Tục cúng vía trâu - “Tám khuôn quái” là một sinh hoạt văn hoá độc đáo của người Thái Mường Lò - Văn Chấn - Yên Bái. Tục lệ này có từ lâu đời và được các thế hệ của người Thái Mường Lò duy trì đến ngày nay.
Tục cúng vía trâu có từ lâu đời và được các thế hệ của người Thái Mường Lò duy trì đến ngày nay.
Con trâu gắn liền với nhiều mặt đời sống sinh hoạt và tâm linh của người Thái Mường Lò. Trong sản xuất con trâu là đầu cơ nghiệp. Cũng như nhiều dân tộc có cùng phương thức canh tác lúa nước, người Thái Mường Lò dùng trâu làm sức kéo để khai đất, vỡ hoang, cày bừa… Trâu cùng người vất vả một nắng hai sương, bầu bạn với người, đến khi có thành quả lao động lại chỉ khiêm nhường hưởng cỏ, rơm rạ, để người được hưởng bát cơm dẻo thơm.
Trong lễ “Xên bản - Xên Mường” - tức cúng bản cúng mường, trâu là lễ vật không thể thiếu.
Trong các đám ma đưa tiễn hồn người quá cố về mường trời, trâu là lễ vật không chỉ mang ý nghĩa vật chất đơn thuần, mà còn là tư liệu sản cho hồn người có điều kiện “sống” tiếp ở một thế giới khác. Ngày nay dưới chân dòng thác “Nặm tốc tát” thuộc xã Thạch Lương - huyện Văn Chấn vẫn còn bãi đá thiêng gọi là “Đông quái hà” - tức là rừng trâu chết, tương truyền đó là phần hồn của những con trâu dùng làm vật tế trong các đám ma của người Thái Đen hoá thành. Trên nóc nhà người Thái Đen có biểu tượng “khau cút” là hình hai thanh gỗ đóng chéo nhau hình chữ X mà một trong những ý nghĩa chính là cặp sừng trâu cách điệu.
Con trâu đồng hành với người Thái Mường Lò từ thế giới này sang thế giới khác.
Lễ cúng vía trâu được tổ chức trọng thể vào sáng sớm tết “xíp xí”, tức 14 tháng 7 âm lịch. Đây là tết rất quan trọng của người Thái. Theo lịch Thái cổ, đây là tết rằm tháng giêng, bà con ăn trước một ngày khi mặt trăng đang tới độ hoàn thiện. Ngày xưa người Thái chỉ cấy một vụ. “Xíp xí” là lúc đã cấy xong, trâu đã giúp người hoàn thành một vụ cày bừa vất vả, cần được nghỉ ngơi chăm bẵm để có sức cho vụ tới.
Sáng sớm trẻ em đưa trâu đi tắm rửa sạch sẽ. Người nhà chuẩn bị một mâm lễ vật gồm có: Một con gà nhỏ luộc chín, một bát cơm, một bát gạo, một đĩa muối, nến, hương, có bao nhiêu trâu thì rót bấy nhiêu chén rượu.
Nhà có điều kiện mời bà mo - “một nhính”, còn lại do chủ nhà tự tổ chức.
Bà mo khấn rằng: “Trời làm nên con trâu/ Trâu cái đen đến trước/ Trâu cái trắng đến sau/ Trâu mộng, trâu đực đen/ Trâu quế, trâu cái trắng”. Lời khấn chân thành mộc mạc như nói lên một tất yếu ngẫu nhiên, nhưng mang một ý nghĩa sâu xa: Kiếp trâu vất vả là do trời sinh, mong trâu có sự thông cảm với người. Người cũng dành tình cảm đặc biệt với trâu cái, bởi ngoài cũng vất vả như trâu đực, thì trâu cái còn có thiên chức sinh sản, nuôi con để có đàn trâu đông đúc giúp người. Tiếp theo lời khấn kể về nỗi vất vả của trâu: “Mưa rơi mày xuống cày ruộng mạ/ Sấm sét mày xuống bừa ruộng sâu”.
Người luôn yêu quý trâu. Song có lúc do sức ép của mùa vụ, của cuộc sống, người đối xử với trâu không được như ý: “Trâu ơi xuống ruộng nhé/ Nhưng nếu không ngoan ngoãn/ Vai cày ta đeo vào cổ/ Cây cong ta đeo vào gáy/ Mang vai cày xuống thửa dưới/ Mang cây cong đến thửa trên/ Cây ngắn ta nện, cây dài ta đập/ Bùn đất đầy mông, đầy chân đầy cổ/ Mang nặng quá ngã lăn xuống bùn”. Việc làm ấy của người dù là bất đắc dĩ, ngoài ý muốn thì cũng “Làm sai vía trâu non đang vực/ Sai vía trâu làm trâu bực bội”.
