CTTĐT- Hàng năm, cứ đến đầu tháng 12 Âm lịch trở đi, khi mùa màng đã thu hoạch xong, mỗi gia đình người Dao lại tổ chức ăn Tết “năm cùng”, để báo công với ông bà tổ tiên thành quả của một năm lao động của gia đình.
Mâm cỗ cúng năm cùng của người Dao.
Theo phong tục của người Dao có 3 cái Tết quan trọng là tết Thanh minh, rằm tháng Bảy và Tết năm cùng nhưng cũng giống như người Kinh và nhiều dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam dịp lễ Tết quan trọng nhất trong năm của người Dao vẫn là “Tết năm cùng”. Tết năm cùng là dịp người Dao báo cáo với ông bà tổ tiên về một năm học tập, lao động của gia đình, dòng họ. Là dịp để con cháu đi làm ăn xa trở về báo hiếu với gia đình và dòng họ.
Từ đầu tháng 9 Âm lịch, trưởng họ đã phải chuẩn bị gạo nếp ngon, nuôi lợn, nuôi gà để cuối năm khao cả họ. Nếu năm nào họ hàng và bạn bè đến đông thì Tết được xem là đầm ấm và đông vui.
Ngay từ đầu tháng 12 Âm lịch, tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình để tổ chức một cái Tết thật linh đình. Vào dịp này anh em họ hàng tập trung nhau lại để góp cỗ làm Tết cho thật to, nhà ai có gì góp nấy. Tất cả họ hàng nội ngoại trong gia đình người trưởng họ đều có mặt đông đủ, lợn đã thịt sẵn, chỉ chờ các cụ cao tuổi có chức sắc đến làm lễ cúng báo cáo ông bà tổ tiên.
Bánh dầy được làm từ gạo nếp đồ thành xôi chín rồi đổ vào cối đá cho 4-5 thanh niên cùng nhau giã.
Nét đặc biệt nhất của Tết năm cùng là làm bánh dầy, đây là truyền thống lâu đời của người Dao. Bánh dầy được làm từ gạo nếp đồ thành xôi chín rồi đổ vào cối đá cho 4-5 thanh niên cùng nhau giã. Những người giã bánh giầy là những thanh niên khỏe mạnh nhất làng, nhiệt tình nhất. Không khí của những buổi giã bánh giầy vô cùng náo nhiệt, trai gái, người già người trẻ đứng vòng quanh những địa điểm giã bánh giầy, họ reo vang cổ vũ những thanh niên đang hăng say, nhiệt tình bên cối bánh giầy. Họ giã đến khi nào những hạt cơm nếp nhuyễn ra tạo thành một khối dẻo dứt không ra mới thôi. Sau đó bột được nặn thành từng cái bánh một để chấm với muối vừng ăn. Để bánh ngon hơn, dẻo hơn thì trước đó chủ nhà phải chọn gạo nếp thật ngon, ngâm từ đêm hôm trước đến hôm sau mới mang ra đồ, có như vậy thì bánh mới để được lâu. Mẻ bánh đầu tiên tất cả mọi người không ai được nếm hay thử vì đây là mẻ bánh dành để cúng ông bà tổ tiên, từ mẻ bánh thứ hai trở đi mọi người mới được ăn, các cụ cao tuổi là người được thử trước.
Đối với người Dao thì nghi lễ báo công phải mời các thầy cúng có chức sắc trong làng đến tham gia làm lễ, họ là những người có mặt sớm nhất để lo cho buổi lễ khỏi thiếu sót. Người Dao không quan trọng vật lễ, gia đình có gì thì cúng cái đó. Tuỳ vào điều kiện kinh tế từng gia đình, nhà ai có điều kiện làm càng to càng tốt nhưng đầu lợn và gà trống, bánh dầy là những thứ không thể thiếu. Sau khi tất cả những lễ vật được bày trước bàn thờ gia tiên, thầy cúng có chức sắc nhất đứng trước bàn thờ cầm “Gậy thần” (chiếc gậy có một đầu nhọn bịt bằng sắt, đầu kia tiện hoa văn rất đẹp, luôn đặt ở vị trị trang trọng nhất của bàn thờ) và một cành lá tươi. Đại diện cho gia chủ báo cáo quá trình một năm lao động và xin gia tiên phù hộ cho một năm mới đạt được nhiều thành tựu hơn. Sau đó cành lá được thầy cúng cắm ra trước cửa, lần lượt các thầy cúng khác kế tiếp nhau vào làm lễ, cứ như vậy sau 2 tiếng đồng hồ thì lễ vật được mang xuống dọn ra mâm cho con cháu cùng ăn. Tất cả mọi đồ ăn đều phải đựng trong lá chuối. Trong lễ cúng tổ tiên, người Dao không dùng hương để đốt mà dùng một thứ vỏ cây mỏng rất thơm mua về bỏ vào một cái chén nhỏ. Mỗi lần đốt một cái vỏ cây lại phải dùng một viên than hồng để đốt cùng, cho đến khi nào cái chén đầy than và vỏ hương mới thôi.
Sau khi cúng xong cỗ được dọn ra giữa nhà. Thầy cúng và các vị chức sắc trong làng được bố trí ngồi cao nhất và được phép ăn trước, sau đó lần lượt đến khách mời của bố mẹ, con cái và anh em nội ngoại. Trong mâm cơm Tết năm cùng này, thứ nước luộc từ thịt lợn là ngon nhất mà bất kỳ một khách mời nào đến cho dù có khó tính mấy cũng không thể chê được. Nước chấm cũng làm từ nước luộc thịt nhưng lại cho hành sống làm gia vị vì quan điểm trong mâm cỗ có gì thì chế biến từ thứ đó ra để dùng, vừa lành lại vừa ngon. Trước khi dùng bữa, mọi người cùng nâng chén, trưởng họ phải đi một vòng mời rượu để báo cáo với bà con họ hàng về bữa cơm Tết năm cùng này để mọi người cùng phấn đấu hơn trong năm sau.
Hơi thở của mùa xuân mới đang tràn ngập khắp các bản làng nơi đồng bào người Dao sinh sống. Một năm mới đã bắt đầu chúc cho tất cả bà con nơi đây đón một năm mới hạnh phúc, ấm no hơn và quan trọng nhất là những nét đẹp văn hoá mang đầy bản sắc dân tộc của người Dao được gìn giữ và bảo tồn.
2933 lượt xem
Thanh Thủy
Cổng thông tin điện tử tỉnh- Hàng năm, cứ đến đầu tháng 12 Âm lịch trở đi, khi mùa màng đã thu hoạch xong, mỗi gia đình người Dao lại tổ chức ăn Tết “năm cùng”, để báo công với ông bà tổ tiên thành quả của một năm lao động của gia đình.
Theo phong tục của người Dao có 3 cái Tết quan trọng là tết Thanh minh, rằm tháng Bảy và Tết năm cùng nhưng cũng giống như người Kinh và nhiều dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam dịp lễ Tết quan trọng nhất trong năm của người Dao vẫn là “Tết năm cùng”. Tết năm cùng là dịp người Dao báo cáo với ông bà tổ tiên về một năm học tập, lao động của gia đình, dòng họ. Là dịp để con cháu đi làm ăn xa trở về báo hiếu với gia đình và dòng họ.
Từ đầu tháng 9 Âm lịch, trưởng họ đã phải chuẩn bị gạo nếp ngon, nuôi lợn, nuôi gà để cuối năm khao cả họ. Nếu năm nào họ hàng và bạn bè đến đông thì Tết được xem là đầm ấm và đông vui.
Ngay từ đầu tháng 12 Âm lịch, tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình để tổ chức một cái Tết thật linh đình. Vào dịp này anh em họ hàng tập trung nhau lại để góp cỗ làm Tết cho thật to, nhà ai có gì góp nấy. Tất cả họ hàng nội ngoại trong gia đình người trưởng họ đều có mặt đông đủ, lợn đã thịt sẵn, chỉ chờ các cụ cao tuổi có chức sắc đến làm lễ cúng báo cáo ông bà tổ tiên.
Bánh dầy được làm từ gạo nếp đồ thành xôi chín rồi đổ vào cối đá cho 4-5 thanh niên cùng nhau giã.
