất
Mú yêm mú nhần tồng t si mú sỉ tría cà
Muồn đào siặng hiàng đằn lí nuối siêu hí
Dất lù nhị bù sam lù mềnh hiang hiang
Si pạ diên tại công siếu dí pá diên hò ý phồng
Dềnh diên vuậy tồng tsoo ý bòi hồng xuối phát
Há thiên đáy biau dấu dì sân siều hiang
Kếnh phộng trú trông hiang húa liền trào pham
Miệu sềng voáng buồn voàng dì sân pạng san
San vuầy bệ kháu sếnh vuầy an kháu mộng
Yêm kan pú trếnh yếu cúa biàng mằn nhụt đào
Tsoo tsắt triếu há bàn kan sạp nhị sếng
Biàu dấu dì sân siều hiang kếnh phộng yêm
Phú tềnh kan voàn nhủn đồ tsiang siên
Thông siắng dềng ỳ tría trống sếng kam tri
Ngũ si pạ cám cù sêng khí kiếp sêng
Boòng khí tải siếu si phú mú thóc xăng bào
Dòng họ tị nhần bồ tẩu nụm tồng bềng hòi
Háo suất vỏa phàn mềnh siên thông cà trí
Voàn nhủn tri dí tồng tsao ỳ bòi buôn cú
Sếng voàng hoi thiên bạp tí mạm cú duồn diền
Tsềng duồn dằng dằng cói cúa thiên đoòng ngũ
Buồi kiấu sêng duồn mủ óm há thiên đoòng
Thiền đềng phát ý hồng xuối yếm hí
Thiên piên coong xuối dào dào tsắt trói sàn
Nhuồn xuối piếu u hác óm ý cù voàng trí
Thiên bềng trí tí thiên trí si phang tị trí
Pát coó trí bay sàn nhuần xuối piếu trí dáu
Yềm dàng san sếng trí đáu pạ nhị nhần
Màn trí dáu trí dáu vùa miều điền đoòng trí
Dáu ngũ cú vùa miều mí biàng pạ nhị sếng
Biàu dấu dì sân duồi niên kăng trống trí dáu
Trí dáu t sắt seng mềnh nhụt triếu há
Bàm kan sếnh niên kan siắng duồn cáp
Dí nhân xăng dật tsiên pát pá lụ sạp
Sí xuấy hàng hiang duồn muồn ý biệu
Diếu mụ phú dí yềm phú tềng can dấu bòi
Cao cưa trông duồn káp dí nhần săng
Sam pá lụ sạp sì xuẩy hàng hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mụ phú dí yêm phú tiềng
Can dấu bòi cáo của hạ duồn cáp
Dí dật pá nhị sạp xì xuội hang hiang duồn
Muồn ý biệu siếu mủ phú dí yềm phú tềng
Kan dấu bòi cao của kềng tệng duỗn miên sí
Nhuật tso pát trông trì nhất hồng xuối phát
Há gyàng gyáng duồn mú dằng dằng yếm hí
Thiên đàng yếm sí thiên ha nhần mằn cói
Diện thiên há nhần mằn trộng dáu phụ kihi
Tría mấy nhị nhần duồn trói hù lù tú muội
Tồô hoang tsắt sấy bào hàng thiên há tá kiến
Mú có nhần mằn trếnh bòi vuầy huân phấy
Họp phù tsi trí tsắt sạp nhị sếng biáu dẩu
Di sân biàng mằn pạ sếng duồi san kăng trống
Dấu bòi cao của mụa cít miền kan nhầm
Xăng bụ sạp káp dí pẹng mạn liều bìm
Trếnh bòi phú dí tại đằn trú trông
Hiáng húa biền trao sam miện sểng voàng
Sếng voàng tsắt sáy trí bạp kiềm bắn sểng
Điện xăng há lụ màn lụ ný nàm trí đào căn
Ní trí bềnh pán tráp xa voàng soo co dào lả
Boòng trí co bào sam trí hiố trao voàng trí mụa
Ngũ bo trí hoa đồng voàng trí diền túa voàng
Trí húa lù pan trí ố khống chú trí mầy
San họ đòong tộ xi siắng kháo quoán trế
Trí lạp trao phú huân muồn quoán há nhần
Mằn pạ sểng trí dáu ngũ cú san nồng
Voàng tái tri tsắt ngũ cú mí bìang tsố
Tsắt cù hoa mí tráo ngũ cú bồng chiang còong
Trông dáu tráo bềnh trông huấn sếng sàn
Mềnh biền tại sếng lềng đòi bềnh on
Dậu lòi cáo của mềnh trìu tại voàng tsắt sáy
Phán pại thiên há nhân mằn cói trìu diện
Cúa buần voáng sếng trí tsay dáu ngũ ghì
Pêng mà duồi hồ guếu săng sếng voàng
Chói bọ kiềm băn điện siăng
San tsên tsắt pá lụ sạp sì xuấy kap dí
Hàng hiang duồn muồn liệu lụ nàm dềng
Lủ sếng lủ ní phan dềng lủ sểng phan dềng
Sạp nhị sếng bìau dấu dì sân phân dềng
Siến yêm nàm ní phan dềng kiông yêm
Nàm ní phan dềng trí yêm nàm ní phan
Dềng cóo yên nàm ní phan dềng ngũ yên lụ
Chún tại sếng bềng voàng trí dáu của
San póong trọong sạp nhị sếng triang tô mà
Dày kiúa dấn sạp nhị miến bao pá sạp
Nhị sếng biàu dấu dì sân sềnh tểnh vuồi
Nú kháu san vuầy lệ kháu sổng vuồi an
Sếng voàng quây điện trí dáu biền trao sam
Miệu sếng voàng pụa coong tại voàng ngũ ghì
Pếng má dấu bòi cao của hông ú niên can
Phán pại thiên há nhần mằn cói diện quân
Voàng sát trìu pại trế sap nhị sếng bìau
Dịch nghĩa:
Hoàng ân cảm tạ đại thân phụ mẫu
Ngày xưa, dân tộc Dao còn sinh sống tại bên kia bờ biển.
Họ tộc người Dao cũng thờ phụ mẫu
Thờ thần linh và những vị thánh cao thượng đế
Để phù hộ cho gia đình thịnh vượng
Có sức khỏe dồi dào, hòa thuận, hạnh phúc
Cho con cháu biết kính trên nhường dưới
Biết thể hiện đạo lý làm người
Người Dao vẫn canh tác nương rẫy
Cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên
Cuộc sống cứ thế trở thành truyền kiếp
Kéo dài từ năm này qua năm khác
Kéo dài từ đời này qua đời khác
Đến hai năm là năm Dần, Mão
Không may bị hạn hán mấy năm liền
Đến nỗi lá chuối bốc thành lửa
Cây cối ra khói, ra than tro hết
Con người không còn lương thực để ăn
Sông suối không còn nước cho con người uống
Khe suối cạn kiệt không còn nước
Con cá không còn nơi sinh sống
Mười hai họ của người Dao lòng đầy âu lo
Lo lắng cho sự sinh tồn của dân tộc mình
Họ bèn họp nhau lại cùng bàn
Nhằm nghĩ ra cách cứu sống dân tộc mình
Họ đồng tâm liều mình một phen
Nhất quyết vượt biển tìm kế sinh nhai
Mười hai họ cùng nhau chuẩn bị
Chuẩn bị một con thuyền rất to
Sắp xếp hành lý cùng lên thuyền
Lương thực còn sót lại mang theo
Đồ thờ phụng khá cũng đầy đủ
Thế rồi cùng nhau vượt biển
Vượt sóng muôn trùng đẩy ra khơi
Đi được tròn bảy ngày bảy đêm
Lênh đênh trên biển vô bờ bến
Bỗng đánh rơi một bát nhang to
Để thắp hương thờ Phật phù hộ
Bát hương đã rơi xuống biển sâu
Thế là phạm ý trời ý Phật
Trời bỗng nổi cơn thịnh nộ
Bốc sóng lên cao vút tầng mây
Sấm chớp cùng dông tố dữ dội
Mười hai họ chưa từng thấy bao giờ
Mười hai họ Dao trong thuyền kinh hoàng, sợ hãi
Tới lúc này mọi người mới nghĩ ra
Do đánh rơi bát nhanh thờ Phật
Bảo bối thờ Phật muôn đời nay
Nên thần Phật không còn linh thiêng nữa
Mới xảy ra họa lớn thế này
Mười hai họ cùng họp nhau lại
Cùng ngồi trong thuyền cầu khấn Phật tiên