Bản chất con người vốn lương thiện, cảm thông cho nỗi vất vả của trâu đã bầu bạn, vất vả cùng người một nắng hai sương, nên khi biết “làm trái ý trâu nhiều lắm” đã hối hận: “Bởi vậy mới mang con gà to đến mổ/ Đem con gà lớn đến để đền ơn/ Sai ý trâu có gà to đến hầu/ Trái ý trâu có gà lớn đến báo đáp”.
Không chỉ vậy, người chân thành mời trâu hưởng những thành quả lao động trâu đã giúp người làm nên: “Mời vía của trâu/ Mời trâu ăn nhé/ Rượu cái ăn rất ngọt/ Rượu nấu uống rất ngon/ Ăn cơm ruộng thơm dẻo trắng nõn/ Ăn cơm gạo sạch sẽ trắng ngần/ Nhờ có công mày đã cày bừa cho người được ăn cơm/ Mới được thóc ngàn gánh về kho/ Mới có lúa mang về đầy bịch/ Cả gia đình vợ chồng con cái đều được ăn nhờ vào đó/ Có miếng cơm trắng ngon no đủ gia đình mới được ấm cúng trâu ơi!”.
Khấn xong, bà mo đổ rượu, xoa muối vào mồm trâu, rồi bón cơm, thịt gà, cỏ non cho trâu cái trước rồi mới bón cho các con trâu khác. Lúc này mỗi người đều bón cho trâu cỏ, cơm, gà, vỗ về trâu, trẻ em trèo lên lưng trâu vuốt ve âu yếm. Người lớn gói xôi, thịt gà để trẻ em mang trâu ra đồng chăn. Mọi người lên nhà làm lễ cúng tổ tiên, ăn uống vui vẻ và đi chơi thăm thú họ hàng, bè bạn. Ngày hôm sau, ở những nơi không có bãi chăn thả, mọi người mang trâu đi gửi trên các bản người Mông, Dao.
Lễ cúng vía trâu của người Thái Mường Lò mang đậm dấu ấn văn hoá của một nền văn minh lúa nước, đậm đà bản sắc dân tộc. Người Thái có câu: “Thóc lúa đặt ngôi trên”. Lễ cúng vía trâu vào ngày tết lớn không chỉ coi trọng công sức của trâu đã vất vả nhọc nhằn giúp người có được thực phẩm quý hơn cả vàng ngọc, mà còn có ý nghĩa tôn vinh công sức lao động nói chung, chuyên chở những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp.
Tục cúng vía trâu - “Tám khuôn quái” là một sinh hoạt văn hoá độc đáo của người Thái Mường Lò - Văn Chấn - Yên Bái. Tục lệ này có từ lâu đời và được các thế hệ của người Thái Mường Lò duy trì đến ngày nay.
Con trâu gắn liền với nhiều mặt đời sống sinh hoạt và tâm linh của người Thái Mường Lò. Trong sản xuất con trâu là đầu cơ nghiệp. Cũng như nhiều dân tộc có cùng phương thức canh tác lúa nước, người Thái Mường Lò dùng trâu làm sức kéo để khai đất, vỡ hoang, cày bừa… Trâu cùng người vất vả một nắng hai sương, bầu bạn với người, đến khi có thành quả lao động lại chỉ khiêm nhường hưởng cỏ, rơm rạ, để người được hưởng bát cơm dẻo thơm.
Trong lễ “Xên bản - Xên Mường” - tức cúng bản cúng mường, trâu là lễ vật không thể thiếu.
Trong các đám ma đưa tiễn hồn người quá cố về mường trời, trâu là lễ vật không chỉ mang ý nghĩa vật chất đơn thuần, mà còn là tư liệu sản cho hồn người có điều kiện “sống” tiếp ở một thế giới khác. Ngày nay dưới chân dòng thác “Nặm tốc tát” thuộc xã Thạch Lương - huyện Văn Chấn vẫn còn bãi đá thiêng gọi là “Đông quái hà” - tức là rừng trâu chết, tương truyền đó là phần hồn của những con trâu dùng làm vật tế trong các đám ma của người Thái Đen hoá thành. Trên nóc nhà người Thái Đen có biểu tượng “khau cút” là hình hai thanh gỗ đóng chéo nhau hình chữ X mà một trong những ý nghĩa chính là cặp sừng trâu cách điệu.
Con trâu đồng hành với người Thái Mường Lò từ thế giới này sang thế giới khác.
Lễ cúng vía trâu được tổ chức trọng thể vào sáng sớm tết “xíp xí”, tức 14 tháng 7 âm lịch. Đây là tết rất quan trọng của người Thái. Theo lịch Thái cổ, đây là tết rằm tháng giêng, bà con ăn trước một ngày khi mặt trăng đang tới độ hoàn thiện. Ngày xưa người Thái chỉ cấy một vụ. “Xíp xí” là lúc đã cấy xong, trâu đã giúp người hoàn thành một vụ cày bừa vất vả, cần được nghỉ ngơi chăm bẵm để có sức cho vụ tới.
