Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

07/08/2024 13:21:00 Xem cỡ chữ
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự, tư tưởng về xây dựng quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nội dung cốt lõi, có vai trò đặc biệt quan trọng trong suốt 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội Việt Nam anh hùng. Cho đến nay, tư tưởng đó của Người vẫn còn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng quá trình xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong tình hình mới.

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trò chuyện, động viên các nữ cán bộ, chiến sĩ, dân quân tham gia diễu binh, diễu hành tại Lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Nguồn: tienphong.vn

Kế thừa tư tưởng “dân là gốc” trong lịch sử dân tộc và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, xuất phát từ thực tiễn cách mạng, trực tiếp là thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hình thành tư tưởng và trực tiếp chăm lo xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đây là biểu hiện của tầm cao trí tuệ Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng Quân đội ta thành một đội quân cách mạng kiểu mới, mang bản chất của giai cấp công nhân và mang tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc. Người khẳng định: “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân”(1); đồng thời, Người luôn quan tâm chỉ bảo cán bộ, chiến sĩ phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, xây dựng phẩm chất, đạo đức của người quân nhân cách mạng trong quan hệ, giao tiếp với nhân dân. Ngay từ tháng 3-1947, Người đã nêu ra những điều cần phổ biến ngay và thường xuyên tới bộ đội: “3. Không động đến một cái kim, một sợi chỉ của dân. 4. Khi đến đóng, lúc kéo đi, phải giữ gìn nhà, vườn của dân cho sạch sẽ. 5. Nói năng cử động phải giữ lễ phép, phải kính người già, yêu trẻ con. 6. Mua bán phải công bình. 7. Mượn cái gì phải trả tử tế. 8. Hỏng cái gì phải bồi thường. 9. Phải giúp đỡ dân bất kỳ việc to, việc nhỏ...”(2). Đây là những nội dung cốt lõi để hình thành nên phẩm chất, đạo đức của người quân nhân cách mạng, xây dựng nên phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” và để Quân đội ta là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức đan xen. Tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội, với những chiêu thức thâm độc hòng xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, kích động, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết, gắn bó mật thiết giữa Quân đội với nhân dân. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia, chủ quyền biển, đảo đang đứng trước những yêu cầu mới. Trước tình hình đó, Quân đội càng phải thể hiện rõ vai trò nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng. Để hoàn thành trọng trách vẻ vang, nhiệm vụ thiêng liêng đó, chúng ta cần vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Theo đó, cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Tư tưởng về quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là biểu hiện của tầm cao trí tuệ Hồ Chí Minh; là phương hướng để Đảng ta vận dụng vào lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng Quân đội lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi giai đoạn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “trọng dân” không chỉ là tôn trọng nhân dân, mà còn phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, tôn trọng, giúp đỡ các cấp ủy và chính quyền địa phương. Tại Hội nghị cán bộ cao cấp toàn quân (ngày 20-3-1958), Người nhấn mạnh: “Phải đoàn kết quân, chính, Đảng. Quân đội phải tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ, phải giúp đỡ các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương”(3).

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này, bất luận trong hoàn cảnh, điều kiện nào, cũng phải “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng”(4). Đây là yếu tố cơ bản, có ý nghĩa quan trọng bậc nhất, quyết định bản chất cách mạng, phương hướng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội, bảo đảm cho Quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Trong đó, vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định nhất, là phải thường xuyên “Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong Quân đội... tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng”(5); thực hiện nghiêm tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Trong tình hình hiện nay, để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, cần tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội “vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(6); gương mẫu thực hiện hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng Đảng với bảo vệ Đảng, không để “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, giữ nghiêm kỷ luật của Đảng. Trước mắt, phải tích cực thực hiện chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đảng bộ Quân đội phải làm gương, làm mẫu về mọi mặt trong toàn Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, phải luôn luôn “tự soi, tự sửa” để trong bất cứ hoàn cảnh nào, khó khăn, phức tạp đến đâu thì phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” vẫn được giữ vững; phải giữ mình và thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện; đấu tranh có hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, làm cho Quân đội ta ngày càng mạnh hơn, trưởng thành hơn, mãi mãi xứng đáng là “Bộ đội Cụ Hồ”, xứng đáng với niềm tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân”(7).

Theo đó, phải làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chức năng, nhiệm vụ, bản chất cách mạng, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phong trào thi đua “Quyết thắng”, cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực... Qua đó, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, ý thức tổ chức kỷ luật tự giác, nghiêm minh; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc. Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, toàn quân luôn đoàn kết, thống nhất, trung thành vô hạn, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực sự “là Quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì dân mà chiến đấu, yêu nước, yêu dân”, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.

