Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Bảo tồn văn hóa phi vật thể cấp quốc gia >> Văn hóa - Xã hội

Lễ cúng rừng Xên Đông - Tộc người Thái, xã Hạnh Sơn huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái.

04/10/2017 10:37:40 Xem cỡ chữ Google
CTTĐT - Lễ hội xên đông của tộc người Thái rất độc đáo, thể hiện những giá trị văn hóa đặc sắc, phong phú của người Thái nơi đây, lễ cúng diễn ra rất đơn giản, mang đậm chất sơ khai của người dân bản địa. Theo quan niệm của người Thái đây là dịp tạ ơn, tưởng nhớ tổ tiên, cảm tạ trời đất, cúng ma mường, ma bản, những người đã có công khai mường tạo bản, xin các đấng siêu nhiên phù hộ cho dân bản thóc lúa đầy bồ, con cháu mạnh khỏe, xin các ma giữ lấy cổng làng, bảo vệ dân bản.

Ảnh lễ cúng rừng Xên Đông - Tộc người Thái

* Khái quát về tộc người Thái ở tỉnh Yên Bái

- Người Thái trên địa bàn tỉnh Yên Bái.

Tỉnh Yên Bái nằm ở cửa ngõ miền Tây Bắc của Tổ quốc, với nhiều tộc người sinh cư lập nghiệp. Hiện nay, vùng đất Yên Bái là nơi quần cư của 30 dân tộc, với số dân trên 780.000 người, trong đó dân tộc Thái có khoảng 41.000 người chiếm 6,1% dân số toàn tỉnh (Theo số liệu thống kê năm 2009). Đồng bào sống tập trung ở 4 huyện, thị phía Tây: Văn Chấn, thị xã Nghĩa Lộ, Trạm Tấu và Mù Cang Chải, đông nhất là ở các xã của huyện Văn Chấn như: Tú Lệ, Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Hạnh Sơn, Phúc Sơn, Thanh Lương, Phù Nham, Sơn A, Sơn Lương, Gia Hội. Ngoài ra, người Thái còn ở các xã, phường của thị xã Nghĩa Lộ; xã Hát Lừu (huyện Trạm Tấu) và một số ít ở huyện Mù Cang Chải.

Người Thái ở Yên Bái còn tự gọi mình là Tay, "Táy Khao" là Thái trắng, "Táy Đăm" là Thái Đen. Để phân biệt “Táy Khao” và “Táy Đăm” chủ yếu dựa trên trang phục của phụ nữ và các đặc điểm về văn hoá truyền thống. Áo "cỏm" người Thái trắng thường may bằng vải bông màu trắng, cổ xẻ chạy xuống theo hình chữ V, còn áo "cỏm" người Thái đen may bằng vải chàm đen, cổ áo đứng ba phân ôm khít lấy cổ. Ngoài ra, trong các ngày hội vui, thiếu nữ Thái trắng thường đội khăn trắng hoặc nón tát rộng vành, thiếu nữ Thái đen đội khăn "piêu". Phụ nữ Thái đen khi đã lấy chồng có tục búi tóc ngược "tẳng cẩu" nhưng phụ nữ Thái trắng vẫn búi tóc sau gáy. Khi chết, người Thái đen phải hỏa táng mới về được mường trời còn người Thái trắng là địa táng.

Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với môi trường trồng lúa nước, trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của người Thái mà tỉnh Yên Bái có được những cánh đồng nổi tiếng như Mường Lò, Tú Lệ. Lúa nước là nguồn lương thực chính của đồng bào, đặc biệt người Thái sử dụng nhiều lúa nếp.

Người Thái ở tỉnh Yên Bái phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi hàng hoá với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm, thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc, mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị khá cao cả về thẩm mỹ, văn hoá và giá trị sử dụng. Đồng bào ở nhà sàn, hai đầu hồi nhà có 2 “khau cút”. Trong nhà đáng chú ý là chiếc cột sàn "hóng luông"  đặt bàn thờ ma hay tổ tiên (khô hóng). Nơi này chỉ có người chủ gia đình là nam giới được nằm. Nhà sàn Thái trước đây chủ yếu lợp bằng giang và ván thông, ngày nay theo sự phát triển, vật liệu lợp nhà dần dần đã được thay thế bằng các loại mới như ngói và tấm lợp.

