Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Yên Bái: Đề án 1956 góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn

28/10/2019 09:02:00 Xem cỡ chữ
Sau 10 năm triển khai thực hiện Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đến nay chất lượng lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh đã có bước cải thiện đáng kể, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động, giảm nghèo và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh.

Mục tiêu trong giai đoạn 2011 - 2015, toàn tỉnh có 10.326 người được học nghề ở lĩnh vực phi nông nghiệp

Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn trên địa bàn tỉnh đã nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh và sự quan tâm chỉ đạo, thực hiện của cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và điều hành của các cấp, ngành, các hội đoàn thể. Với đặc điểm lực lượng lao động nông thôn tham gia hoạt động kinh tế chiếm 83% lực lượng lao động toàn tỉnh, để thực hiện tốt nhiệm vụ đào tạo nghề trong giai đoạn năm 2010 - 2020, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động nông thôn, ngày 09/5/2011, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Yên Bái đến năm 2020” tại Quyết định số 625/QĐ-UBND. Đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện Đề án; thành lập, kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp; tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn học nghề và việc làm đối với lao động nông thôn bằng nhiều hình thức.

Để công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiệu quả, công tác khảo sát nhu cầu học nghề được quan tâm thực hiện. Hàng năm, các huyện, thị xã, thành phố đã tổ chức rà soát, xác định nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn từ các xã, thị trấn; căn cứ quy hoạch phát triển ngành, nghề và nhu cầu sử dụng lao động để xây dựng kế hoạch đào tạo cho phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế và yêu cầu chuyển dịch cơ cấu lao động ở từng địa phương. Trên cơ sở kế hoạch, đề xuất của cấp huyện, Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành kế hoạch đào tạo nghề hàng năm và 5 năm giai đoạn (2010 - 2015; 2016 - 2020) trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Qua khảo sát, đã góp phần giúp cấp ủy và chính quyền các cấp có cơ sở đánh giá đúng về chất lượng nguồn nhân lực của địa phương; nắm bắt được thông tin về nhu cầu đào tạo của lao động và nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp để có kế hoạch đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của địa phương mình. Việc lựa chọn ngành nghề đào tạo phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội địa phương cũng đã góp phần đưa tỷ lệ lao động được giải quyết việc làm sau đào tạo ngày càng tăng.

Hàng năm, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có văn bản đề nghị các địa phương, cơ sở giáo dục nghề nghiệp rà soát, đề xuất danh mục các nghề đào tạo cho lao động nông thôn. Đến nay tổng số nghề đào tạo cho lao động nông thôn tại tỉnh Yên Bái được phê duyệt định mức chi phí đào tạo là 55 nghề gồm 20 nghề nông nghiệp, 35 nghề phi nông nghiệp. Một số nghề đặc thù, các cơ sở dạy nghề đã biên soạn được chương trình và tài liệu giảng dạy để đáp ứng yêu cầu dạy nghề, truyền nghề.

Bên cạnh đó, tỉnh cũng đặc biệt quan tâm đến công tác đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị cho cơ sở dạy nghề. Trong 10 năm (2010 - 2019), đã có 12 cơ sở giáo dục nghề nghiệp được đầu tư kinh phí để xây dựng cơ sở vật chất và mua sắm thiết bị dạy nghề đáp ứng yêu cầu dạy nghề cho lao động nông thôn. Trung tâm Dạy nghề và GDTX huyện Văn Yên được đầu tư trở thành trung tâm dạy nghề kiểu mẫu. Tổng kinh phí đầu tư giai đoạn 2010 - 2019 là: 71.441 triệu đồng, trong đó, kinh phí mua sắm thiết bị dạy nghề 41.513 triệu đồng (chiếm 58%); xây dựng cơ sở vật chất 29.928 triệu đồng (chiếm 42%). Chia theo cơ cấu nguồn vốn: ngân sách trung ương 48.641 triệu đồng (chiếm 68%); ngân sách địa phương 22.800 triệu đồng (chiếm 32%).

Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, nhân lực đáp ứng yêu cầu hoạt động định hướng phát triển. Các trung tâm cấp huyện được xây dựng nhà làm việc, lớp học, đầu tư thiết bị đào tạo nghề (các nghề nông nghiệp, nghề may công nghiệp, điện dân dụng, cơ khí...) bước đầu đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Các thiết bị đào tạo nghề được đầu tư mua sắm khá phù hợp với ngành, nghề, quy mô đào tạo có trên 80% số thiết bị được đưa vào khai thác, sử dụng hiệu quả trong giảng dạy, đáp ứng tốt yêu cầu đào tạo. Việc đầu tư xe bán tải cho 02 trường trung cấp nghề và 04 trung tâm giáo dục nghề nghiệp công lập cấp huyện đã đem lại hiệu quả thiết thực trong việc chuyên chở thiết bị đào tạo nghề đến các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề lưu động cho lao động nông thôn ở các địa phương.

Qua 10 năm thực hiện Đề án đã có nhiều cách làm hay, thiết thực, đưa ra nhiều mô hình dạy nghề và hình thức dạy nghề phù hợp. Một số mô hình được triển khai hiệu quả như mô hình đào tạo nghề cho lao động ở vùng chuyên canh, vùng nguyên liệu cây công nghiệp; dạy nghề cho các lao động trong các làng nghề; mô hình dạy nghề ngắn hạn cho các lao động nông thôn ở cộng đồng. Hoạt động dạy nghề cho lao động nông thôn không chỉ huy động các cơ sở dạy nghề mà còn thu hút các nhà khoa học, các lao động kỹ thuật, các nghệ nhân, người có tay nghề cao trong các làng nghề tham gia giảng dạy.

Để công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn hiệu quả, bên cạnh việc sắp xếp các cơ sở dạy nghề phù hợp với thực tế và đầu tư cơ sở vật chất, cũng như đội ngũ giáo viên, chương trình giáo trình dạy nghề được quan tâm thực hiện. Giai đoạn 2010 - 2019, đã biên soạn mới và chỉnh sửa 43 bộ chương trình, giáo trình dạy nghề cho lao động nông thôn, trong đó có điều chỉnh về nội dung và thời gian đào tạo cho phù hợp với yêu cầu thực tế tại địa phương như nghề kỹ thuật trồng nấm, chăn nuôi lợn nái sinh sản, chế biến măng tre bát độ, trồng dâu nuôi tằm, kỹ thuật nuôi ong mật... Với việc xây dựng chương trình, giáo trình đào tạo đã tạo điều kiện thống nhất về tên nghề, nội dung đào tạo, định mức chi phí đào tạo ở từng nghề do các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh tham gia đào tạo, đảm bảo thống nhất về kiến thức, kỹ năng của nghề để các cơ sở dạy nghề tổ chức đào tạo ở các địa phương, qua đó đã đóng góp quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo.

Trong 10 năm (2010 - 2019), từ các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động dạy nghề của các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp, hoạt động truyền nghề, tự học nghề... tỉnh Yên Bái đã đào tạo cho 149.952 người, trong đó có 118.059 lao động nông thôn (chiếm 79%). Riêng thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956, toàn tỉnh đã mở 1.680 lớp, với số lao động nông thôn được học nghề là 49.346 người (bình quân gần 5.000 người/năm). Số lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo nghề ở lĩnh vực nông nghiệp là 33.178 người (chiếm 67,2%), lĩnh vực phi nông nghiệp là 16.168 người (chiếm 32,8%).

Trong tổng số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, đã có 409 người thuộc diện được hưởng chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; 34.437 người dân tộc thiểu số; 8.761 người thuộc hộ nghèo; 1.274 người người thuộc hộ bị thu hồi đất; 154 người người khuyết tật; 1.575 người người thuộc hộ cận nghèo tham gia học nghề.