Mong các vị thánh thần linh phù hộ
Cho chúng con qua được cơn sóng này
Được sóng yên gió lặng muôn trùng
Chúng con vượt biển được an toàn
Sang cập được bến bờ bên kia
Chúng con xin hứa sẽ tạ ơn
Mỗi họ bằng hai con lợn to
Bằng nhiều hũ rượu thơm gạo mới
Bằng gạo nếp thơm nhiều cân
Bằng bánh trái hoa quả dâng lên
Trai trẻ, gái trẻ dâng lễ vật
Có mời ba thầy để mời thần linh
Mời phụ mẫu đến từng gia đình
Đến từng họ nhận lễ tạ ơn
Đó là lòng thành của chúng con
Sau khi cầu khấn được như vậy
Các vị thần thánh rất linh thiêng
Trời tự nhiên sóng yên gió lặng
Trời quang, mây tạnh sáng bừng lên
Đoàn người vào được bờ an toàn
Từ đó, mười hai họ tộc người Dao
Không bao giờ vong ân bạc nghĩa
Đời đời, kiếp kiếp xin được trả ân
Hoàn ân trả nghĩa với phụ mẫu linh thiêng
Cứ như vậy thành lệ lưu truyền
Mỗi đời người tạ ơn một lần
"Cú dung" cũng là một đoạn ca thể hiện sự đền đáp công ơn đối với các bậc thần thánh của tộc người. Đoạn ca vừa thể hiện lịch sử tộc người, vừa thể hiện truyền thống tín ngưỡng, tôn giáo vừa mang tính giáo dục sâu sắc:
U CÚ DUNG
(TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN)
Dấu dì sân thuối há kiềm bằn sêng điện
Pan hí trìu trao phú bọ tsiang huấn nàm
San pát phang san dào duồi san kăng
Trống dấu lòi cao của diền mào nhị niền
Thiên trí tại hàn sam miền sí sí xuống quaon
Tsoong mú mái pạ sếng mù biàng nhần
Mằn bào luộn mủ ký nọi hò triu ụp
Tsắt húa ké mụa tsắt diên coong hò
Mụ xuối siềm đòng mù nhì bềnh điền mụ
Xuối sạp nhị sếng biàu dấu dì sần niền
Niên kê ngỏ mủ líang tham hếch mủ kế
Nọi hò trếch bòi phiáo dào của hói dất
Tsiên tsắt pá hói lí sam có nhụt đào
Dàng san nàm pú sếng nụng nàn tồô sạp
Nhị căn hìang lù bao há ngũ hói bồng
Muồn sếng voàng ú nú trói san trếnh lòi
Hác óm duồn trông t sắt ýa duồn hàng siếu
Mủ tố ngản mà háng siếu mủ tố hiang
San lú pạ thông xuối lú pạ hòi dấu bói
Tá kiến quay treeng tại phông dả tố tại
Ý dả bói thếch vuần hói đáy bồng muốn
Sếng híang dậu phá tại phông tại ý
Tsuối bọ ngũ hói bồng muốn có nhần
San hoang dàu ýa kêng hoang kháu thiên
Mủ bệ kháu sêng mủ an si lìang
Sí tróc muồn lụ mú nhần vuầy cô vuầy tại
Trì nhần trộng dáu trụ trông hiang húa
Dia tí ngũ ghì pêng mà diền bói sết phẩy hồ
Bói guếu săng guêu tá sam miên mủ con tri
Tsố guếu tá sí nhất mú mẹng trì nhần trếnh
Lòi duồn trói duồn trông li nuối kầu huấn
Trụ trông hiang húa ngũ ghì pềng má nàm
Họng puốn trú cà siên vuầng đào
Du oán miến hí siáng san an liàng nhụn sọ
Pú nhần têng mí kêng sam trao dất tsắt
Duồn hàng tố ngản mà hàng tố hiang
Duồn đào phiu siáng quoang tông đó tsiáo trao
Phú bọ tsiang huấn nàm phang sàn đào lạp hí
Bồng ghi ố trá duồi san kăng trống ngũ cú
Phộng voàng tại sộc tsắt nhụt sạp nguc chông
Chì nhất sạp nhị sểng biàu dấu dì san
Trếnh bói voàn an tạp trỉa tại san phú mú
San an biáng nhụn duồi muốn ý biệu
Dất tọi của biểu nhj tọi sềnh trông nhị
Của biếu sam tọi sềnh trông tsiệp trú
Tếnh tái hiàng diều dì sâu kiáo đồng mạn
Tọi y trông tsiệp chú y cú tái lạy phú dí
Yềm phú tềng kàn dất niên sí ký siêu dìn
Siếu vụi dất niên si cý sam ngà sí tráy
Tsuối trắn ngàn tsiền của biếu dất niên si cý
Vuồi bòi sọ pú nhần tềng sọ pú nhần hảo
Sọ pú ngòa dìn kúa há dáng muột chi dòi
Cay dòi ca ly quoàn bù thóng dán ngoáy
Bý pạ háo thóong hoi dất đồng cà trí tsiền
Ý bói duôn trói mú niên mú nhuột mú nhất
Ý bói tsắt san hí siáng hò siáng vèng trị
Yùi si liáng nhụn siáng đằn tsếng tsắt hí
Nhủn tồng trí há đằn tsếng tsắt pá nhủn
Puần quân hi siáng pù si trói ơn dất
Hí nhị poong pù si liàng nhủn pạ tuẩn
Hò niên pạ tuấn hò nhụt nhuẩn tuẩn sạp
Niên tá siáng nhị sạp niên ta há dáu
San hi nhủn dáu san phổng voàn pù si
Hoòng hoòng áp trói tua đồng lì nuối soo
Doòng tú hóa ngàn tsiền pụa bày sao
Bênh sao nọp tsếng phúa có nhân tsắt sáy
Hoàn kuông vuầy phộng dất soong
Dậu trụ kiáng mú nhất poong liáng piên troó dảu nhủn đầu dòi
Dịch nghĩa:
TRẢ LỄ VƯỢT BIỂN
Bản cổ sơ khai phân thiên địa
Chế lập năm họ chế loài cây
Chế sơn đầu nhân dân được ở
Chế lập cung điện thánh nhân an
Chế được thánh điện chế ngũ cốc
Chế được ngũ cốc dưỡng nhân dân
Ngũ cốc xuất thế phân lương huyện
Xuất tại phân lương phân quốc triều
Khai thiên lập địa ngũ âm họ
Chế được nhân gian vô vàn người
Kinh dịch nguyên niên phát hồng thủy
Gò bở nước dâng đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm không ánh nắng
Nước ngập đến trời khó mà lường
Hồng thủy ngập trời biến bại dạng
Thiên hạ không người chuyền cổ ngôn
Chỉ còn hai anh em còn tồn tại
Hồ lô trôi nổi đến cửa trời
Bảy ngày bảy đêm hồng thủy ngập
Anh em hai người đi khắp nơi
Đi khắp các nơi không có ai
Còn lại anh em hai người thôi
Đi đến ba suối khe thật dốc
Gặp được con rùa ở trên đường
Anh em hai người mở miệng hỏi
Con rùa xuất khẩu không còn ai
Tay cầm gậy sắt lại đi tiếp
Đúng là thiên hạ chẳng còn ai
Đi khắp các nơi không ai cả
Lại ghép con rùa mai thành liền
Liễn biên thắp hương khói liên kết
Đành phải lấy nhau nối tông đường
Đẻ ra con người không gì dưỡng
Ngũ cốc đại vương anh mới thương
Thần nông hoàng đế chế ngũ cốc
Lưu danh thiên hạ dưỡng nhân dân
Ngũ cốc chính thức là bảo ngọc
Cứu được mọi người sống ấm no
Chuột chúa sang biển tha giống lúa
Con rồng phun nước tưới lúa xanh
Thanh minh cốc vũ cho mưa xuống
Được thấy cây lúa xanh tốt tươi
Thần lúa thổ địa quan ngũ cốc
Hoa tiến tiển nàng quản lúa cây
Lúa hoa chị em chuyên chăm sóc
Ngũ cốc đại vương cho lúa kho
Lúa tẻ đến dùng làm cơm bữa
Lúa nếp để dùng làm rượu thơm
Ngũ cốc đúng ba đường nhân ngọc
Trăm họ nhân dân cũng phải cầu
Thứ nhất cung kính các vị vua
Thứ hai là để cứu dân cư
Cao Vương ở trời chế thiên địa
