CTTĐT - Những năm qua, phần lớn người lao động tỉnh Yên Bái sau khi về nước đã nỗ lực tìm kiếm để có việc làm, đã có sự dịch chuyển khá tích cực từ các ngành nông lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, lao động nữ vẫn khó khăn hơn so với lao động nam trong việc tiếp cận đến việc làm có vị thế cao.
Người lao động Người lao động đến Trung tâm giới thiệu việc làm tỉnh Yên Bái điền phiếu tư vấn giới thiệu việc làm khi có nhu cầu xuất khẩu lao động.
Theo báo cáo của các doanh nghiệp và theo số liệu thống kê từ các địa phương, thì số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đến hết tháng 3 năm 2017, tỉnh Yên Bái đã đưa đi gần 11.000 lượt người lao động. Số lao động hiện nay đang làm việc ở nước ngoài là gần 7.000 lao động; Số đã về nước khoảng trên 4.000 người, trong đó chủ yếu do hết hạn hợp đồng chiếm khoảng 85%, còn lại phải về nước trước hạn do vi phạm hợp đồng và rủi ro khách quan. Nhìn chung, lao động tỉnh Yên Bái đi làm việc ở nước ngoài được thị trường chấp nhận, đa số nỗ lực, chủ động học tập, nắm bắt công việc, sáng tạo và cần cù lao động. Thu nhập của lao động đi làm việc ở nước ngoài tương đối ổn định, có thể cao hơn từ 2 đến 3 lần thu nhập trong nước cùng ngành nghề, trình độ. Sau khi trừ các chi phí sinh hoạt, thu nhập tiết kiệm của lao động còn khoảng 5 đến 6 triệu đồng/tháng ở thị trường lao động giản đơn như Malaysia, Lybia, từ 8 đến 10 triệu đồng/tháng ở thị trường có thu nhập trung bình như UAE, Đài Loan, tại Hàn Quốc và Nhật Bản người lao động có thu nhập cao hơn từ 15 đến dưới 35 triệu đồng/tháng. Công việc của lao động tập trung chủ yếu vào một số ngành nghề như sản xuất chế tạo, may mặc, điện tử, giúp việc gia đình, hộ lý, xây dựng… Có thể nói phụ thuộc vào từng nước tiếp nhận mà nghề nghiệp của lao động ở mỗi nơi có khác nhau.
Phần lớn người lao động tỉnh sau khi về nước đã nỗ lực tìm kiếm để có việc làm. Trong tổng số có việc làm, chủ yếu là làm các công việc giản đơn; số người mở doanh nghiệp, làm nghề “quản lý” chỉ chiếm khoảng 1,8%; những người có việc làm với tay nghề “công nhân kỹ thuật bậc cao” chỉ có 0,3%; còn một bộ phận không nhỏ ngưởi trở về vẫn làm các công việc trước kia của họ. Điều đáng lưu ý là, so với trước khi đi nước ngoài, việc làm của những lao động này đã có sự dịch chuyển khá tích cực từ các ngành nông lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, lao động nữ vẫn khó khăn hơn so với lao động nam trong việc tiếp cận đến việc làm có vị thế cao.
Mặc dù, ở các địa phương đều có các Trung tâm giới thiệu việc làm nhưng người lao động sau khi đi làm việc ở nước ngoài trở về lại không tiếp cận được hoặc là bản thân những dịch vụ tư vấn việc làm này chưa đáp ứng được nhu cầu của những lao động trở về. Bởi họ là những người đã có kinh nghiệm làm việc ở nước ngoài, có nguồn tài chính tiết kiệm được trong thời gian làm việc ở nước ngoài và có những mong muốn, nguyện vọng (có thể cao hơn) so với tình hình thực tế việc làm trong nước.
Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo đã giảm mạnh sau khi NLĐ đi làm việc ở nước ngoài trở về. Hầu hết NLĐ cho biết tình trạng kinh tế gia đình của họ sau khi về nước thuộc mức trung bình và khá trở lên. Nhờ có thu nhập ròng cao, người lao động tiết kiệm được và gửi được tiền về cho gia đình. Khoản tiền người lao động gửi về nhà được chia thành hai phần: một phần gia đình chi tiêu vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khoẻ của gia đình đặc biệt là chi tiêu cho việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí; một phần lớn dành để tiết kiệm nhằm mục đích đầu tư trong tương lai.
Bên cạnh đó, ngành lao động đã phối hợp với các cơ quan như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên để triển khai các chương trình hỗ trợ tạo việc làm như chương trình hỗ trợ vốn vay từ quỹ quốc gia, chương trình hỗ trợ dạy nghề và định hướng sử dụng đồng vốn để đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình…
Công tác xuất khẩu lao động đã góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động..., khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững./.