Nét đặc biệt nhất của Tết năm cùng là làm bánh dầy, đây là truyền thống lâu đời của người Dao. Bánh dầy được làm từ gạo nếp đồ thành xôi chín rồi đổ vào cối đá cho 4-5 thanh niên cùng nhau giã. Những người giã bánh giầy là những thanh niên khỏe mạnh nhất làng, nhiệt tình nhất. Không khí của những buổi giã bánh giầy vô cùng náo nhiệt, trai gái, người già người trẻ đứng vòng quanh những địa điểm giã bánh giầy, họ reo vang cổ vũ những thanh niên đang hăng say, nhiệt tình bên cối bánh giầy. Họ giã đến khi nào những hạt cơm nếp nhuyễn ra tạo thành một khối dẻo dứt không ra mới thôi. Sau đó bột được nặn thành từng cái bánh một để chấm với muối vừng ăn. Để bánh ngon hơn, dẻo hơn thì trước đó chủ nhà phải chọn gạo nếp thật ngon, ngâm từ đêm hôm trước đến hôm sau mới mang ra đồ, có như vậy thì bánh mới để được lâu. Mẻ bánh đầu tiên tất cả mọi người không ai được nếm hay thử vì đây là mẻ bánh dành để cúng ông bà tổ tiên, từ mẻ bánh thứ hai trở đi mọi người mới được ăn, các cụ cao tuổi là người được thử trước.
Đối với người Dao thì nghi lễ báo công phải mời các thầy cúng có chức sắc trong làng đến tham gia làm lễ, họ là những người có mặt sớm nhất để lo cho buổi lễ khỏi thiếu sót. Người Dao không quan trọng vật lễ, gia đình có gì thì cúng cái đó. Tuỳ vào điều kiện kinh tế từng gia đình, nhà ai có điều kiện làm càng to càng tốt nhưng đầu lợn và gà trống, bánh dầy là những thứ không thể thiếu. Sau khi tất cả những lễ vật được bày trước bàn thờ gia tiên, thầy cúng có chức sắc nhất đứng trước bàn thờ cầm “Gậy thần” (chiếc gậy có một đầu nhọn bịt bằng sắt, đầu kia tiện hoa văn rất đẹp, luôn đặt ở vị trị trang trọng nhất của bàn thờ) và một cành lá tươi. Đại diện cho gia chủ báo cáo quá trình một năm lao động và xin gia tiên phù hộ cho một năm mới đạt được nhiều thành tựu hơn. Sau đó cành lá được thầy cúng cắm ra trước cửa, lần lượt các thầy cúng khác kế tiếp nhau vào làm lễ, cứ như vậy sau 2 tiếng đồng hồ thì lễ vật được mang xuống dọn ra mâm cho con cháu cùng ăn. Tất cả mọi đồ ăn đều phải đựng trong lá chuối. Trong lễ cúng tổ tiên, người Dao không dùng hương để đốt mà dùng một thứ vỏ cây mỏng rất thơm mua về bỏ vào một cái chén nhỏ. Mỗi lần đốt một cái vỏ cây lại phải dùng một viên than hồng để đốt cùng, cho đến khi nào cái chén đầy than và vỏ hương mới thôi.
Sau khi cúng xong cỗ được dọn ra giữa nhà. Thầy cúng và các vị chức sắc trong làng được bố trí ngồi cao nhất và được phép ăn trước, sau đó lần lượt đến khách mời của bố mẹ, con cái và anh em nội ngoại. Trong mâm cơm Tết năm cùng này, thứ nước luộc từ thịt lợn là ngon nhất mà bất kỳ một khách mời nào đến cho dù có khó tính mấy cũng không thể chê được. Nước chấm cũng làm từ nước luộc thịt nhưng lại cho hành sống làm gia vị vì quan điểm trong mâm cỗ có gì thì chế biến từ thứ đó ra để dùng, vừa lành lại vừa ngon. Trước khi dùng bữa, mọi người cùng nâng chén, trưởng họ phải đi một vòng mời rượu để báo cáo với bà con họ hàng về bữa cơm Tết năm cùng này để mọi người cùng phấn đấu hơn trong năm sau.
Hơi thở của mùa xuân mới đang tràn ngập khắp các bản làng nơi đồng bào người Dao sinh sống. Một năm mới đã bắt đầu chúc cho tất cả bà con nơi đây đón một năm mới hạnh phúc, ấm no hơn và quan trọng nhất là những nét đẹp văn hoá mang đầy bản sắc dân tộc của người Dao được gìn giữ và bảo tồn.