Sáng sớm trẻ em đưa trâu đi tắm rửa sạch sẽ. Người nhà chuẩn bị một mâm lễ vật gồm có: Một con gà nhỏ luộc chín, một bát cơm, một bát gạo, một đĩa muối, nến, hương, có bao nhiêu trâu thì rót bấy nhiêu chén rượu.
Nhà có điều kiện mời bà mo - “một nhính”, còn lại do chủ nhà tự tổ chức.
Bà mo khấn rằng: “Trời làm nên con trâu/ Trâu cái đen đến trước/ Trâu cái trắng đến sau/ Trâu mộng, trâu đực đen/ Trâu quế, trâu cái trắng”. Lời khấn chân thành mộc mạc như nói lên một tất yếu ngẫu nhiên, nhưng mang một ý nghĩa sâu xa: Kiếp trâu vất vả là do trời sinh, mong trâu có sự thông cảm với người. Người cũng dành tình cảm đặc biệt với trâu cái, bởi ngoài cũng vất vả như trâu đực, thì trâu cái còn có thiên chức sinh sản, nuôi con để có đàn trâu đông đúc giúp người. Tiếp theo lời khấn kể về nỗi vất vả của trâu: “Mưa rơi mày xuống cày ruộng mạ/ Sấm sét mày xuống bừa ruộng sâu”.
Người luôn yêu quý trâu. Song có lúc do sức ép của mùa vụ, của cuộc sống, người đối xử với trâu không được như ý: “Trâu ơi xuống ruộng nhé/ Nhưng nếu không ngoan ngoãn/ Vai cày ta đeo vào cổ/ Cây cong ta đeo vào gáy/ Mang vai cày xuống thửa dưới/ Mang cây cong đến thửa trên/ Cây ngắn ta nện, cây dài ta đập/ Bùn đất đầy mông, đầy chân đầy cổ/ Mang nặng quá ngã lăn xuống bùn”. Việc làm ấy của người dù là bất đắc dĩ, ngoài ý muốn thì cũng “Làm sai vía trâu non đang vực/ Sai vía trâu làm trâu bực bội”.
Bản chất con người vốn lương thiện, cảm thông cho nỗi vất vả của trâu đã bầu bạn, vất vả cùng người một nắng hai sương, nên khi biết “làm trái ý trâu nhiều lắm” đã hối hận: “Bởi vậy mới mang con gà to đến mổ/ Đem con gà lớn đến để đền ơn/ Sai ý trâu có gà to đến hầu/ Trái ý trâu có gà lớn đến báo đáp”.
Không chỉ vậy, người chân thành mời trâu hưởng những thành quả lao động trâu đã giúp người làm nên: “Mời vía của trâu/ Mời trâu ăn nhé/ Rượu cái ăn rất ngọt/ Rượu nấu uống rất ngon/ Ăn cơm ruộng thơm dẻo trắng nõn/ Ăn cơm gạo sạch sẽ trắng ngần/ Nhờ có công mày đã cày bừa cho người được ăn cơm/ Mới được thóc ngàn gánh về kho/ Mới có lúa mang về đầy bịch/ Cả gia đình vợ chồng con cái đều được ăn nhờ vào đó/ Có miếng cơm trắng ngon no đủ gia đình mới được ấm cúng trâu ơi!”.
Khấn xong, bà mo đổ rượu, xoa muối vào mồm trâu, rồi bón cơm, thịt gà, cỏ non cho trâu cái trước rồi mới bón cho các con trâu khác. Lúc này mỗi người đều bón cho trâu cỏ, cơm, gà, vỗ về trâu, trẻ em trèo lên lưng trâu vuốt ve âu yếm. Người lớn gói xôi, thịt gà để trẻ em mang trâu ra đồng chăn. Mọi người lên nhà làm lễ cúng tổ tiên, ăn uống vui vẻ và đi chơi thăm thú họ hàng, bè bạn. Ngày hôm sau, ở những nơi không có bãi chăn thả, mọi người mang trâu đi gửi trên các bản người Mông, Dao.
Lễ cúng vía trâu của người Thái Mường Lò mang đậm dấu ấn văn hoá của một nền văn minh lúa nước, đậm đà bản sắc dân tộc. Người Thái có câu: “Thóc lúa đặt ngôi trên”. Lễ cúng vía trâu vào ngày tết lớn không chỉ coi trọng công sức của trâu đã vất vả nhọc nhằn giúp người có được thực phẩm quý hơn cả vàng ngọc, mà còn có ý nghĩa tôn vinh công sức lao động nói chung, chuyên chở những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp.