CTTĐT - Sau 10 năm triển khai thực hiện Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đạt được những kết quả quan trọng, đã có một hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách tương đối đồng bộ, điều chỉnh được các hình thức người lao động đi làm việc ở nước ngoài, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, góp phần phát triển hoạt động này một cách bền vững.
Người lao động tham dự hội nghị tư vấn xuất khẩu lao động tại xã Vĩnh Kiên, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái
Cùng với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương, thời gian qua, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã phối hợp với các Sở, ngành và các địa phương nghiên cứu ban hành nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là các đối tượng chính sách xã hội, bao gồm: Chính sách cho người lao động vay tín dụng để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo đó, người lao động được vay tín dụng tại các Ngân hàng thương mại (như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Liên Việt) để trang trải các chi phí trước khi đi. Riêng đối với người lao động thuộc hộ nghèo và thuộc các đối tượng chính sách được vay tín dụng với lãi suất ưu đãi tại Ngân hàng chính sách xã hội; Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành chính sách thuận lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài chuyển thu nhập về nước thông qua hệ thống Ngân hàng như gửi tiền vào tài khoản, gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ, rút tiền mặt bằng ngoại tệ...; Chính sách hỗ trợ người nghèo, người thuộc diện đối tượng chính sách được học nghề đi làm việc ở nước ngoài; Chính sách đơn giản hóa thủ tục hành chính trong cấp hộ chiếu cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Công an tỉnh thực hiện); Đơn giản hóa các thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Sở Ngoại vụ hỗ trợ thực hiện); Chính sách hỗ trợ đối với số lao động gặp rủi ro, phải về nước do nguyên nhân bất khả kháng (Quyết định hỗ trợ kinh phí cho số lao động đi làm việc tại Lybia phải về nước do chiến tranh).
Hàng năm Ủy ban nhân dân tỉnh đều có quyết định giao chỉ tiêu xuất khẩu lao động trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cụ thể, mỗi năm giao chỉ tiêu toàn tỉnh đưa từ 500 đến 1.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Tỉnh Yên Bái cũng thành lập, củng cố Ban chỉ đạo Xuất khẩu lao động các cấp, thành lập tổ chuyên viên giúp việc Ban chỉ đạo cấp tỉnh, huyện, trong đó cán bộ ngành Lao động - Thương binh và Xã hội làm thường trực. Từ cuối năm 2009, nhiệm vụ xuất khẩu lao động được bổ sung cho các trung tâm dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội để thực hiện nhiệm vụ tư vấn, tạo nguồn xuất khẩu lao động.
Tại cấp xã thực hiện mô hình liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động với chính quyền địa phương (xây dựng đội ngũ cộng tác viên là các cán bộ đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ các xã, thị trấn) đã giúp tăng cường công tác quản lý hoạt động tuyển chọn lao động xuất khẩu trên địa bàn, ngăn ngừa hữu hiệu các hiện tượng người lao động phải thông qua các tổ chức trung gian, giúp các doanh nghiệp tuyển chọn được lao động đủ tiêu chuẩn đi làm việc ở nước ngoài.
Các cấp, các ngành đã tích cực triển khai thực hiện Luật. Đã có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền để phổ biến chính sách, pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Công tác quản lý nhà nước về người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã được tăng cường. Các cơ quan Nhà nước đã được phân công trách nhiệm rõ ràng và thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp chính quyền được nâng lên. Các Sở, ngành và địa phương đã phối hợp, quản lý và tạo điều kiện để hoạt động này phát triển.
Hàng năm, công tác tuyên truyền cũng được ngành quan tâm, từ nguồn ngân sách đảm bảo xã hội địa phương, Sở Lao động - Thương binh và xã hội đã dành một phần kinh phí ký hợp đồng với cơ quan thông tin đại chúng Báo Yên Bái, Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh, đăng hàng trăm tin bài về hoạt động của các doanh nghiệp, mô hình hay trong liên kết với chính quyền địa phương, những điển hình tiên tiến, hiệu quả nổi bật của lao động khi tham gia xuất khẩu lao động.
Công tác quản lý hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp dịch vụ được tỉnh thực hiện thông qua các hoạt động như: Phối hợp với các địa phương trong việc giám sát các hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp dịch vụ trên địa bàn toàn tỉnh, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động; Phối hợp với cơ quan Công An tỉnh để xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động. Đến thời điểm 31/3/2017, theo Điều 27 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đã có 45 lượt doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đến đăng ký tuyển dụng với Sở. Hầu hết các doanh nghiệp dịch vụ ngay sau khi được Sở cấp giấy giới thiệu xuống địa bàn của các huyện, thị xã đều chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, các Trung tâm dịch vụ việc làm để phối hợp tuyển dụng lao động. Thực hiện thông báo công khai minh bạch nội dung số lượng, cơ cấu ngành nghề tuyển dụng, chi phí trước khi đi, mức lương cơ bản và thu nhập theo đúng quy định của Phiếu trả lời hợp đồng do Cục Quản lý LĐNN đồng ý cho phép thực hiện.
Sở đã tiếp nhận 48 đơn thư, khiếu nại của người lao động. Thông qua việc chỉ đạo xử lý đơn thư, khiếu nại của người lao động, Sở đã kết hợp rà soát, kiểm tra để chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Qua đó, cũng đã phát hiện những vi phạm của các doanh nghiệp để xử lý theo quy định của pháp luật. Qua công tác kiểm tra, đã có nhiều văn bản chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp có trách nhiệm bồi thường đối với người lao động khi phải về nước trước hạn hoặc đã nộp tiền cho doanh nghiệp mà không được đưa đi XKLĐ.
Qua hệ thống báo cáo của doanh nghiệp và theo số liệu thống kê từ các địa phương thì số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đến hết tháng 3 năm 2017, tỉnh Yên Bái đã đưa đi gần 11.000 lượt người lao động; tại các thị trường với tỷ lệ, số lượng như sau: Malaysia (45,4% tương đương trên 4.998 lao động), Đài Loan (14,2% tương đương trên 1.551 lao động), Hàn Quốc (4,2% tương đương gần 464 lao động), Nhật Bản (5,78% tương đương 636 lao động), Châu phi và Trung Đông (8,18% tương đương 900 lao động) các nước khác (22,2% tương đương trên 2.450 lao động). Số lao động làm việc theo hợp đồng nhận thầu khoán công trình, dự án của các chủ đầu tư trúng thầu, nhận thầu đầu tư ra nước ngoài, hoặc đi lao động tự do theo hợp đồng công việc cá nhân lên đến hàng nghìn người, tập trung ở các thị trường như Lào, Cộng hoà Síp, Macao, Campuchia, Trung Quốc. Số lao động hiện nay đang làm việc ở nước ngoài là gần 7.000 lao động; Số đã về nước khoảng trên 4.000 người, trong đó chủ yếu do hết hạn hợp đồng chiếm khoảng 85%, còn lại phải về nước trước hạn do vi phạm hợp đồng và rủi ro khách quan.
Nhìn chung, lao động đi làm việc ở nước ngoài được thị trường chấp nhận, đa số nỗ lực, chủ động học tập, nắm bắt công việc, sáng tạo và cần cù lao động. Thu nhập của lao động đi làm việc ở nước ngoài tương đối ổn định, có thể cao hơn từ 2 đến 3 lần thu nhập trong nước cùng ngành nghề, trình độ. Sau khi trừ các chi phí sinh hoạt, thu nhập tiết kiệm của lao động còn khoảng 5 đến 6 triệu đồng/tháng ở thị trường lao động giản đơn như Malaysia, Lybia, từ 8 đến 10 triệu đồng/tháng ở thị trường có thu nhập trung bình như UAE, Đài Loan, tại Hàn Quốc và Nhật Bản người lao động có thu nhập cao hơn từ 15 đến dưới 35 triệu đồng/tháng. Công việc của lao động tập trung chủ yếu vào một số ngành nghề như sản xuất chế tạo, may mặc, điện tử, giúp việc gia đình, hộ lý, xây dựng…
Phần lớn người lao động sau khi về nước đã nỗ lực tìm kiếm để có việc làm; Trong tổng số có việc làm, chủ yếu là làm các công việc giản đơn; số người mở doanh nghiệp, làm nghề “quản lý” chỉ chiếm khoảng 1,8%; những người có việc làm với tay nghề “công nhân kỹ thuật bậc cao” chỉ có 0,3%; còn một bộ phận không nhỏ ngưởi trở về vẫn làm các công việc trước kia của họ. Điều đáng lưu ý là, so với trước khi đi nước ngoài, việc làm của những lao động này đã có sự dịch chuyển khá tích cực từ các ngành nông lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Việc thực hiện Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động..., khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước coi xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa./.