Bình vương ở đất chế suối sông
Chế được sông suối vô vàn khúc
Lại chế đại thuyền mặt nước đi
Thiên tư hạ giáng thiên ban điện
Lưu tam chế được vạn bài ca
Long cung truyền phép chém quỷ kiếm
Đàn tiền cầu phép diệt trừ yêu
Kèn cũng khẽ thổi trống khẽ đánh
Kinh phí chín bậc không bước nhầm
Thiên thượng nhất tinh du thiên quá
Nghìn dòng sông suối chảy về đông
Giữ yên gia đình toàn lương nguyện
Kế tài vượng quá đại thiên nga
Người thầy đương thiên chiêu hòa đến
Hòa ông hòa mẫu nhập hòa kho
Bên cạnh câu truyện cổ được phổ biến rộng rãi như trên, trong "Páo dung", đồng bào còn rất nhiều thể loại khác nhau. Có cả những truyện thơ sao chép từ Trung Quốc như "Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài" nhưng nó thể hiện tâm tư, tình cảm của cộng đồng, được ghi chép cẩn thận và lưu truyền rất rộng rãi:
ÈNG TÒI CẤU GHÌN DUNG
(LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI)
Pham pé nìn cô hắng chìn khiếu
Èng tòi chói hố thó sâu ngìn
Khấu tháu họ tòng tộ sâu hỏng
Chiệp puân quyênhấy tộ sâu ngìn
Nhị nhân giòi chuộng chiệp họ quyện
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Phía dẳng nhị nhân chuổng péng pắt
Tòi thiên tộ sâu chuộng nhất pin
Nhị nhân chói lọ tòng lấy
Tộ sâu phía dẳng tú tam nin
Tộ chiến kinh sâu trin pé puấn
Èng tòi phấy pháng diếm cha vìn
Nhất tài phây chụ lòng día chía
Nhị mộc dàu día mẩu xong lìn
Chai tàu mái tú gằng dầu chấy
Èng tòi phía suất mạn sầu ngìn
Chệ pệ phìn sanh lòng quây khấu
Nhị nhân thau siếu sluất muồn chìn
Thau siếu nhệ miền pịn nàn sía
Làng tam phang púng kía chai pin
Phúng tráu lậu tàu dặm sía líu
Nhị thiên thau siếu tún kiêm ngìn
Èng tòi búa kiếu làng pham dé
Nin hô sin mạn tháu cha vìn
Phúng tháu lầu tàu có chấy khấu
Nhị nhân sau siếu có cha vìn
Pham pé kiệu quôi họ tòng lấy
Èng tòi quây duốn chậy muồn chìn
Día lấy dìa nhàng phiêm quyên hấy
Tú kín èng tòi tháu mịn chìn
Sin thiên ây xam kháng tút líu
Chuộng có nhâu nhân nin kía nin
Tam tứ quê tháu họ tòng lấy
Phiêm tuông dàu día dẫu khoi ngìn
Khấu pịn tộ sâu phiêm pị pháng
Pliêm tuông dã ói duấn cha vìn
Tam tứ phây làng phiêm phây duốn
Sâu phang siêu khí thuất mần chìn
Quê tháu èng tòi nhuần chìn chói
Huống chìn khói khấu muộn pao ngìn
Èng tòi thính chụ làng tam tứ
Nhân sin chong có thính chai pin
Tam tứ tháu siêu dặm phang chía
Èng tòi thau siếu thính khoi ngìn
Tòi thiên tộ sâu pin tử mui
Tam tứ phiêm tuoonng dặm siến ngìn
Dặn siến khoi phang tiệp sâu tói
Làng tam thính siến mui chiên ngìn
Tòi thiên nhị nhân tòi sâu dặng
Làng tam thính siến mụi chiên ngìn
Pin muộn hái chiêu hái quyện khé
Diền hò tài tháu ố vìn pin
Pịn chấy chuộng chiêu làng tam tứ
Èng tòi tú chuộng chói tam nin
Èng tòi búa chiêm mụi dìa chía
Dìa chía thính nhàng suất diết sing
Nhị nhân chuộng chói họ tòng lấy
Chuộng hèng chuộng chuội sâu pìn
Tam tứ thục sinh sính chiên mụi
Nhị nhân thính híu mụi chiên ngìn
Dìa nhàng thính chụ dìa chía vủa
Cha tưng siu khí phộng chà chìn
Èng tòi thó chà tam tứ diếm
Họp pùm tò chịa thó tòi pìn
Dặm siến pòng chìn tam tứ khiếu
Èng tòi phang pháng suất mần chìn
Èng tòi pín búa làng tam tứ
Búa lòng pháy thính mụi kiêm ngìn
Dàng sấy lậu tàu mạn tú lìn
Èng tói búa chiên làng tam tứ
Quôi cha ý día quá phiêm pìn
Chói dụa kiêm phây chính lìn khấu
Dặm pây mạn púi chía tàng nin
Làng tam phiem tuông tồ dàu día
Khấu tuông gom luổi lạ lìn lìn
Dìa día tủ kín làng tam tứ
Dìa nhàng tú kín luổi lìn lìn lo
Cha lấy dìa nhàng muộn tam tứ
Tuông vẩy hái día dàu phiêm pin
Dầu hò lọ líu mịn khé khiếu
Vuẩy hò dàu día hái pin pin ngìn
Chói lọ họ tòng vuẩy hái chảy
Vuẩy hái diền dầu dàu día pin
Tam tứ thính chụ dìa chía vủa
Khấu dẻ khoi ngìn luổi dả lìn
Piên tuoonng tồ dàu dẳm vuẩy hái
Dìa chía mịn chìn thính pháy ngìn
Chuộng chói cha tuông khiếu họ quyện
Vuẩy chụ èng tòi tháu lẩu pin
Nhị nhân lẩu ngũ phang tún tỉnh
Khống chú tộ sâu chuộng nhất pin
Sín puống nhị nhân chuộng pá sin
Dất lấy chuộng hèng día chuộng ngìn
Tộ sâu tam min dẳm phang chía
Duối nhất thính pấy chiên quá ngìn
Dìa nhàng thính híu dàu phiểm líu
Dặm tú èng tòi tháu siếu lìn
Dìa nhàng thính chụ tam tứ chủa
Ý dụa tồ dàu hái dặng ngìn
Hố nhất dìa nhàng khiếu phang muận
Hố nhất mài tin chổng tú lìn
Tam từ dìa nhàng hắng khấu muộn
Pin muổn àng tòi dìa chía ngìn
Èng tòi dìa chía vủa khò phí
Tăm tứ mẩu dùn khùng quá ngìn
Léng líu mái cha thình chà phiến
Tam tứ mạu dùn khùng hẳn sin
Tam tứ ói lìn dẳm điểu vủa
Dùn thín mái chạ tỉnh líu chìn
Mai chạ diếu mộc tú lìn khiếu
Khò phí hàng mùi khung hặm pin
Tam tứ mài chìn pết sấu muổn
Dẳm hẳn èng tòi dặm tú lìn
Èng tòi thính chụ hèng mùi pin
Búa riếu hèng mùi thính mụi ngìn
Quây cha búa kiếu làng tam tứ
Ý hẳn èng tòi quá tậu ngìn
Diếu tài tam mộc tú lìn mùi
Dìa chía sẩy kiêm leng nữ chìn
Nhị nhân chụ mẩu tài puẩn
Liều gia chiền phiêm hố sấy lìn
Bèng mùi thính chụ èng tòi vả
Khấu tuông vậy vả pin nàn lìn
Hanh mình búa chiếu dặm tú púi
Diếu tài than siếu suất muần chìn
Èng tòi mài ngìn dặm khú vả
Sin ngũ ấy xam thút dết pin
Ây xam phía chàng siền siếu phiến
Chúy búa hàng thôi quây duấn vìn
Quê cha pin pá tam tứ tộ
Pháy khoi tộ khán mủi tam ngìn
Mái cha dàng thủ tú lín khiếu
Nhị nhân diêm thôi mạn mộc lìn
Tam tứ kín sâu thán siếu lây
Dẳm pây diêm sấy siếu cha vìn
Pin pá ầy xam tham cếnh phấy
Chà tuông dàu día dẳm pây thiên
Dìa nhàng tú kín tam tứ phẩy
Chiệp puân khò phí dẩu khò liền
Lòng chía phiêm phây liều dẳm duẩn
Động dỳ tô cháy tủm con xin
Khấu chính phin sanh tài tạp tậy
Cháng chói tồm chiêu tại lẩu pin
Cháng trói tồm chiêu tại lẩu phấu
Pin pá èng tòi hặm siếu lin
Èng tòi hàng chá tại lậu kía
Tú kín làng tam châu cháng in
Hèng kía mỉn chìn khoi chía kiếu
