Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất ở Yên Bái

25/03/2016 14:38:03 Xem cỡ chữ

Trong những năm qua, cùng với các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, nông thôn của Trung ương, tỉnh Yên Bái đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai và lao động, từ đó thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân.

Khi chính sách mở đường cho phát triển

Mù Cang Chải là một trong hai huyện nghèo của tỉnh, với trên 90% dân số là dân tộc Mông sinh sống. Nền kinh tế của huyện chủ yếu là sản xuất nông, lâm nghiệp với quy mô sản xuất nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp. Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các chính sách hỗ trợ sản xuất như Chương trình 30a, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất của tỉnh, nhằm tạo bước chuyển dịch trong phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng thu nhập cho người dân góp phần xóa đói, giảm nghèo nhanh và bền vững.

Theo đó trong giai đoạn 2011 – 2015, từ nguồn chính sách hỗ trợ sản xuất của tỉnh, huyện Mù Cang Chải được đầu tư trên 35 tỷ đồng thông qua việc hỗ trợ giống lúa chất lượng cao, giống ngô lai; hỗ trợ phân bón; hỗ trợ nilon che mạ phục vụ sản xuất vụ Đông Xuân; hỗ trợ một lần cho các hộ gia đình làm cây rơm dự trữ thức ăn cho gia súc; hỗ trợ cho các hộ, nhóm hộ nhận khoán bảo vệ rừng, trồng rừng sản xuất bằng cây Sơn tra, cây Vối thuốc; hỗ trợ khai hoang để tạo đất trồng lúa nước; hỗ trợ cho các hộ chăn nuôi gia súc, gia cầm; hỗ trợ mua giống cỏ trồng phát triển chăn nuôi trâu, bò; hỗ trợ một lần cho các hộ nghèo, hộ cận nghèo làm chuồng nuôi trâu, bò.

Để đảm bảo chính sách hỗ trợ phát huy hiệu quả, huyện Mù Cang Chải đã lãnh chỉ đạo nhân dân sử dụng đúng mục đích các nguồn hỗ trợ của các chương trình, dự án, nhất là hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp. Xã đã giao cho từng bản tổ chức họp dân, thông tin tuyên truyền, thông báo công khai các chính sách hỗ trợ, đối tượng được hỗ trợ, lựa chọn các hộ có điều kiện để đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất… Đồng thời hướng dẫn, giám sát để các hộ được hỗ trợ thực hiện hiệu quả. Việc hỗ trợ giống, vật tư nông nghiệp không chỉ giảm bớt khó khăn của nhiều hộ dân mà còn thay đổi nhận thức của người dân trong sản xuất, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm nông nghiệp.

Từ chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, người dân ở Mù Cang Chải đã dần thay đổi tập quán canh tác truyền thống, chú trọng hơn đến việc đầu tư thâm canh.

 

Nhân dân Mù Cang Chải tích cực khai hoang mở rộng diện tích gieo trồng lúa nước (Ảnh Trang TTĐT Mù Cang Chải)

Những năm gần đây, lĩnh vực sản xuất nông nghiệp của huyện đã có bước chuyển biến mạnh mẽ. Diện tích cây trồng hằng năm tăng từ 7.327 ha năm 2010 lên 9.000 ha năm 2015, diện tích lúa nương kém hiệu quả đã được chuyển đổi sang trồng ngô. Công tác ứng dụng khoa học kỹ thuật, mô hình sản xuất mới được đưa vào sản xuất, cơ cấu giống mới chiếm từ 35% năm 2010 lên 85% vào năm 2015, năng suất lúa trung bình tăng từ 35,7 tạ/ha lên trên 50 tạ/ha; năng suất ngô trung bình tăng từ 25,2 tạ/ha lên trên 41 tạ/ha góp phần tăng sản lượng lương thực năm 2015 đạt 33.200 tấn, bình quân lương thực 600kg/người/năm, tăng 200 kg so với năm 2010; đàn gia súc chính tăng trưởng trung bình 6,5%/năm, đàn gia cầm tăng bình quân 10,4%/năm.

Đồng chí Giàng A Tông – Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện Mù Cang Chải cho biết: Các chính sách hỗ trợ nông lâm nghiệp đã tạo cơ hội cho người dân vùng cao có điều kiện phát triển sản xuất; Cuộc sống của người dân ở vùng cao Mù Cang Chải đã có nhiều thay đổi. Nhiều xã đã phát triển tốt như xã Dế Xu Phình, Khao Mang, Lao Chải. Từ năm 2010 đến nay, Mù Cang Chải đã triển khai thực hiện tốt các chính sách, đến nay diện tích lúa đông xuân của huyện đã tăng từ 700 ha năm 2010 lên 1.500 ha. Người dân còn được hướng dẫn kỹ thuật làm cây rơm để dự trữ thức ăn cho trâu, bò trong mùa đông và phòng dịch cho trâu, bò; làm chuồng nuôi nhốt cho trâu, bò xa nhà, không để ảnh hưởng đến môi trường sống và biết trồng cỏ voi để chủ động nguồn thức ăn trong chăn nuôi.

Trong những năm qua, cùng với các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, nông thôn của Trung ương, tỉnh Yên Bái đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách về nông nghiệp, nông thôn nhằm ổn định đời sống nhân dân, chuyển dịch nhanh kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá ở vùng thấp và đảm bảo an ninh lương thực ở vùng cao; đưa nhanh khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, công tác thú y và các dịch vụ kỹ thuật ở nông thôn.

Trong giai đoạn 2011 – 2015, bình quân mỗi năm tỉnh Yên Bái đầu tư từ 35 – 45 tỷ để hỗ trợ cho phát triển sản xuất nông lâm nghiệp. Đến nay, cơ cấu kinh tế nông, lâm nghiệp và thủy sản của tỉnh có sự chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 79,6% xuống còn 77,8%; ngành lâm nghiệp tăng từ 17,4% lên 18,2%; ngành thủy sản tăng từ 3,0% lên 4,0%.