Ban Biên tập
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Sau 10 năm triển khai thực hiện Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đạt được những kết quả quan trọng, đã có một hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách tương đối đồng bộ, điều chỉnh được các hình thức người lao động đi làm việc ở nước ngoài, phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế, góp phần phát triển hoạt động này một cách bền vững.Cùng với các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan trung ương, thời gian qua, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội cũng đã phối hợp với các Sở, ngành và các địa phương nghiên cứu ban hành nhiều chính sách cụ thể hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt là các đối tượng chính sách xã hội, bao gồm: Chính sách cho người lao động vay tín dụng để đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, theo đó, người lao động được vay tín dụng tại các Ngân hàng thương mại (như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Liên Việt) để trang trải các chi phí trước khi đi. Riêng đối với người lao động thuộc hộ nghèo và thuộc các đối tượng chính sách được vay tín dụng với lãi suất ưu đãi tại Ngân hàng chính sách xã hội; Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành chính sách thuận lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài chuyển thu nhập về nước thông qua hệ thống Ngân hàng như gửi tiền vào tài khoản, gửi tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ, rút tiền mặt bằng ngoại tệ...; Chính sách hỗ trợ người nghèo, người thuộc diện đối tượng chính sách được học nghề đi làm việc ở nước ngoài; Chính sách đơn giản hóa thủ tục hành chính trong cấp hộ chiếu cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Công an tỉnh thực hiện); Đơn giản hóa các thủ tục hợp pháp hóa lãnh sự cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài (Sở Ngoại vụ hỗ trợ thực hiện); Chính sách hỗ trợ đối với số lao động gặp rủi ro, phải về nước do nguyên nhân bất khả kháng (Quyết định hỗ trợ kinh phí cho số lao động đi làm việc tại Lybia phải về nước do chiến tranh).
Hàng năm Ủy ban nhân dân tỉnh đều có quyết định giao chỉ tiêu xuất khẩu lao động trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Cụ thể, mỗi năm giao chỉ tiêu toàn tỉnh đưa từ 500 đến 1.000 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Tỉnh Yên Bái cũng thành lập, củng cố Ban chỉ đạo Xuất khẩu lao động các cấp, thành lập tổ chuyên viên giúp việc Ban chỉ đạo cấp tỉnh, huyện, trong đó cán bộ ngành Lao động - Thương binh và Xã hội làm thường trực. Từ cuối năm 2009, nhiệm vụ xuất khẩu lao động được bổ sung cho các trung tâm dạy nghề, giới thiệu việc làm thuộc ngành Lao động - Thương binh và Xã hội để thực hiện nhiệm vụ tư vấn, tạo nguồn xuất khẩu lao động.
Tại cấp xã thực hiện mô hình liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động với chính quyền địa phương (xây dựng đội ngũ cộng tác viên là các cán bộ đoàn thanh niên, hội liên hiệp phụ nữ các xã, thị trấn) đã giúp tăng cường công tác quản lý hoạt động tuyển chọn lao động xuất khẩu trên địa bàn, ngăn ngừa hữu hiệu các hiện tượng người lao động phải thông qua các tổ chức trung gian, giúp các doanh nghiệp tuyển chọn được lao động đủ tiêu chuẩn đi làm việc ở nước ngoài.
Các cấp, các ngành đã tích cực triển khai thực hiện Luật. Đã có nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền để phổ biến chính sách, pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Công tác quản lý nhà nước về người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã được tăng cường. Các cơ quan Nhà nước đã được phân công trách nhiệm rõ ràng và thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định của pháp luật. Nhận thức và ý thức trách nhiệm của các cấp chính quyền được nâng lên. Các Sở, ngành và địa phương đã phối hợp, quản lý và tạo điều kiện để hoạt động này phát triển.
Hàng năm, công tác tuyên truyền cũng được ngành quan tâm, từ nguồn ngân sách đảm bảo xã hội địa phương, Sở Lao động - Thương binh và xã hội đã dành một phần kinh phí ký hợp đồng với cơ quan thông tin đại chúng Báo Yên Bái, Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh, đăng hàng trăm tin bài về hoạt động của các doanh nghiệp, mô hình hay trong liên kết với chính quyền địa phương, những điển hình tiên tiến, hiệu quả nổi bật của lao động khi tham gia xuất khẩu lao động.