Tam tứ mài dình khoi chấu lìn
Tứ lình tứ sín phân mú khai
Ử lìn ư sín má kha thai
Ỷ pín tân kho pài lồng huấy
Ỷ pín cao quan siếu páo thài
Tam tứ mài lình pịn khoi chấu
Díp tú èng tòi tháu siếu lìn
Tồng tho nhị nhân vả kín
Khiếu nhân tự mộc pịn tú lìn
Tam tứ tú lìn èng tòi khiếu
Pêu giạ mái cha chói sấy min
Nhị nhân oeens chằng in dang tử
Buôi ngũ thiên tông dòi tú lin
Mã cha piên tú nhàng chin chúa
Thập hẳn èng tòi dăm thôi lìn
Pịa chây èng tòi làng tam tứ
Buôi ngũ thiên tòng hắng họp chìn
Mái cha dẳm siến đam thiu vết
Pến tòi in dang buôi ngũ thiên
Seng chấy nhị nhân chuổng pếnh pắt
Phấy chấy nhị nhân chuổng họp chìn
Siếu thôi diêm phây thính tú púi
Chố chấy cấu ngìn chùn thôi min
Tam tứ thôi cúi tú lìn khiếu
Nhị nhân dau siêu ngũ chinh thiên
Buôi kía mái cha muồn chìn nhịa
Mái cha tư kín luổi lìn lìn
Dịch nghĩa:
LƯƠNG SƠN BÁ - CHÚC ANH ĐÀI
Sơn Bá niên cao hướng tiến khổ
Anh Đài đi sau tiền học đường
Đi đến học đường đọc thư viện
Cảm thấy vui vẻ được đến trường
Người cùng trường học chung một lớp
Ngày thì chung đọc ngủ cùng giường
Viết chữ hai người chung chiếc bút
Cùng bàn đọc sách cùng một trang
Hai người cùng học ở trường đấy
Đọc sách viết chữ được ba năm
Dùi mài kinh thư trăm nghìn quyển
Anh Đài suy nghĩ muốn về nhà
Thứ nhất nhớ mẹ hai nhớ bố
Lại lo sau này không có duyên
Đoạn đầu mua được quang dầu đấy
Anh Đài viết ra ý rất nhiều
Tạm biệt tiên sinh còn phải về
Hai người chào chúc cùng chia tay
Hai người chia tay khó mà được
Sơn Bá tiễn đưa một đoạn đường
Tiễn đến đầu đường nói khó hết
Bắt tay hứa hẹn rất rất nhiều
Anh Đài khẽ bảo Lương Sơn Bá
Sau này Sơn Bá phải đến nhà
Tiễn đến đầu đường chia hai ngả
Hai người tay vẫy cùng chào nhau
Sơn Bá quay lại về trường học
Anh Đài về đến bố mẹ nhà
Bố mẹ Anh Đài rất mừng vui
Được thấy con mình đã tới nhà
Thay hết nam nhi bộ trang phục
Trang phục con gái thật là xinh
Sơn bá về đến nơi trường học
Tâm tư buồn chán khó học bài
Buổi sáng buồn không muốn rửa mặt
Trong lòng buồn chán muốn về nhà
Miệng thì đọc sách tâm suy nghĩ
Tại sao mình cứ muốn về nhà
Sơn Bá tâm tư càng nhung nhớ
Thu xếp sách vở rồi lên đường
Về đến gia đình Anh Đài thấy
Trước mặt Anh Đài hỏi mấy lời
Anh Đài nghe chuyện Sơn Bá nói
Hai người khẽ bước chân ra ngoài
Sơn Bá giơ dơ tay xin phét hỏi
Anh Đài giơ tay xin trả lời
Cùng trường đọc tính là muội
Sơn Bá trong lòng chưa dám tin
Nếu như không tin cho xem sách
Sơn Bá thấy thế thì đúng rồi
Đối chữ trên bài giống nhau hết
Lương Sơn mới biết muội là em
Cho hỏi ở đâu khách xa lạ
Vì sao lại đến trước cửa nhà
Anh Đài bảo thật mẹ của muội
Bố mẹ của nàng hỏi nàng một câu
Chắc rằng đây là Lương Sơn Bá
Anh Đài cùng ở cùng học ba năm
Chúng cháu học cùng ở trường đấy
Cùng đi cùng ngủ sách cùng trang
Bây giờ Sơn Bá mới thấy muội
Hai người mới biết muội chân tình
Mẹ nàng nghĩ thấy chuyện của bố
Gia đình đun nước pha ấm trà
Anh Đài mời trà Lương Sơn Bá
Trà khay đặt xuống để ở bàn
Cảm tạ trà thơm chàng được uống
Anh Đài tiễn đưa Sơn Bá về
Anh Đài bảo cậu Lương Sơn Bá
Bảo chàng hãy nghe muội nói vài lời
Trần gian vô duyên không lấy được
Hai người về âm sẽ thành duyên
Anh Đài bảo thật Lương Sơn Bá
Về nhà chàng đừng quá buồn sầu
Chắc chắn về âm có duyên phận
Âm duyên mãi mãi sẽ không già
Lương Sơn tâm tư buồn đau khổ
Giọt lệ lúc nào cũng trào tuôn
Bố mẹ Sơn Bá nhìn chàng khóc
Mẹ mà nhìn thấy nhỏ lệ tuôn
Bố mẹ gia đình hỏi Sơn Bá
Vì sao lại thấy con buồn sầu
Vì sao nét mặt luôn đổi sắc
Buồn sầu như vậy là vì sao?
Đi học ở trường có gì vậy?
Vì sao nguyên nhân vì cái gì?
Sơn Bá nghe thấy bố mẹ hỏi
Miệng cũng trả lời lệ cũng tuôn
Trong tâm buồn sầu con suy nghĩ
Vì con đã mất Trúc Anh Đài
Đã cùng Anh Đài một trường học
Mẹ thầy bảo Sơn Bá không lo
Chúng con hai người đã hẹn ước
Khổng Tử đọc sách chung một trang
Quạt mát hai người chung một quạt
Cùng học ba năm cũng sống ba năm
Bây giờ mới biết thấy xuyến xao
Mới biết Anh Đài là con gái
Không được cùng nàng thành vợ con
Bố mẹ nghe thấy Sơn Bá kể
Không phải nghĩ về chuyện này
Vài hôm bố sẽ đi dạm hỏi
Sẽ cưới Anh Đài thành vợ con
Bố mẹ Anh Đài nói rất tiếc
Nhưng vì đã có Mã Văn Tài
Sơn Bá đến sau không còn phận
Đành để chỗ khác hỏi nàng xuân
Anh Đài nghe thấy thật tội nghiệp
Rất thương Sơn Bá đáng tủi thân
Sơn Bá có lòng không đến sớm
Bây giờ đến muộn rất là buồn
Bố mẹ Anh Đài đã nhận lễ
Sơn Bá vô duyên bị đến sau
Văn Tài sơn đến được duyên phận
Bỏ lại Sơn Bá sống đơn côi
Sơn Bá có tiền hỏi phương khác
Đừng trách Anh Đài không nhận hôn
Anh Đài nghe chuyện người làm mối
Gửi lời bà mối về đến nhà
Về nhà bảo cậu Lương Sơn Bá
Đừng mà nhớ quá Trúc Anh Đài
Sớm đến ba hôm chàng sẽ được
Nhận lễ Văn Tài rồi khó thoát
Ngậm đắng nuốt cay đành chịu thua
Hai người trần không lấy được nhau
Để lại trân tâm âm thế liền
Anh Đài có lời nói không hết
Xé áo thân thể viết thành thơ
Viết thành ý thơ gửi bà mối
Gửi dặn bà mối mang đến nhà
Đến nhà đưa cho Sơn Bá đọc
Sẽ mở ra đọc ý của nàng
Văn Tài dương thế được lấy muội
Nhị nhân âm thế sẽ thành duyên
Sơn Bá đọc thơ rồi suy nghĩ
Chắc gì âm thế đã thành duyên
Chàng đọc thơ nàng khóc muốn chết
Cả nhà buồn bã không hiểu sao
Mẹ chàng nhìn thấy con mình chết
Thế bà vừa tiếc lại vừa buồn
Bố chàng suy nghĩ không thiết sống
Như dao cắt ruột rất là thương
Đi đón tiên sinh để xem địa
Táng tại đại châu đại lộ biên
Táng tại đại châu đại bộ phủ
Còn để Anh Đài đến đấy biết
Anh Đài xuất đi đến đấy
Được thấy ngôi mộ thật đau thương
Đi đến trước mộ rồi khẽ gọi
Đón được Anh Đài đến kết duyên
Hữu binh hữu thiêng khai phần mộ
Không binh không thiêng vợ Văn Tài
Nhật điểm tân kho bầy long vị
Nhất cao quan hưởng ngọc đài