Việc triển khai thực hiện Chính sách hỗ trợ giống cây trồng, lâm nghiệp đã góp phần nâng cao diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt không ngừng tăng. Cơ cấu giống tiếp tục có chuyển biến tích cực theo hướng tập trung các giống có năng suất cao, chất lượng tốt. Đến nay một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung đã được hình thành rõ nét như: Vùng sản xuất lúa hàng hóa chất lượng cao 2.500 ha, vùng ngô 15.000 ha (có 3.000 ha được chuyển đổi từ đất trồng lúa nương kém hiệu quả sang trồng ngô), vùng chè 11.000 ha, vùng sắn cao sản 15.000 ha, măng tre Bát Độ trên 3.500 ha, quế trên 33.000 ha, vùng cây nguyên liệu giấy trên 60.000 ha.

Đến năm 2015, tổng sản lượng lương thực có hạt của tỉnh đạt 300.506 tấn; sản lượng chè búp tươi đạt trên 85.400 tấn; tổng đàn gia súc chính là 645.519 con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đàn gia súc chính đạt trên 35.000 tấn; mỗi năm trồng mới trên 15.000 ha rừng…

Thông qua việc triển khai thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn tỉnh, đời sống của đại bộ phận người dân trong tỉnh đã được nâng lên, người dân đã có chuyển biến sâu sắc trong nhận thức, tư duy về phát triển kinh tế, nhất là trong sản xuất nông, lâm nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thâm canh tăng vụ; nhân dân tích cực tham gia sản xuất vụ đông xuân, chủ động sản xuất vụ mùa, trồng ngô trên diện tích lúa nương, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo của tỉnh.

Về phát triển kinh tế ở vùng cao, Yên Bái đã hình thành các vùng sản xuất hàng hóa theo hướng tập trung, bước đầu tạo được thương hiệu nông sản hàng hoá như: vùng lúa, vùng chè, vùng cây ăn quả… Trong đó, đáng lưu ý nhất là tỉnh đã chỉ đạo quyết liệt việc chuyển đổi từ trồng lúa nương kém hiệu quả sang trồng ngô đồi, không chỉ đơn thuần là giải quyết lương thực cho người dân mà đã từng bước chuyển thành vùng ngô hàng hóa tại 3 huyện Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Cang Chải. Cùng với đó vùng cây Sơn tra ở 2 huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải; vùng chè ở Suối Giàng, Phình Hồ, Púng Luông… đã góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số hạn chế đó là: Các nội dung thực hiện chủ yếu mới chỉ tập trung vào việc hỗ trợ giống cây trồng, vật tư sản xuất cho các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh, nhằm giảm bớt khó khăn cho người dân về thiếu vốn cho sản xuất lương thực. Sản phẩm làm ra chủ yếu là phục vụ cho sinh hoạt gia đình hàng ngày, chưa tạo được sự chuyển biến để người dân tự tái cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp. Việc phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản theo hướng hàng hoá trên địa bàn tỉnh chưa thực sự bền vững, mức độ rủi ro còn cao, sản xuất chưa theo định hướng quy hoạch, cơ chế quản lý và chính sách đầu tư chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao, trình độ nhận thức của nhân dân về khoa học kỹ thuật và sản xuất còn hạn chế. Việc đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung dẫn đến hiệu quả nguồn vốn đầu tư thấp. Công tác tuyên truyền, vận động, quán triệt các chính sách của Trung ương, của Tỉnh ở cơ sở còn chưa thường xuyên liên tục; Một bộ phận nhân dân vẫn còn nặng tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước nên chưa mạnh dạn đầu tư các mô hình chăn nuôi đảm bảo qui mô để được hưởng chính sách hỗ trợ của tỉnh.

Tiếp tục quan tâm, hỗ trợ phát triển nông nghiệp

Trong những năm tới, tỉnh Yên Bái xác định ưu tiên sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ trước mắt và lâu dài, gắn sản xuất nông nghiệp với xây dựng NTM; Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ sản xuất cho các vùng sản xuất hàng hóa, vùng đặc biệt khó khăn; Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa – xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội; Tỷ lệ giảm nghèo bình quân 5 năm giảm 4%/năm, riêng hai huyện vùng cao Mù Cang Chải và Trạm Tấu giảm 6%.

Với mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế về nông nghiệp của tỉnh gắn với xây dựng nông thôn mới; xây dựng và phát triển các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất hàng hoá; duy trì tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh thông qua tăng năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh. Tại Kỳ họp thứ 15, HĐND tỉnh khóa XVII đã thông qua Nghị quyết về các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái giai đoạn 2016 – 2020. Ngày 31/12/2015, UBND tỉnh Yên Bái có Quyết định số 27/2015/QĐ-UBND về ban hành Quy định Chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Yên Bái, giai đoạn 2016 – 2020.

Nội dung chính sách hỗ trợ thực hiện các đề án tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể như: Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển chăn nuôi; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển nuôi trồng thủy sản; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển cây ăn quả; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển chè vùng cao; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển ngô Đông trên đất lúa 2 vụ; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án trồng Sơn tra; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển cây quế; Chính sách hỗ trợ thực hiện Đề án phát triển măng tre Bát độ; Chính sách hỗ trợ sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cho các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn và một số chính sách khác.

Thông qua việc tổ chức, triển khai thực hiện có các chính sách hỗ trợ là điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội cho các thôn, bản, các xã đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh; từng bước nâng cao thu nhập, đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, góp phần vào ổn định chính trị, an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh.

 

CTTĐT