CTTĐT – Thời gian gần đây, Công an tỉnh Yên Bái đã phối hợp các ngành chức năng triển khai nhiều biện pháp tuyên truyền, đấu tranh, ngăn chặn tình trạng người dân xuất cảnh trái phép ra nước ngoài làm thuê. Tuy nhiên, vẫn còn một số người xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc để làm thuê do tin vào các đối tượng “cò mồi.
Lực lượng công an tỉnh Yên Bái tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến đồng bào vùng cao.
Đánh giá nguyên nhân dẫn đến xuất cảnh, nhập cảnh trái phép
Nguyên nhân khách quan: Do tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh cao, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, người lao động không có việc làm hoặc việc làm thu nhập thấp, nhu cầu tìm việc làm kiếm tiền cải thiện đời sống gia đình. Nguồn lao động ở địa phương khá dồi dào nhưng phần lớn vẫn là lao động trình độ phổ thông, chất lượng lao động thấp nên chỉ đáp ứng được trong điều kiện làm việc nhất định. Do chênh lệch về giá nhân công ở trong nước với các nước trong khu vực. Biên giới Việt Nam - Trung Quốc dài, có nhiều đường mòn, lối mở, sông, suối cạn... nên việc qua lại dễ dàng. Một bộ phận nhân dân còn hạn chế về trình độ, nhận thức, mất cảnh giác, nhẹ dạ, cả tin nên thường tự đi khỏi địa phương (hoặc bị các đối tượng môi giới rủ rê đưa sang nước khác làm thuê trái phép).
Nguyên nhân chủ quan: Người vi phạm chủ yếu là những người dân nghèo, trình độ văn hóa thấp, cư trú ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có công ăn việc làm ổn định, thiếu thông tin về chính sách xuất khẩu lao động cũng như về pháp luật nhập cư, cư trú của các nước nên dễ bị lừa gạt, dụ dỗ, lôi kéo. Một số trường hợp biết rõ việc XCTP là vi phạm pháp luật nhưng vì kinh tế vẫn cố tình vi phạm. Bên cạnh đó, công tác quản lý của cơ quan chức năng và chính quyền địa phương còn sơ hở để một số cá nhân, tổ chức lợi dụng chính sách thông thoáng về xuất cảnh, du lịch và xuất khẩu lao động của Nhà nước đã lừa gạt, tổ chức người vượt biên trái phép hoặc làm dịch vụ du lịch trá hình đưa người ra nước ngoài để trục lợi.
Việc phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng XCTP của cơ quan chức năng đã được tiến hành thường xuyên song chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe; công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục thực hiện còn thiếu đồng bộ, vẫn còn tình trạng người dân không tiếp cận được thông tin chính thống, vẫn bất chấp rủi ro để ra nước ngoài lao động qua các kênh không an toàn.
Những hệ lụy của xuất cảnh trái phép
Số người địa phương xuất cảnh trái phép đa số không biết tiếng nước ngoài, không có giấy tờ hợp pháp nên quyền lợi cá nhân không được đảm bảo, phải sống trong tình trạng lo lắng, có thể bị bắt giữ, phạt tiền, công việc vất vả, môi trường làm việc khắc nghiệt, nhiều trường hợp còn bị quỵt tiền công hoặc trả không đúng với thỏa thuận ban đầu. Khi gặp tai nạn hoặc tử vong đều gặp khó khăn trong công tác bảo hộ quyền lợi.
Từ 2015 đến nay đã xảy ra 10 vụ bằng 10 trường hợp là người địa phương sang Trung Quốc làm thuê, lao động gặp rủi ro dẫn đến tử vong tại Trung Quốc. Công an tỉnh đã phối hợp với Sở Ngoại vụ và các cơ quan liên quan hướng dẫn gia đình người bị nạn làm các thủ tục theo quy định để đưa thi hài hoặc tro cốt về địa phương mai táng.
Điển hình vụ Lự Kim Không chết tại Trung Quốc: Lự Kim Không, sinh năm 1975, trú tại thôn Khe Pháo, xã Châu Quế Hạ, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái thuộc hộ nghèo tại địa phương. Tháng 5/2018, Lự Kim Không cùng vợ là Đặng Thị Chung xuất cảnh trái phép sang tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc làm thuê. Đến ngày 23/5/2018, Lự Kim Không lên cơn đau tim và tử vong tại bệnh viện thành phố Dương Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Sau đó thi thể Lự Kim Không được bảo quản tại bệnh viện với chi phí khoảng 70.000.000 VNĐ.
Sau đó gia đình Lự Kim Không tại Việt Nam đã rất khó khăn để xin được các giấy tờ theo yêu cầu của phía Trung Quốc (do xuất cảnh trái phép cư trú bất hợp pháp tại TQ) để hoàn thiện thủ tục hỏa thiêu cho Lự Kim Không. Đến ngày 22/6/2018 Lự Kim Không được hỏa thiêu tại nơi bảo quản. Ngày 24/6/2018 tro cốt được đưa về địa phương. Tổng chi phí bảo quản thi thể và mang tro cốt Lự Kim Không về địa phương khoảng 200.000.000 VNĐ do gia đình tự chi trả. Từ vụ việc cho thấy khi giải quyết một vụ việc như trên rất tốn kém về thời gian, công sức, tiền của và nó liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành của ta và phía nước ngoài.
Giải pháp để ngăn chặn tình trạng xuất nhập cảnh trái phép
Một là: Tiếp tục làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp từ tỉnh đến cơ sở chỉ đạo các cấp các ngành xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Giải quyết các vấn đề thiết yếu như: việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân...
Hai là: Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh đúng quy định của pháp luật.
Ba là: Làm tốt công tác quản lý nhân hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng trên địa bàn, kịp thời phát hiện ngay từ cơ sở những trường hợp vắng mặt tại địa phương không rõ lý do, nghi xuất cảnh trái phép lập danh sách theo dõi để có biện pháp xử lý, giải quyết.
Bốn là: Tăng cường công tác phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, đặc biệt là các địa bàn có diễn biến phức tạp về xuất cảnh trái phép. Phối hợp với các cơ quan, đoàn thể và vận động, tranh thủ người có uy tín tiếp tục tuyên truyền cho người dân hiểu thủ đoạn của các đối tượng môi giới cũng như những rủi ro mà họ có thể gặp phải khi xuất cảnh trái phép làm thuê ở nước ngoài, đồng thời tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức và ý thức cảnh giác cho người dân. Tăng cường phối hợp giữa lực lượng Công an với các ban ngành, đoàn thể của tỉnh làm tốt công tác tuyên truyền để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn và hạn chế tình trạng xuất cảnh trái phép tại địa phương.
Năm là: Thông qua hoạt động quản lý Nhà nước về xuất nhập cảnh để tuyên truyền, tư vấn pháp luật, chủ trương, chính sách của Đảng. Kịp thời triển khai thi hành Luật xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam (số 49/2019/QH14) được Quốc hội thông qua kỳ họp thứ 8 ngày 22 tháng 11 năm 2019 có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2020 đến các tầng lớp nhân dân thực hiện nghiêm túc.
4534 lượt xem
Ban Biên tập