Sơn Bá hữu binh khai phần mộ
Đón được người tình đến tận tay
Trần gian hai người đã hẹn ước
Bây giờ về âm ta cùng duyên
Sơn Bá được chung Anh Đài nữ
Thừa bại Văn Tài ở thế gian
Văn tài đón được nàng chân váy
Không được Anh Đài đến tận tay
Thành đôi uyên ương Anh Đài Lương Sơn Bá
Bay tận trên trời háo thành tiên
Sống ở trên trời chung chiếc bút
Thành tiên hai người giống hộp tiền
Văn tài tức giận vác thuổng đao
Liền đôi uyên ương bay lên trời
Trong rất nhiều nội dung của "Páo dung", phần phản ánh thực tế lịch sử xã hội tộc người luôn chiếm vị trí quan trọng. Trong cái muôn màu của thực tế đó, có một nội dung luôn được đề cập đó là thân phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ, họ lên án cái khổ, cái lễ giáo phong kiến, khát khao tự do. "Nhị nhàng dung" (Khúc hát người làm dâu) là một trong số rất nhiều tác phẩm như thế:
NHỊ NHÀNG DUNG
(KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU)
Diên chói tấu tuông nhân tài muộn
Lọ dịa pham chiu nhân tinh chùa
Nhất canh tịnh híu chằng long ngó
Dia chía sấy kên lánh híu chùn
Chiệp nhất chiệp nhị nhân tài muộn
Chiệp tam chiệp tứ chính mủi chiển
Chiệp pham chiệp phấy chắng lụa ngó
Chiệp hứu chiệp của cháu miền ca
Chiệp chua nhị chiệp chằng tháu tạy
Pùa tàu đam đám siếu khên chày
Tai cha vuột co say chía kiếm
Tai phấy vuội co say piếm phiệm
Siếu nhun dâng cán siếu lìm ố
Dây cám pụa dằng dổ pụa dằng
Nhất canh tại chén ô vìn lầy
Nhị canh tại chói ô vìm pin
Tam canh thác mãi giả hò cắp
Tứ canh giả cắp mản liều chang
Hứng canh pụa vìm cắp chiếu tsói
Thinh găng trong pệm tại pé diếm
Tại pé sam pùng dân nhụn nhì
Thình gắng chong pệm phiu pế diếm
Dầu sấu sách nhàng lầy sách chấy
Thin gắng chang pện pam pé diêm
Pam pé chíp tài bêu ghịa lầy
Chây phiu phang in dịa lầy chíp
Chíp tài tò duấn pá mụ chầy
Tài nhất co câu chuộng lầy sồ
Tài nhị co câu bình ên phiêm
Tài tam co câu dên hai phấu
Tài tứ co câu diên phâu phiêm
Tài ngũ co câu dùn nhà ấy
Mâu dang man day siếu câu quê
Dặm chấy chiu muốn día lấy tắng
Tài pé vùi tài giả mà quê
Nhị nhấn dịa má pái pham pái
Pái thém nhụt chìa nhàng dằm quê
Chong tàu mái tói kiêm khoa chậu
Kiêu pá lụa lòng tịnh hố tsong
Tình tú hớ t sang hắng nhằng dắng
Phộng trìu cong súi tố liệu phay
Cong súi tố mình dắm tổ duần
Ké mụa biên sành nhàng dằm cuôi
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGƯỜI LÀM DÂU
Còn ở trong bụng người đến hỏi
Lọt lòng ba hôm người định trà
Canh một người đã định hôn lễ
Bố mẹ lúc ấy nhận đủ tiền
Mười một mười hai người ăn hỏi
Mười ba mười bốn mới thành niên
Mười lăm mười sáu nhận hẹn ước
Mười bảy mười tám đến nhà chồng
Mười chín hai mươi sống cực khổ
Tay cầm chiếc chổi quét rác nhà
Trong nhà rác rưởi quét rất nhiều
Quét nhà xong hết lại quét sân
Canh một trong nhà phải giã gạo
Canh hai giã gạo ở ngoài hè
Canh ba vo gạo ở ngoài suối
Canh bốn bên trõ bắc nồi xôi
Canh năm vào vườn hái rau rượu
Đến khi trời sáng chín nồi canh
Trời sáng sắp cơm xong mời bác
Bác cả lấy mâm ném xuống vườn
Em thím nhanh tay đến đỡ lấy
Không để xóm làng nghe tiếng kêu
Sắp mâm thứ hai cho bác hai
Bác hai lại chê nước canh đục
Lại bị bác hai mắng chửi nhiều
Bà cô thứ nhất chê cơm sống
Bà cô thứ hai chê gạo đen
Bà cô thứ ba chê nàng chậm
Bà cô thứ tư chê nàng lười
Bà cô thứ năm được nàng ý
Dù hay dù dở chờ anh về
Em có trong hòm mấy bộ áo
Giao cho bà thứ năm dùng
Đầu giường có đôi vàng ta dũa
Để cho anh chàng hỏi vợ hai
Hỏi được vợ hai như nàng ý
Mấy dòng suối chảy về nguồn
Dòng nước chảy đi quay lại được
Lúc đấy thì nàng mới trở về
Một nội dung rất quan trọng và chiếm nhiều bài ca trong "Páo dung" của người Dao là những khúc hát giao duyên, hát tâm tình, hát trai gái tìm hiểu nhau, hát mừng hạnh phúc lứa đôi trong các đám cưới. Dưới đây là một số bài hát tiêu biểu:
Bài 1: THÁN MIẾN TÒNG DUNG
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Piền câu khói thin tsấy liệp tậy
Chấy dòi thin đía mạn dằng phiêu
Liêu pham dậu chấy diềm dùn puận
Năm tai tòng ka nhấu ká phiêu
Nặm nhân nìm tong chiệp pết chiếm dàu dùn
Kiềm min hênh mình muộn quế dặng
Ý khếnh sầu tuông dặm khá nhầu
Chảng dẳm khá dìa dìa dặm khá chía
Nằm tsống nhấu nhụn khú dùn phiêu
Năm kha lọ dàng min khắng pịa
Sềnh tếnh hồng dìa thái chấu lầu
Nhân khoa lọ dàng mịn nhằng nhịa
Mệnh ka đàu dùn cuổi sấy phiêu
Dăm chấy hái miền tài phang áp
Diềm dùn tháu phú cắp chàng song
Ông cuốn liềm pham hành chìn thác
Bì bện chíp tsiên quê duấn tòng
Phàn lụi mùi nhân phúng tsiên thác
Phúng to kiêm khoa thán miến tòng
Mùi miền tsinh súi cắp huân hí
Cháng tsay pến tói phú dùm phiêu
Pú phú ìm dang chàng tsay tói
Chía hồ đàm dùn chậy nhất tòng
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Tổ Bàn Vương khai thiên lập địa
Thành thiên hạ trời đất con người
Cuộc sống sung sướng có ăn có ở
Sinh sôi nảy nở được hạnh phúc
Trai mười tám thì phải lấy vợ
Gái mười tám thì phải lấy chồng
Đặt trầu cau dạm ngõ ăn hỏi
Kế xem sách có hợp nhau không
Bố mẹ hai bên cùng hòa hợp
Lấy nhau mới nên vợ nên chồng
Trai sinh ra thờ cúng tổ tiên
Luôn hướng mặt về phía nhà mình
Gái sinh ra mặt hướng ra cửa
Đi lấy chồng thành con người ta
Không ép hai người phải lấy nhau
Đến duyên phận phải thành vợ chồng
Nhà trai làm bữa cơm tại nhà gái
Rồi đón dâu về làm lễ kết hôn
Thầy mờ lễ chúc vợ chồng trăm năm hạnh phúc
Làm phép cảm ơn nhà gái đã đưa dâu về đến nhà trai
Chúc hai vợ chồng hạnh phúc nên đôi
Mãi mãi chỉ chung một đường đi
Bài 2: TSUI DUOÁN
(HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI)
Tsui tsắng kho toòng thin hồng phú
Vuồi huân kít cúa tú quyên dầu
In dang kít phúi chiằng lộng phộng
Gọi khoa kít cháy hịn kiều kiều