Hai là, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ về giữ vững và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Quân đội với nhân dân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ và chiến đấu. Đây là quan điểm chỉ rõ bản chất và cội nguồn sức mạnh của Quân đội ta. Quân đội ta là quân đội cách mạng, là quân đội của nhân dân; mọi cán bộ, chiến sĩ đều là con em của nhân dân. Quân đội ra đời, trưởng thành và lớn mạnh đều bắt nguồn từ nhân dân; do nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, giúp đỡ và chiến đấu vì mục tiêu đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Vì vậy, trong tình hình mới hiện nay, cần giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân thấy rõ, nhân dân là nền tảng, là gốc rễ của Quân đội. Quân đội muốn vững mạnh thì phải biết dựa vào cái gốc, cái nền tảng ấy, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Gốc có vững cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”(8). Đặc biệt, cần giáo dục để mọi cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân thấm nhuần lời căn dặn của Người: “Dân như nước, quân như cá. Phải làm cho dân hết sức giúp đỡ mình thì mình mới đánh thắng giặc”(9).

Tăng cường giáo dục để cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhận thức đúng và thực hiện tốt tư tưởng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: Quân đội phải “hiếu với dân”. Cần thấm nhuần lời căn dặn của Người: “Mình đánh giặc là vì dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân, mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân”(10). Mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội phải thấu hiểu, “hiếu với dân” là phải biết hết lòng vì Tổ quốc, vì chế độ xã hội chủ nghĩa, vì Đảng ta và vì nhân dân ta.

Cùng với đó, cần giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ luôn biết tôn trọng nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “Tất cả các chú, cán bộ cũng như chiến sĩ, đều phải: ...Thương dân, trọng dân và tốt với dân”(11). Theo Người: “Phải biết trọng nhân dân. Tôn trọng có nhiều cách, không phải ở chỗ chào hỏi kính thưa có lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân lực vật lực của dân. Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết tôn trọng dân”(12). Như vậy, theo Người, cán bộ, chiến sĩ quân đội có thực sự tôn trọng nhân dân thì nhân dân mới gắn bó chặt chẽ với Quân đội, và Quân đội mới làm tròn được chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động, sản xuất, mới thực sự là lực lượng chính trị tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong tình hình hiện nay.

Để Quân đội ta được dân tin, dân phục, dân yêu, cần tiếp tục giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ luôn có ý thức và trách nhiệm giúp đỡ nhân dân, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Phải giúp đỡ nhân dân bất kỳ việc to, việc nhỏ, từ việc gặt hái, lấy củi, lấy nước, may vá, vệ sinh đường làng, ngõ xóm, đến những việc lớn hơn, như tăng gia sản xuất, dạy chữ quốc ngữ và những điều vệ sinh thường thức... Đặc biệt, trong quan hệ trực tiếp với nhân dân, phải làm thế nào để khi mình chưa đến thì dân mong, khi mình đi nơi khác thì dân luyến tiếc. Trong tình hình hiện nay, cán bộ, chiến sĩ quân đội còn phải tích cực tham gia bảo vệ, giữ gìn trật tự, an ninh, giữ yên cuộc sống bình yên cho nhân dân; giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, gieo “cái chữ”, đưa khoa học, kỹ thuật đến với người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; giúp nhân dân phòng, chống thiên tai, nhất là phòng, chống bão, lụt... Nếu tất cả cán bộ, chiến sĩ đều quán triệt và làm tốt những điều ấy trong tình hình hiện nay thì chắc chắn sẽ được dân tin, dân phục, dân yêu và thực sự là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng giúp đồng bào thu hoạch lúa. Ảnh: TTXVN

Ba là, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận trong tình hình mới.

Để góp phần xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong tình hình hiện nay, công tác dân vận của Quân đội cần tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là: tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, đồng thời tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở địa phương; giữ vững và tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân - dân, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, nâng cao ý thức “vì nhân dân phục vụ” cho cán bộ, chiến sĩ. Để thực hiện chất lượng, hiệu quả nhiệm vụ này, công tác dân vận của Quân đội cần hướng mạnh về cơ sở, quan tâm giải quyết những vấn đề thiết thực trong đời sống nhân dân; qua đó, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội. Cùng với đó, tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước để xây dựng quê hương, đất nước.

Các đơn vị trong toàn quân đóng trên từng địa bàn cần tiếp tục đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các tầng lớp nhân dân, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng đồng bào theo đạo về tình hình chính trị, an ninh, trật tự của đất nước và địa phương, cơ sở, nhất là về chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục của địa phương, cơ sở. Đồng thời, giúp nhân dân nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch hòng chia rẽ Đảng với dân, quân với dân.

Thường xuyên đổi mới nội dung và hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân sao cho dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Coi trọng và tập trung làm tốt công tác dân vận ở những địa bàn trọng yếu, những vùng kinh tế khó khăn, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Vận dụng linh hoạt, sáng tạo những nội dung, biện pháp công tác dân vận bảo đảm phù hợp với đặc điểm, tình hình, điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương. Kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp, phản ánh của nhân dân ở cơ sở, qua đó tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng của nhân dân, góp phần củng cố, tăng cường lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội.

Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, góp phần xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong tình hình hiện nay, cần chú trọng nâng cao trách nhiệm, trình độ, năng lực tiến hành công tác dân vận của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ dân vận ở cơ sở. Theo đó, cần quán triệt và vận dụng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Những người phụ trách dân vận cần phải óc nghĩ, mắt trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm. Chứ không phải chỉ nói suông, chỉ ngồi viết mệnh lệnh. Họ phải thật thà nhúng tay vào việc”(13). Theo đó, tích cực, chủ động tổ chức bồi dưỡng kiến thức, năng lực, kinh nghiệm, phương pháp, tác phong công tác dân vận cho đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm công tác này. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng đội ngũ cán bộ dân vận là con em đồng bào các dân tộc thiểu số, đồng bào theo đạo và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ làm công tác dân vận phải luôn học tập, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực, luôn “gần dân, học dân, nghe theo dân”(14), như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, để vừa là một công dân gương mẫu, vừa là một quân nhân kiểu mẫu, vừa là một cán bộ “dân vận khéo”, hết lòng vì nhân dân.

Cùng với đó, các đơn vị quân đội còn phải tích cực, chủ động phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương trong tiến hành công tác dân vận. Các đơn vị quân đội đóng quân, làm nhiệm vụ trên các địa bàn phải tích cực giúp đỡ chính quyền và nhân dân địa phương giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; “cán bộ cũng như chiến sĩ, đều phải: ... Thương dân, trọng dân và tốt với dân”(15), luôn là lực lượng đi đầu ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất; sát cánh cùng nhân dân trong phòng, chống bão, lũ, thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng, phát triển kinh tế. Tiếp tục phối hợp thực hiện tốt các cuộc vận động lớn, như “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Ngày vì người nghèo”, “Chung sức xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, góp phần ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đồng thời, xây dựng và duy trì thường xuyên chế độ nắm tình hình thực hiện mối quan hệ đoàn kết quân - dân; chủ động, kịp thời phát hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch trên địa bàn, có kế hoạch phù hợp và xử lý hiệu quả những tình huống xảy ra, nhất là những “điểm nóng” về các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Thường xuyên lắng nghe ý kiến góp ý của cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân địa phương về thực hiện mối quan hệ đoàn kết giữa đơn vị và nhân dân; kịp thời sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về sự phối hợp hoạt động giữa đơn vị và địa phương trong công tác dân vận.

Bốn là, phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân”, nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân.

Xây dựng, phát huy sức mạnh của “thế trận lòng dân” và xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện, ngày càng hiện đại là một chủ trương chiến lược quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Do vậy, cần giáo dục để cán bộ, chiến sĩ nhận thức rõ vai trò của “thế trận lòng dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa”(16). “Nhân hòa” nghĩa là tất cả mọi người đều nhất trí, là sự đồng lòng của toàn dân. Nhờ “thế trận lòng dân” mà “đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc”(17), và “Không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể một dân tộc”(18). Trên cơ sở nhận thức đó, phát huy cao độ vai trò nòng cốt của Quân đội trong xây dựng “thế trận lòng dân” và xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, bảo đảm Quân đội là quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Để “Xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(19) theo chủ trương của Đảng, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, nhất là cơ quan quân sự địa phương các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 của Bộ Chính trị “Về tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành khu vực phòng thủ vững chắc trong tình hình mới”; Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-2-2019 của Chính phủ “Về khu vực phòng thủ” gắn với thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Luật Quốc phòng năm 2018, các chiến lược chuyên ngành và Luật Lực lượng dự bị động viên năm 2019... Chủ động tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương và phối hợp với các lực lượng đẩy mạnh xây dựng “thế trận lòng dân” và nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc. Đặc biệt, tăng cường xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ, trọng tâm là xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quân sự, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, chiến lược, biên giới, biển, đảo.

Các đơn vị quân đội cần thực hiện tốt chức năng quản lý về quốc phòng; đẩy mạnh xây dựng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế - quốc phòng nhằm góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, tạo nền tảng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Đẩy mạnh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với nền an ninh nhân dân cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, làm cho toàn dân trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, không ngừng lớn mạnh, là cơ sở chính trị - xã hội vững chắc cho sự nghiệp xây dựng Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong thời kỳ mới./.

--------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 264
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 135
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 367
(4), (5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 160, 158, 158
(7) “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng dự Hội nghị Quân chính toàn quân năm 2022: Đảng bộ Quân đội phải làm gương, làm mẫu về mọi mặt trong toàn Đảng”, Báo Nhân Dân, số 24522, ngày 21-12-2022, tr. 2
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 502
(9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 76
(11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 501
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 458
(13), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 233 - 234, 370
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 501
(16), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 594, 151
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 89
(19) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 149