Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Tin hoạt động

Người Văn Yên làm giàu từ nuôi cá tầm nước lạnh

10/06/2025 14:53:00 Xem cỡ chữ Google
CTTĐT - Giúp đồng bào Mông từng bước thay đổi tư duy, cách nghĩ, cách làm, biến những tiềm năng lợi thế do thiên nhiên ban tặng để phát triển kinh tế, đẩy lùi cái đói, cái nghèo vươn lên làm giàu. Đó là việc mà ông Giàng A Châu, dân tộc Mông, ở vùng cao Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái đã làm được với mô hình nuôi cá nước lạnh, cho thu hàng tỷ đồng mỗi năm.

Nhiều nơi ở huyện Văn Yên có điều kiện khí hậu phù hợp để nuôi cá tầm.

Sinh ra và lớn lên nơi đại ngàn Nà Hẩu, Văn Yên, Yên Bái, ông Giàng A Châu luôn trăn trở, vì sao bà con quê ông có đất, có rừng, có lợi thế về nguồn nước sạch và khí hậu trong lành giữa khu Bảo tồn thiên nhiên Nà Hẩu mà vẫn luôn đói nghèo? Trồng cây gì, nuôi con gì để có hướng đi mới trong phát triển kinh tế, đem lại thu nhập ổn định? Mày mò nghiên cứu, tìm hiểu qua sách, báo, ti vi… rồi bỏ công sức đến học hỏi kinh nghiệm tại nhiều trại nuôi cá nước lạnh ở Sa Pa (Lào Cai), năm 2017, ông Châu đã quyết định dành toàn bộ vốn liếng tích góp được của gia đình làm bể bạt nổi nuôi cá tầm, với 3.000 con, lứa đầu tiên thử nghiệm.

Với khí hậu mát lành, nguồn nước phù hợp nên việc nuôi cá tầm cho thấy kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc nuôi cá tầm phải tuân thủ kỹ thuật chăm sóc tỷ mỷ.

Ông Giàng A Châu cho biết "Nuôi cá Tầm thì phải chịu khó chăm sóc từng ngày, tuy không vất vả như làm nương rẫy những hàng ngày đều phải theo dõi, và dọn dẹp bể cho đàn cá. Không để cho nước chảy vào bể bị tắc, bị bẩn, có tạp chất. Nếu cá không ăn hết thức ăn thì phải xả nước thau rửa hết, nếu để vào trong bể sẽ bị chua làm chết cá, cá không ăn hết thức ăn thì một ngày phải xả nước rửa bể một lần”.

Sau một năm chăm sóc, trung bình mỗi con cá tầm sẽ có trọng lượng từ 2,5-3 kg/con, thời điểm hiện tại giá bán khá cao. 

Vừa nuôi vừa tích luỹ kinh nghiệm, đến nay ông Châu đã hình thành được mô hình nuôi cá Tầm lớn nhất huyện Văn Yên với 16 bể nuôi lớn nhỏ, diện tích nuôi trồng vào khoảng 1.500m2, quy mô 30.000 con/lứa, sản lượng bình quân đạt gần 25 tấn/năm. Với giá bán hiện tại khoảng 260.000 đồng/kg cá tầm thương phẩm, bình quân mỗi năm trừ tất cả các khoản chi phí, gia đình ông thu về khoảng 1 tỷ đồng. Thị trường tiêu thụ chính là Hà Nội và một số tỉnh thành khác. Không chỉ giúp gia đình có nguồn thu nhập ổn định mà còn tạo việc làm thường xuyên cho người dân bản địa với mức lương 10 triệu đồng/người/tháng.

Triển khai mô hình nuôi cá tầm của gia đình mình thành công, ông Châu còn dành nhiều thời gian chia sẻ kinh nghiệm, cách thức làm ăn với bà con trong vùng, giúp người dân nơi đây tìm được hướng đi mới trong phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Đến nay đã có hàng chục hộ gia đình trong xã và một số hộ trong vùng lân cận áp dụng theo mô hình nuôi cá tầm của ông Giàng A Châu bước đầu đem lại hiệu quả, trong đó có anh Sùng A Tùng – thôn Bản Tát, xã Nà Hẩu.