Dắt soong hín cháy soong soong hin
Tồông phiêm tồông ấy tsay cha kiều
Mài mại trọn chùn dã dồng hậy
Mạn dặng tsin dằng trắn miến phầu
Pụa triền kếnh síng tếnh cha dạy
Hồ nhất triền tsui mạn dặng phâu
Tríp tsiên kho toòng soong quyên hấy
Vuồi mộng tría to tsá yền dầu
Dậu día tím khóe dẳm tsing tsố
Tsá á líu nghìn vuồn dẳm tói tầu
Trộng kháu choáng tsiên dòi tsăn ấy
Siam siệu púng tàng ý súy âu
Dịch nghĩa:
HÁT MỪNG ĐÁM CƯỚI
Được chàng chung sống thật là vui
Được chàng chung sống thật hạnh phúc
Cũng bõ công nàng cầu thần khấn phật
Cũng bõ công nàng bấy lâu nay
Cầu được quý chàng thật như ý
Đưa nàng cùng chung hưởng vinh hoa
Hai bên giao duyên cùng hẹn ước
Hẹn thề giao ước nguyện thành đôi
Ta thề ta sẽ không chuyển hướng
Đời đời chung sống mãi bên nhau
Buồn sầu hoạn nạn cùng nhau chịu
Vui sướng bên nhau cũng đủ đầy
Sinh con nhiều cháu bề gia thất
Không nỡ lòng nào để phôi phai
CHIÊN HIANG DUNG
(HÁT GIAO DUYÊN)
Pháy khán tồng thin trầy mấy ngạn
Thài dàng so chíu kiắng chiên hiang
Páy píu phiêm tuông khiắng phây bặm
Nàn nỏi lình chiền tsấy phú phang
Muồng hín phiêm tuông chúa phây hặn
Trị día kìng phin khùng hoắng tan
Kình luồng phún siếu lìn trừng puận
Tú phiêu phúi mấy dẳm dàu hoang
Thính trụ quấy phin kiềm ngin nhấu
Tóng thin tsấy phú trịn hoàng than
Mộng phim trún tịng kiêm ngin vỏa
Mộng hắng coong hò súi pậu tàng
Trịn píu mộng phiêu chuộng bày vuội
Chuộng có hiàng bầu pụa ón hiang
Hùng mấu bò quân chuộng piến diến
Dàng kế chuộng đồng diễn chuộng phang
Dịch nghĩa:
HÁT GIAO DUYÊN
Thần không phù hộ nàng tự nguyện
Tự có nhiều nàng nguyện kết duyên
Không chê nàng xấu cùng vun đắp
Đừng như trăng tỏ trăng lại mờ
Miễn làm sao chàng không đổi ý
Nàng đây giữ lấy tấm lòng son
Được trời phù hộ chung duyên phận
Sung sướng vui vẻ biết bao nhiêu
Nàng tự giữ nguyên như đông hải
Trường lưu mãi mãi sẽ không phai
Được thần phù hộ chung vị trí
Không muốn cách ly một hướng nào
Chỉ sợ người tình không giữ ý
Để nàng đợi mãi trở thành không
Lừa nàng lang thang buồn biết mấy
Không được cùng chàng xây đắp chung
DÙNG CHẬU MÀI CON, CHÌNH MÀI LẬU
(CÂY ĐA CÓ GỐC, TÌNH CÓ LỐI)
Chìu chiu chin mụi phiêm phẩy thảu
Mậy híu mìu phiêm phảng hải pin
Dùng chậu mài con, chình mài lậu
Thúi xuất mài nhuần cắp khói liều
Ên dùn mây goi chỏi phiêu khí
Ỷ phiên piển lậu bêu lọ pin
Tấu lây phỏng phây nàn thảu chiếm
Quả hoi phiêm tuang nin quyả nin
Tú thin xẩy dịa hòng ên phú
Diệm vắng phin ên mui chiếm tú puồng liều
Dịch nghĩa:
CÂY ĐA CÓ GỐC, TÌNH CÓ LỐI
Ngày ngày lòng em nhớ đến anh
Chảng biết lòng anh nhớ phương nào
Cây đa có gốc tình có lối
Nước hợp dòng chảy về biển khơi
Số phận không mở tự mình mở
Đừng có sử đến giữa chừng thôi
Không thể không đến bởi lòng quá nhớ
Chẳng lẽ để trong lòng năm qua năm
Được trời ban xuống hồng ơn phúc
Không uổng nghĩa tình anh đã gặp em
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Liều phàm ca ngìn liều trìng chậu
Kiếm xúi thân tàu liễu quấy dang
Liều tú quấy giang trậu hiang hoong
Mộng hắng thái dâm biến thái dàng
Liệp líu phiềm kê liều trìng trậu
Liều trìng mậy trậu trịn hoàng hiang
Trình hiền dâm trậu phúng trình kiếu
Mán mạn thìu tsia quây duán hiang
Bậu tàu tsing tsing duán hòng vọong
Pị táu tsiết phinh dia chíu dang
Búa trìng liều ên quá phiên thán
Ý bêu kiêm trậu tún lầy hoang
Hái nhất cồng pau hiêu siếu bấy
Thìa tsia tài vụi thán duyên bàng
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIỮ KHÁCH
Lời cổ anh hỏi em
Giữ em ở lại chơi vui với anh
Muốn giữ anh ở lại với gia đình
Mong được tình cảm đẹp như vầng thái dương
Giữ mãi anh cũng không thể được rồi
Anh phải về mọi thứ đã chuẩn bị rồi
Anh từ từ đi cho an toàn may mắn
Anh cảm ơn gia đình có lời mời tốt
Anh biết chỉ để trong lòng
Nhưng anh không thể ở lại được
Không phải do anh không ở lại được
Mà lần sau gặp lại không chấp nhận anh
Sau gặp lại em tình vẫn như cũ
Khi nào có được thời gian quý
Mời em sang gia đình anh chơi
Tạm biệt em anh phải về rồi
Bài ca lao động là một nội dung không thể thiếu của "Páo dung", người ta có thể ca khi đang làm trên nương, cũng có thể ca khi đang trên đường lên nương hoặc ca khi cảm thấy mệt ngồi nghỉ dưới gốc cây, bên lán nương, ... Hình thức thường là hát đối đáp, nói chuyện giữa hai bên. Nội dung xoay quanh hỏi đáp chuyện làm nương của mỗi gia đình như lúa có tốt không, có bị sâu bệnh không, năm nay có được mùa không, được bao nhiêu?, ...
MUỘN KIẾM
(ĐI NƯƠNG)
Liều pham tsêu vần sấy muộn kiếm
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín dang
Muộn kiếm phiếu tsun tría hín trậu
Khoi tài pín búa pháy mìu tan
Người đáp ca:
Liều pham ca ngìn chùn búa kiếm
Búa kiếm phiếu tsun pham hín tan
Búa kiếm phiếu tsun tan hín píu
Phay khoi trùn búa quổi king dang
Người hỏi ca tiếp:
Liều pham ca ngìn trói phang muộn
Muộn kiếm siêu vùa tú tría tsin
Muộn kiếm siêu vùa tú tría pé
Pháy píu mộng phin pín búa lìn
Người đáp ca:
Quối píu mậy liền mìu pín búa
Pháy phíu vùa mìu mậu tría tsin
Triên ngìn vùa búa tú tría triệp
Ý tú goi mầy tàn xíu lìm
Dịch nghĩa:
ĐI NƯƠNG
Cổ xưa hỏi người đang lao động
Hỏi thăm bên ấy có mấy người
Hỏi người bên đấy cho xin biết
Khai ngôn biến báo tiểu nhân đơn
Người đáp lời ca:
Cổ nhân chuyền báo cho cùng biết
Bên này lao động có ba người
Báo chàng lao động ba người đấy
Khai ngôn biến báo quý anh chàng
Người hỏi tiếp gặt lúa được bao nhiêu
Cổ xưa có câu lại hỏi tiếp:
Hỏi rằng gặt hái được bao nhiêu
Hôm nay gặt lúa được mấy chục
Khẽ bảo cho anh được biết cùng
Người đáp tiếp bài hai:
Quý chàng không chê nàng xin đáp
Lúa nàng bị kém chẳng được là bao
Chân tình bảo chàng chẳng mấy chục
Xin chàng được biết đừng có cười.