Hiệu quả triển khai thực hiện Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn cho thấy, sau 10 năm đã có 44.526 lao động nông thôn (được hỗ trợ đào tạo) có việc làm sau khi học nghề, đạt 90% (44.526/49.346 người). Trong đó, lao động có việc làm sau khi được đào tạo nghề ở lĩnh vực nông nghiệp là 31.553/33.178 người, đạt tỷ lệ 95% (bao gồm những người sau khi học nghề tiếp tục làm việc với năng suất và thu nhập cao hơn trước); lao động có việc làm sau khi được đào tạo nghề ở lĩnh vực phi nông nghiệp là 12.973/16.168 người, đạt tỷ lệ 80% (bao gồm những người được tạo việc làm mới).

Đã có 2.629 lượt người được doanh nghiệp, đơn vị tuyển dụng; 3.193 lượt người được doanh nghiệp, đơn vị bao tiêu sản phẩm, 38.056 lượt người tự tạo việc làm; 648 lượt người tự thành lập tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp; 1.505 lượt người thuộc hộ thoát nghèo sau 1 năm học nghề; 4.334 lượt người thuộc hộ có thu nhập khá sau 1 năm học nghề.

Kết quả dạy nghề cho lao động nông thôn theo Đề án 1956 đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng lao động nông thôn cũng như chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn tỉnh đến cuối năm 2019 đạt 60%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có văn bằng, chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo đạt 29,4%. Đào tạo nghề đã có đóng góp quan trọng trong việc tạo việc làm cho trên 18.000 lao động mỗi năm của tỉnh, góp phần chung vào công tác giảm nghèo tại tỉnh Yên Bái. Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đã đóng góp quan trọng trong việc nâng cao năng suất, tạo việc làm, giảm nghèo, góp phần phát triển kinh tế xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở từng địa phương và của tỉnh theo hướng hiệu quả, bền vững.

Tính đến thời điểm 01/4/2019, dân số trung bình của tỉnh đạt 821.030 người, trong đó dân số thành thị 162.510 người (chiếm 19,79%), dân số nông thôn 658.520 người (chiếm 80,21%). Dân số trong độ tuổi lao động đạt 545.951 người, trong đó nam chiếm 50,3%, nữ chiếm 49,7%. Lực lượng lao động tham gia hoạt động kinh tế đạt 484.553 người (chiếm 88,7% so với dân số trong độ tuổi lao động), trong đó khu vực nông thôn 401.900 người (chiếm 83%), khu vực thành thị 82.653 người (chiếm 17%).

Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 , 2015, 2016, 2017, 2018, ước hết năm 2019, 2020 lần lượt là: 32,2%, 45%, 47,5%, 51%, 54%, 60%, 63%; trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề năm 2010 là 18,2%, năm 2015 là 30%, năm 2016 là 32,4%, từ năm 2017 không thống kê tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề mà thống kê tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 3 tháng trở lên có văn bằng, chứng chỉ công nhận kết quả đào tạo, năm 2017 đạt 26,2%, năm 2018 đạt 27,8%, năm 2019 đạt 29,4%, năm 2020 ước đạt 30,7%

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 13 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, ngoài ra còn có 03 cơ sở có tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp.

Mục tiêu trong giai đoạn 2011 - 2015, toàn tỉnh có 48.465 lao động nông thôn được đào tạo nghề; trong đó hỗ trợ đặt hàng đào tạo tạo nghề trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng cho 29.265 người (18.939 người được học nghề ở lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 65%; 10.326 người được học nghề ở lĩnh vực phi nông nghiệp, chiếm 35%),

Giai đoạn 2016 - 2020: Có khoảng 62.300 lao động nông thôn được đào tạo nghề; trong đó hỗ trợ đặt hàng đào tạo tạo nghề trình độ sơ cấp và đào tạo dưới 3 tháng cho 27.500 người (17.000 người được học nghề ở lĩnh vực nông nghiệp, chiếm 55-62%; 10.500 người được học nghề ở lĩnh vực phi nông nghiệp, chiếm 38-45%).

 
Ban Biên tập