Anh Tùng chia sẻ: "Tôi thấy ông Châu ở thôn Trung Tâm nuôi cá tầm hiệu quả, nhiều người hỏi mua, giá lại cao. Nên vợ chồng tôi đã sang nhà ông Châu học hỏi kinh nghiệm và cũng được ông Châu chỉ bảo tận tình về cách chọn giống, chăm sóc, phòng bệnh, nguồn nước… Thế là vợ chồng tôi đã mạnh dạn đầu tư xây bể, nuôi cá. Lứa đầu đã cho nguồn thu khá lại có việc làm ổn định. Vợ chồng tôi sẽ tiếp tục nuôi con cá này với hy vọng cuộc sống khấm khá hơn”.

Theo ông Sùng A Sà, Phó Chủ tịch UBND xã Nà Hẩu, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái, mô hình nuôi cá Tầm của ông Giàng A Châu là mô hình nuôi cá nước lạnh đầu tiên trên địa bàn xã và cho thấy đây là hướng đi đúng. Ngoài nhân rộng mô hình, xã khuyến khích bà con tiếp tục thay đổi tư duy, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp để mang lại hiệu quả kinh tế, xóa đói giảm nghèo. 

"Đối với hộ gia đình ông Giàng A Châu là hộ người Mông đầu tiên ở xã Nà Hẩu đem con cá tầm về nuôi và đem lại hiệu quả rõ rệt. Mô hình của ông Châu được nhiều người dân đến học tập làm theo, qua đó giúp bà con thay đổi nhận thức về chuyển đổi cây con giống phát triển kinh tế gia đình” - ông Sà cho biết thêm.

Về kế hoạch của mình, ông Giàng A Châu đang ấp ủ mở rộng quy mô bể nuôi và sản xuất được con giống tại chỗ, vừa đáp ứng nhu cầu của thị trường, vừa tạo công ăn việc làm cho con em lúc nông nhàn.

"Thời gian tới tôi tiếp tục mở rộng thêm khoảng 3-4 bể nuôi, mỗi bể 40-50m vuông để tăng quy mô, tiến tới sản xuất con giống phục vụ nhu cầu của bà con. Tôi sẵn lòng chia sẻ kinh nghiệm nếu bà con có nhu cầu nuôi loại các đặc sản này để cùng nhau phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo tại quê hương mình”, ông Châu bày tỏ.

Văn Yên là huyện miền núi của tỉnh Yên Bái với gần 80% người dân có thu nhập chính từ sản xuất nông nghiệp. Những năm qua, huyện đã quy họach vùng sản xuất cụ thể dựa trên điều kiện khí hậu thổ nhưỡng như: vùng trồng cây sắn, cây quế, cây dâu nuôi tằm, lúa chất lượng cao và nuôi thủy sản tập trung.

Một vài năm trở lại đây, một số hộ dân chuyển đổi sang mô hình nuôi cá nước lạnh và bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao. Qua đó giúp ngươi dân nâng cao thu nhập và làm giàu trên mảnh đất quê hương. Đến nay trên địa bàn huyện có 15 cơ sở nuôi cá tầm và thu về hàng chục tỷ đồng/năm.

Tuy nhiên, việc nuôi cá nước lạnh còn gặp một số khó khăn như nguồn nước phải đảm bảo sạch cho nên việc tạo mặt bằng còn hạn chế bởi ở những khu vực đầu nguồn lại thuộc rừng đặc dụng hoặc khu vực bảo tồn thiên nhiên; cá tầm là đối tượng vật nuôi đòi hỏi yêu cầu kỹ thuật cao và kinh nghiệm sâu nên người chăn nuôi phải thường xuyên học hỏi kinh nghiệm.

Thời gian tới, để phát triển triển mô hình này, tỉnh Yên Bái đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ các địa phương tiếp tục kiểm tra, rà soát các cơ sở trên địa bàn. Đối với mặt bằng nuôi trên đất lúa, hướng dẫn người dân làm thủ tục hồ sơ chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi trên đất lúa, nhất là hướng dẫn chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang nuôi thủy sản theo quy định.

Tại khu vực có thể chăn nuôi tập trung, tỉnh Yên Bái có cơ chế liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị giữa người nông dân và doanh nghiệp chế biến, nhằm phát triển tạo vùng nguyên liệu hàng hóa và tăng cường chế biến sâu, đóng hộp làm sản phẩm OCOP để xúc tiến thương mại; liên kết với các đơn vị có kinh nghiệm trong nuôi và chế biến cá nước lạnh để tiêu thụ sản phẩm giúp người dân có đầu ra ổn định, yên tâm phát triển nghề nuôi cá đặc sản này.