Lời hát mừng nhà mới là những lời ca vui tươi, đằm thắm nhằm chúc mừng cho gia đình nhà chủ đã cố gắng, giỏi giang, biết làm ăn phát triển kinh tế. Nội dung lời hát cũng chúc tụng cho gia đình, họ hàng, làng bản mọi người đều mạnh khỏe, yên vui và làm ăn phát đạt:
Bài 1: NHÓM BỆP CẤY PÁ DUNG TOÒNG
(NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG)
Dất chá tồng pung thái dàng hịn
Nhị chá nàm hò xiêm xúi than
Pham chá phàm pung quyên dâm tậu
Phây pung nhầm quấy xúi vui voan
Pịa sên tróm túa kìng tồng tậy
Gyịa xúi nghìu chìm kíng tống nhan
Pịa hiang tróo síu kìng bố
Kìng tồng bồ nhần phiêm lấy hoang
Liều pham tsều vuần sấy dụa kiếm
Bêu tín gyạ hò sấy dụa nhần
Dụa tú bầy nhầu tài khí tíu
Sấy dụa ìn dang tầu mậy tầu
Dịch nghĩa :
NHÓM BẾP MỜI PÁ DUNG
Một gép phương đông thái dương hiện
Nhị gép nam hà thâm thủy thâm
Tam ghép tam phương quoan am đẩu
Tứ phương nhâm quý thủy chào lưu
Vào gò trém cây kinh động địa
Xuống nước bơi đò kinh động giang
Vào làng tán tỉnh kinh động báo
Kinh động người đã ngủ không yên
Lưu tam sao văn thử mời gọi
Nhử được con cá cắn đến câu
Thấy được cá cắn câu mới dám gọi
Không thì lại sợ không dám mời
Bài 2: VUẦY PHÚ TÍU NHI DUNG
(HÁT VÀO NHÀ MỚI)
Cá chông hiang húa chì trống sềng
Ký mềnh tồng trí chống sì côông
Dán phú mi tráo duồn muồn biểu
Phàn pêng phàn triáng có quây tông
Kiêm buần thó tsắt sòng puôi tráo
Tại cha p sống phú hú ca trông
Sông quôi phụ lụ trí ca côông
Nòm nhần sạp pát phống quân trế
Ní nhần sáp t pát sái kiềm đòng
Sống phú tráo sống phú chiàng
Sống quây phụ lụ chi ca miàng
Diáng chi muốn làn cú muôn khủ
Kiềm ngàn tròi pạ muốn lòng phang
Siếu yềm yếm siếu yềm yếm
Nàm nhần đắp phó thiêm quản chế
Ný nhần đắp phó sống dàng kiêm
Siếu òi ói siếu òi òi
Tsắt trai pát nạn duồi thiên hí
Kiềm ngàn dòi pạ sí phang bói
Dịch nghĩa:
HÁT VÀO NHÀ MỚI
Gia đình tổ tông cũng phù hộ
Các thầy song việc hồi phúc về
Đình đám gia đình đã bế mạc
Phân binh phân tướng trở về hương
Khay vàng giót ra đôi chén rượu
Để hồi phúc lộc về gia đình
Hồi phúc hồi lộc về gia chủ
Hồng phúc hồng lộc đầy gia đình
Nam nhân mười tám được quan trức
Nữ nhân mười tám đẹp như tiên
Rượu này hồi lộc cho bà chủ
Hồi cho phúc lộc gia chủ nàng
Chăn nuôi lợn gà đầy chuồng trại
Ngũ cốc lúa gạo ắp đầy kho
Sức khỏe dồi đao được thịnh vượng
Tiền tài vàng bạc sếp đầy hòm
Nam nhân xông nhà thăng quan trức
Nữ nhân xông nhà cho bạc vàng
Ốm đau thay cho đã mạnh khỏe
Tiền tài vàng bạc tứ phương về
CẤY HỐP TIU
(MỜI UỐNG RƯỢU)
Cà chí côống cà chí côống
Dật nhất si liàng san pạ thồng
Tsếng tá siếu xi tố đằn voàn nhụt liểu
Dật niên sí ký tá xồng dồng
Cà chí miáng cà chí miàng
Dật nhất si liàng san li hoang
Kiên nhất tsếng tá siếu si tố đằn voàn nhụt liếu
Dật niên sí kí tá phồng quoang
Dịch nghĩa:
MỜI UỐNG RƯỢU
Gia chủ ông gia chủ ông
Một ngày bận rộn rất nhiều việc
Suy nghĩ chưa thông suốt cái gì
Hôm nay mời được các thầy tới
Hoàn ơn song hết cầu chúc may
Một năm bốn quý được dồi dào
Gia chủ bà ơi gia chủ bà
Một năm bốn quý được đàng hoàng
Bài hát giáo huấn trong "Páo dung" không nhiều như những nội dung khác nhưng được lưu truyền rộng rãi từ đời này sang đời khác, nội dung cô đọng, xúc tích, mang tính giáo dục cao:
BUA TRỤ HÍU TÍA MẢ GIÁO
(BÀI HÁT GIÁO HUẤN)
Vuậy nhần ói trụ ý hộ nhần luộn bán
Trụ trấu kèng tsum trụ hộ chiền
Puồng trụ ó nhần ý tú tsáu
Día ý mài nhất tụ tìn pùi
Kín nhần tìn tậy ý deng máo
Phụ quấy yồng vòa dẩm tú tàng
Mai công mài tá nhần thán khú
Pun mềnh phun phá tú nin tàng
Nụn nhần ý síu nhần líu bồ líu
Puồng tsui khoa bọ ýa siêm tòng
Kiêm nhất dẩm pây mềnh nhất dạy
Mậy chiằng nhụt tríu tsíng tài pây
Sấy nhần tụ híu dằng kia pẹ
Ý tú pàm lùng dậu pàm đau
Ý tú phì deng cíu tía mả
Ý tú hoắng nhần loòng toọng than
Ý tú sết seng mạn hoòng dặng
Ý tú phàng thao trấu hỏi nhần
Ý tú thàm khoa thàm tầu nhần cha của
Ý tú khyú pế hỏi nhần triên
Ý quoẳng cuồng nhần căn phú quấy
Ý tú día phẩy máo mặng tàng
Ý tú píng chiến nhần giáo búa
Hỏi trụ quần cằn hỏi cằn
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT GIÁO HUẤN
Vì người không ai được ở không
Phải cầy phải cấy phải đi làm
Gặp người nhũng nhiễu chớ dòm ngó
Chẳng may tới lại phải đền
Thấy ruộng đất của người chớ tranh chấp
Phú quý vinh hoa chẳng vững bền
Trẻ con chớ cười người tóc bạc
Hoa rơi đầu vực bị gió đêm
Hôm nay chưa biết việc ngày mai
Giờ ngọ nắng tới mới biết khổ
Đời người phải biết trắng đen
Không phạm trên trời không phạm đất
Không cãi lời lẽ với mẹ cha
Không được lừa gạt với bạn bè
Không được sát sinh các thú vật
Không được lấy trộm của mọi người
Không được tham tài và tham sắc
Không được tức giận xúc phạm người
Không được tham giầu quên nghèo khổ
Không được ham sống sợ chết
Không được quên đi lời dạy bảo
Luôn ghi luôn nhớ để trong lòng
GIÀNG IN PÁ DUNG
(BÀI HÁT THUỐC PHIỆN)
Chiếp pát dỉa tòi số cấu vả
Trùn diều thin đía chuống chìu vìn
Diất nhiều chùn sinh mạn nhiền híu
Giàng in lán chái pại chà ting
Mài sanh pàng chuồng tu nàn khĩ
Tũ kín chía to ngàn luội lìn
Giàng in dùn tài pến cú quái
Diất nhiều khĩ chụ mạn nhiền lìn
Xuân nhiền khĩ in pến pùng diẩu
Õ nhiền khĩ chụ kít nhiền vịn
Phàm canh piến día tá sanh chế
Thao nhiền péng khuya diậm pầy thin
Chấu chả diậm luấn siên sễ ố
Diệm tsòng tũ pếu chuội choòng ngàn
Diậm pháng sai nhầy khòa chây phíu
Chấu chả chì nhiền nhụn mìn chìn
Mài chìn mái nhụa dòi cha khĩ
To phíu píu tài tũ tiêm thoong
Ý mải giàng in chậy càn thĩ
Chụ siệu sài nhầy nam nhiều doọng
Mài phâu toóng háng mậu phâu giang
Váng đam mình giạng siêu khùng song
Giàng in chẽ chìn mậu sa sấu
Mài chẽ diậm hoàn nhiếm quyá choong
Dịch nghĩa:
BÀI HÁT THUỐC PHIỆN
Cầm bút đặt bàn kể chuyện cổ
Truyền bảo thiên hạ khắp mọi nhà
Một người truyền tiếng vạn người biết
Thuốc phiện lười làm hại gia đình
Có chồng nghiện gia đình làm ăn khó
Được thấy nhiều người chảy nước mắt
Thuốc phiện nguyên lai rất kỳ lạ
Một người hút phải vạn người theo
Người thuận tình hút nên anh em
Kẻ ác hút phải đi ăn trộm
Nửa đêm canh ba bàn mưu kế
Bất lương đốt lửa chẳng biêt trời
Ăn trộm chẳng biết tình anh em
Trộm xong no bụng lên giường ngủ
Chẳng đoái hoài con thơ vợ dại
Mà chỉ biết điều trước mắt
Có tiền mua thịt cả nhà ăn
Ít nhiều cho nhau được giọt canh
Đừng mua thuốc phiện một mình hút
Vợ con nữ nam đều căm ghét
Có chồng coi như không chồng
Gánh nặng mang tiếng chịu ở không
Vay nợ bao nhiêu vì thuốc phiện
Nợ vay không trả nước mắt ròng
Hát ru (Háo ton dung) là những lời ca mượt mà, êm ái nhằm kích thích cho trẻ mau đắm mình trong giấc ngủ. Trong các điệu hát ru, nội dung thường được các bà mẹ sáng tác nhằm giáo dục cho con cái về đạo lý làm người; về tình yêu thương quê hương, hướng cho con ý chí phấn đấu về sau:
HÁT BẮU NGÀ PÍ DÒM
(HÁT RU CON NGỦ)
Ôí àn an ngà bế ói dàm cằn pí chiến mà ôi dòm
Te ma trấu công trấu mắn nhặn
Ngà xê ói cằn pi chiến dòm, dòm cáu ố ồ ôi
Ngà dả tài híu hắm te ma trấu công khấu
Ngà trụ cằn quay pi chiến ý dà ôi dàn ôi
An án túng tsún ma te oi ối àn an
Ngà xê bế ói dòm chiến nà ôi dòm ôi án
Ối í a, mây dỏm hô lìn dòng
Chẳm châu lí lút theng tăng đi
Miéo tẳn tung noòng txeng tẳng veng
Nả là quăng quăng slải thìn gầy
Mạy đẳm ơn lò khẳn gẩy cổ
Bản dịch:
HÁT RU CON NGỦ
Hát ru là những lời trầm bổng
Thướt tha mượt mà êm ái nhằm kích thích
Cho bé ngủ đắm mình giấc ngủ dịu hiền
Và có cả lời ca thương yêu dạy dỗ cho
Trẻ sau này biết làm người hiếu thảo
Cha mẹ biết lễ phép ra vào
Ối í a, ngủ ngon, ngủ ngoan đi
Con cóc kêu ở gầm chạn bát
Mèo con khều thức ăn trên chạn
Mặt trăng còn khuyết ở trên trời
Ta nằm nhìn thấy trăng ở xa
Gần đây, là những sáng tác mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ, ca ngợi đất nước, quê hương đổi mới được sáng tác rất nhiều. Những bài hát này thường không được ghi lại mà chỉ truyền miệng, hát cho nhau nghe, học nhau để hát. Nội dung của những bài hát này rất phong phú, dưới đây là một số bài hát tiêu biểu cho những sáng tác mới này:
HÁ GẮNG CẮNG BÉ
(ĐÊM TRĂNG NHỚ BÁC)
Dằn tằn tú kín kênh xiên cấu
Cành xiên día cấu dá vần hang
Nhớ dạng Bác Hồ mềnh phiêm chái
Sín giọ dùn mậu hịn thái dáng
Tú kín xiết phinh báy vậy chái
Tú kín nhụt mềnh chúi miện hang
Tú kín sín sên mậu dùn óm
Tẩy tuông òn lọ khú guồn láng
Thin chẳng xiết phing gắng dầu lặng
Hang lây dáng ba tăng điện quang
Pháng chịu chìn hoi dìu miền sấy
Chổng choi sến liềm lình cúa hoang
Liện kê sấy chẹ sên liềm đía
Lậu tằn lậu muội kháu càn nám
Sấy kiêm lải lậu thông hành cấu
Mình hây mái mại dạ phầy làng
Phiếu tham phiếu dấm mài miền búa
Mai húa mai miền thắm quế hang
Ngó kênh sằng ba mái pậu xiết
Kè cóng đùng đuôi gái xuất hang
Đại Sơn làm giầu từ cây quế
Thâm canh cây lúa pú mềnh hang
Mài đặng pé hồ phòng biến sấy
Lải ca guần hấy dẩm phây lang
Pháng chụ chín hoi phìn khấu sấy
Kiêm sấy nhụt mềnh chui miền hang
Dằn tằn tú cành xiêm cấu
Cành xiêm día cấu thính vần hang
Dịch nghĩa:
ĐÊM TRĂNG NHỚ BÁC
Đêm trăng nhìn trời thêm nhớ Bác
Đêm thanh trăng sáng tỏa ngàn hương
Nhớ Đảng, Bác Hồ minh tâm chí
Xua tan sương gió hiện thái dương
Được thấy thất tinh bảy vị chói
Được thấy nguyệt minh rọi khắp làng
Được thấy thanh sơn vô vàn sáng
Bạn chốn an lạc hảo hoan lương
Bầu trời trăng thanh sao sáng loáng
Thôn bạn lập là đèn điện quang
Nghĩ đến tiền sự người Dao ta
Trú tại Lâm Sơn hoang dã nhà
Du canh dựng nhà nơi xa vắng
Đường đi lối lại lắm gian nan
Ngày nay đại lộ thông hành khứ
Du chợ bán buôn được thanh nhàn
Khai xuân khởi sự hữu nhân giáo
Mua bán có khách đến tận nơi
Trường kỳ kháng chiến ắt thành công
Gà trống đung đưa vọng khắp bồng
Đại Sơn làm giàu từ cây quế
Thâm canh cây lúa chính nuôi thân
Có Đảng, Bác Hồ luôn sống mãi
Đại gia hoan hỉ bất tơ vương
Nhớ đến ngày xưa cực khổ lắm
Kim tuế nguyệt minh chiếu sáng ngời
Đêm thanh nhìn trời cao ngan ngát
Lặng nghe rừng hát vọng vang xa
DÌU MIỀN YÊN BÁI
Dìu miền Yên Bái chúa puẩn pé
Hấu pẹ xan tang tá pán nhiền
Hải phín dìu miền có trẩy vả
Khé giảng chuông tài chỉa khính dồng
Dào dìu pun tài pua pĩe phính
Tát pán pun tài trấu có hô
Tá pán rì nhiền trong trú xí
Tào pá xiền ôi chiáng phiếu khoa
Hồng pú xai xin triàng puồng cáo
Vín vỉu khán tài năng nhụt khoa
Xan tang chán chối hấu tráu hệp
Pẹ phín phái phơi thíp nhiêu khoa
Hấu pẹ kít huân trú hấu pẹ
Lui tom pẹ pủ phiếu lìn khoa
Phúng thiêu tháo hiang thờ pịa cha
Chán trấu phiêu tài trú lui đáo
Máo náng diàng tào triêu khú khan
Trang trú vuần khoa náng mô típ
Hàng dì hoa tháo mòng di nhiền
Màu nhiên liỏng ôi thìàng xì diến
Lui nóng thầu còng láo xa ló
Tuổi tào chê mài phỏng liến
Liến cao liến ai chính hón chê
Buổn lào buổn thinh chòn chẩy báo
Tá bòn bèo đao bệ bèo dào
Phên thí cành thuôm ním nhìn nhình
Phẩy bổn xí nhìn nhiến buổn tìm
Phuất chẩu phênh liền chiệp bết phùi
Quá tăng sành dịp chính dìu miền
Nhào nhìm phái sôn thí sơn nhất
Phấy lọ nhiên nhìn phẩy nhiềm chê
Phiên dịch:
NGƯỜI DAO YÊN BÁI
Người Dao Yên Bái chín phần trăm
Người Động, Xá, Muồn cùng là Dao
Người Dao có tiếng nói riêng
Chữ nho chữ hán giống người Hmông
Người Dao gồm có ba bốn nhóm
Đỏ, Chẹt, Trắng, Tuyển cũng là Dao
Dao Đỏ phụ nữ trang phục đỏ
Đầu đội khăn thêu yếm cũng thêu
Áo thêu quần thụng thắt lưng đỏ
Tua nhiều bông đỏ như nhiệt hồng
Dao Chẹt phụ nữ ống quần hẹp
Bó sát vào chân và rất hẹp
Dao trắng tân hôn mặc quần trắng
Yếm tà áo trắng thêu nhiều hoa
Đưa dâu đến làng phải hát xin
Xin vào hát bản xin vào nhà
Dao Tuyển thì mặc áo dài
Mũ nhỏ bằng gỗ nhìn rất hay
Trang trí hoa vải nhiều màu sắc
Cỏ cây động vật với hình người
Đàn ông gồm có hai thứ áo
Địa bàn cư trú phải thuận tiện
Giáp ranh vùng thấp với vùng cao
Dao Tuyển, Chẹt nhà nửa sàn nửa đất
Dao Đỏ nhà đất, Trắng nhà sàn
Hình thái sinh sống nông nghiệp chính
Lúa ruộng thì ít nương thì nhiều
Bản sắc sinh trưởng mười tám tuổi
Cấp sắc lên đèn mới là Dao
Người Dao khi sống ăn sinh nhật
Chết xuống âm phủ mới mát lòng
KẾT LUẬN:
"Páo dung" là hát nói chung nên nội dung của nó vô cùng phong phú, đó là những vần thơ dân gian được ghép với các tiết tấu, các giai điệu và sử dụng như những tác phẩm âm nhạc.
"Páo dung" phản ánh nhiều mặt của đời sống sinh hoạt xã hội của cộng đồng, thể hiện lịch sử xã hội truyền thống của tộc người, có sức tố cáo xã hội gay gắt, bênh vực người yếu, ca ngợi lao động sản xuất, ca ngợi tình yêu lứa đôi.
"Páo dung" được lưu truyền lâu đời trong cộng đồng, có ý nghĩa trao truyền, giáo dục các thế hệ tộc người, ôn lại quá trình lịch sử tộc người, đề cao đạo lý, tình yêu con người, yêu thiên nhiên, cỏ cây hoa lá.
"Páo dung" thể hiện nghệ thuật dân ca, ngôn ngữ của tộc người. Nghệ thuật chuyển tải hiện thực đời sống xã hội vào thơ ca vô cùng đặc sắc, thể hiện trình độ văn học, ý nghĩa khái quát cao của tộc người.
Với vai trò và ý nghĩa như vậy, "Páo dung" xứng đáng được nghiên cứu và bảo tồn nhằm phát huy giá trị của nó trong cộng đồng cũng như tới các tộc người khác và bạn bè quốc tế.
BAN BIÊN TẬP CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