Công tác quản lý hoạt động XKLĐ của các doanh nghiệp dịch vụ được tỉnh thực hiện thông qua các hoạt động như: Phối hợp với các địa phương trong việc giám sát các hoạt động xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp dịch vụ trên địa bàn toàn tỉnh, kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm trong lĩnh vực xuất khẩu lao động; Phối hợp với cơ quan Công An tỉnh để xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về xuất khẩu lao động. Đến thời điểm 31/3/2017, theo Điều 27 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, đã có 45 lượt doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài đến đăng ký tuyển dụng với Sở. Hầu hết các doanh nghiệp dịch vụ ngay sau khi được Sở cấp giấy giới thiệu xuống địa bàn của các huyện, thị xã đều chủ động phối hợp với chính quyền địa phương, các Trung tâm dịch vụ việc làm để phối hợp tuyển dụng lao động. Thực hiện thông báo công khai minh bạch nội dung số lượng, cơ cấu ngành nghề tuyển dụng, chi phí trước khi đi, mức lương cơ bản và thu nhập theo đúng quy định của Phiếu trả lời hợp đồng do Cục Quản lý LĐNN đồng ý cho phép thực hiện.
Sở đã tiếp nhận 48 đơn thư, khiếu nại của người lao động. Thông qua việc chỉ đạo xử lý đơn thư, khiếu nại của người lao động, Sở đã kết hợp rà soát, kiểm tra để chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Qua đó, cũng đã phát hiện những vi phạm của các doanh nghiệp để xử lý theo quy định của pháp luật. Qua công tác kiểm tra, đã có nhiều văn bản chấn chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp và yêu cầu doanh nghiệp có trách nhiệm bồi thường đối với người lao động khi phải về nước trước hạn hoặc đã nộp tiền cho doanh nghiệp mà không được đưa đi XKLĐ.
Qua hệ thống báo cáo của doanh nghiệp và theo số liệu thống kê từ các địa phương thì số lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đến hết tháng 3 năm 2017, tỉnh Yên Bái đã đưa đi gần 11.000 lượt người lao động; tại các thị trường với tỷ lệ, số lượng như sau: Malaysia (45,4% tương đương trên 4.998 lao động), Đài Loan (14,2% tương đương trên 1.551 lao động), Hàn Quốc (4,2% tương đương gần 464 lao động), Nhật Bản (5,78% tương đương 636 lao động), Châu phi và Trung Đông (8,18% tương đương 900 lao động) các nước khác (22,2% tương đương trên 2.450 lao động). Số lao động làm việc theo hợp đồng nhận thầu khoán công trình, dự án của các chủ đầu tư trúng thầu, nhận thầu đầu tư ra nước ngoài, hoặc đi lao động tự do theo hợp đồng công việc cá nhân lên đến hàng nghìn người, tập trung ở các thị trường như Lào, Cộng hoà Síp, Macao, Campuchia, Trung Quốc. Số lao động hiện nay đang làm việc ở nước ngoài là gần 7.000 lao động; Số đã về nước khoảng trên 4.000 người, trong đó chủ yếu do hết hạn hợp đồng chiếm khoảng 85%, còn lại phải về nước trước hạn do vi phạm hợp đồng và rủi ro khách quan.
Nhìn chung, lao động đi làm việc ở nước ngoài được thị trường chấp nhận, đa số nỗ lực, chủ động học tập, nắm bắt công việc, sáng tạo và cần cù lao động. Thu nhập của lao động đi làm việc ở nước ngoài tương đối ổn định, có thể cao hơn từ 2 đến 3 lần thu nhập trong nước cùng ngành nghề, trình độ. Sau khi trừ các chi phí sinh hoạt, thu nhập tiết kiệm của lao động còn khoảng 5 đến 6 triệu đồng/tháng ở thị trường lao động giản đơn như Malaysia, Lybia, từ 8 đến 10 triệu đồng/tháng ở thị trường có thu nhập trung bình như UAE, Đài Loan, tại Hàn Quốc và Nhật Bản người lao động có thu nhập cao hơn từ 15 đến dưới 35 triệu đồng/tháng. Công việc của lao động tập trung chủ yếu vào một số ngành nghề như sản xuất chế tạo, may mặc, điện tử, giúp việc gia đình, hộ lý, xây dựng…
Phần lớn người lao động sau khi về nước đã nỗ lực tìm kiếm để có việc làm; Trong tổng số có việc làm, chủ yếu là làm các công việc giản đơn; số người mở doanh nghiệp, làm nghề “quản lý” chỉ chiếm khoảng 1,8%; những người có việc làm với tay nghề “công nhân kỹ thuật bậc cao” chỉ có 0,3%; còn một bộ phận không nhỏ ngưởi trở về vẫn làm các công việc trước kia của họ. Điều đáng lưu ý là, so với trước khi đi nước ngoài, việc làm của những lao động này đã có sự dịch chuyển khá tích cực từ các ngành nông lâm nghiệp sang các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Việc thực hiện Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động..., khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước coi xuất khẩu lao động là một chiến lược quan trọng lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa./.