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Những năm qua, phần lớn người lao động tỉnh Yên Bái sau khi về nước đã nỗ lực tìm kiếm để có việc làm, đã có sự dịch chuyển khá tích cực từ các ngành nông lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, lao động nữ vẫn khó khăn hơn so với lao động nam trong việc tiếp cận đến việc làm có vị thế cao.Theo báo cáo của các doanh nghiệp và theo số liệu thống kê từ các địa phương, thì số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đến hết tháng 3 năm 2017, tỉnh Yên Bái đã đưa đi gần 11.000 lượt người lao động. Số lao động hiện nay đang làm việc ở nước ngoài là gần 7.000 lao động; Số đã về nước khoảng trên 4.000 người, trong đó chủ yếu do hết hạn hợp đồng chiếm khoảng 85%, còn lại phải về nước trước hạn do vi phạm hợp đồng và rủi ro khách quan. Nhìn chung, lao động tỉnh Yên Bái đi làm việc ở nước ngoài được thị trường chấp nhận, đa số nỗ lực, chủ động học tập, nắm bắt công việc, sáng tạo và cần cù lao động. Thu nhập của lao động đi làm việc ở nước ngoài tương đối ổn định, có thể cao hơn từ 2 đến 3 lần thu nhập trong nước cùng ngành nghề, trình độ. Sau khi trừ các chi phí sinh hoạt, thu nhập tiết kiệm của lao động còn khoảng 5 đến 6 triệu đồng/tháng ở thị trường lao động giản đơn như Malaysia, Lybia, từ 8 đến 10 triệu đồng/tháng ở thị trường có thu nhập trung bình như UAE, Đài Loan, tại Hàn Quốc và Nhật Bản người lao động có thu nhập cao hơn từ 15 đến dưới 35 triệu đồng/tháng. Công việc của lao động tập trung chủ yếu vào một số ngành nghề như sản xuất chế tạo, may mặc, điện tử, giúp việc gia đình, hộ lý, xây dựng… Có thể nói phụ thuộc vào từng nước tiếp nhận mà nghề nghiệp của lao động ở mỗi nơi có khác nhau.
Phần lớn người lao động tỉnh sau khi về nước đã nỗ lực tìm kiếm để có việc làm. Trong tổng số có việc làm, chủ yếu là làm các công việc giản đơn; số người mở doanh nghiệp, làm nghề “quản lý” chỉ chiếm khoảng 1,8%; những người có việc làm với tay nghề “công nhân kỹ thuật bậc cao” chỉ có 0,3%; còn một bộ phận không nhỏ ngưởi trở về vẫn làm các công việc trước kia của họ. Điều đáng lưu ý là, so với trước khi đi nước ngoài, việc làm của những lao động này đã có sự dịch chuyển khá tích cực từ các ngành nông lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Tuy nhiên, lao động nữ vẫn khó khăn hơn so với lao động nam trong việc tiếp cận đến việc làm có vị thế cao.
Mặc dù, ở các địa phương đều có các Trung tâm giới thiệu việc làm nhưng người lao động sau khi đi làm việc ở nước ngoài trở về lại không tiếp cận được hoặc là bản thân những dịch vụ tư vấn việc làm này chưa đáp ứng được nhu cầu của những lao động trở về. Bởi họ là những người đã có kinh nghiệm làm việc ở nước ngoài, có nguồn tài chính tiết kiệm được trong thời gian làm việc ở nước ngoài và có những mong muốn, nguyện vọng (có thể cao hơn) so với tình hình thực tế việc làm trong nước.
Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo đã giảm mạnh sau khi NLĐ đi làm việc ở nước ngoài trở về. Hầu hết NLĐ cho biết tình trạng kinh tế gia đình của họ sau khi về nước thuộc mức trung bình và khá trở lên. Nhờ có thu nhập ròng cao, người lao động tiết kiệm được và gửi được tiền về cho gia đình. Khoản tiền người lao động gửi về nhà được chia thành hai phần: một phần gia đình chi tiêu vào việc nâng cao mức sống, chăm sóc sức khoẻ của gia đình đặc biệt là chi tiêu cho việc học tập của con cái góp phần nâng cao dân trí; một phần lớn dành để tiết kiệm nhằm mục đích đầu tư trong tương lai.
Bên cạnh đó, ngành lao động đã phối hợp với các cơ quan như Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên để triển khai các chương trình hỗ trợ tạo việc làm như chương trình hỗ trợ vốn vay từ quỹ quốc gia, chương trình hỗ trợ dạy nghề và định hướng sử dụng đồng vốn để đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình…
Công tác xuất khẩu lao động đã góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động..., khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước trong thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững./.