Sinh hoạt ẩm thực của đồng bào Thái cũng khá cầu kỳ trong cách chế biến, sắp đặt, sử dụng gia vị và các phụ gia, gia vị nào đi theo món ăn đó, một món ăn của người Thái thường được chế biến khá công phu với các kỹ thuật chế biến làm sao không mất đi các hương vị đặc trưng của món ăn. Cách chế biến của người Thái có nhiều loại như nướng, lam, xôi, đồ, ủ, hấp, luộc, sấy, xào, rán và ăn sống trong đó cách xôi và nướng, lam, sấy được đồng bào sử dụng nhiều hơn cả. Cá là một thực phẩm khá phổ biến trong sinh hoạt hàng ngày của người dân trong đó món cá nướng “Pa pỉnh tộp” là một đặc sản nổi tiếng của người Thái Nghĩa Lộ.

Gia đình người Thái thường có 3 đến 4 thế hệ chung sống đầm ấm, ngày nay mỗi gia đình thường có từ 1 đến 3 thế hệ, các gia đình lớn “tứ đại” không còn thấy xuất hiện nhiều trong các bản làng người Thái ở Yên Bái. Gia đình tộc người có tính bền chặt cao, vợ chồng sống chung thuỷ, ít mâu thuẫn  bởi các giá trị truyền thống trong gia đình được quy định và điều chỉnh bằng những luật tục hết sức chặt chẽ. Tục ở rể vẫn còn phổ biến, ở cho đến khi vợ chồng trẻ có con mới về nhà chồng. Lễ hỏi cưới được chuẩn bị từ nhiều tháng trước, nhà trai lo các lễ vật đi dạm hỏi, nhà gái lo đủ 3 bộ chăn đệm gánh về nhà trai trong ngày cưới. Trong đó có đủ chăn, đệm, gối gánh riêng cho bố mẹ chồng.

Tín ngưỡng truyền thống của người Thái hết sức phong phú và đa dạng. Ngoài thờ cúng tổ tiên, người Thái còn thờ các thần thánh khác như thờ cúng bản mường, ruộng đồng, thờ thần "then" của các dòng họ có người làm "then"… Đồng bào quan niệm chết là tiếp tục sống ở thế giới bên kia nên đám ma là lễ tiễn đưa người chết về “Mường trời”. Lễ tang của người Thái trắng diễn ra thông thường như các dân tộc khác là tiễn đưa người quá cố chôn cất sau khi mất, còn người Thái đen có tục  thiêu xác. Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng của người Thái ở tỉnh Yên Bái, theo chu kỳ một năm, đồng bào có nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường, xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then…cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”, các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Xíp xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của đồng bào.

Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các  làn  điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong đời sống hàng ngày của người dân. “Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong cách sống bình lặng nhưng lãng mạng, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội nàng Han, hội chơi hang Thẩm Lé vào tháng giêng, nhiều trò chơi như “Hạn khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...Trong cộng đồng, các loại nhạc cụ dân tộc vẫn được lưu truyền như khèn bè và 7 loại Pí (sáo) rất độc đáo như “Pí tót” là loại sáo chỉ một lỗ, “Pí pặp” là sáo của tình yêu dùng để gọi nhau tâm tình, “Pí rạ” dùng ống rạ để thổi,  ...Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca nổi tiếng như “Xống trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương...các cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: "Quăm Tố Mương" (chuyện kể bản mường), "Cầm Hánh Tạp sấc klơng" (Cầm Hánh đánh giặc Cờ Vàng), ... nói lên lịch sử di thiên và truyền thống văn hoá của đồng bào Thái vùng Mường Lò (Nghĩa Lộ, Văn Chấn).

* Người Thái ở huyện Văn Chấn.

- Khái quát chung về huyện Văn Chấn.

+ Đặc điểm tự nhiên:

Vị trí địa lý: Huyện Văn Chấn là huyện miền núi của tỉnh Yên Bái, nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc. Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 1.205,2km2 miền núi, chiếm 17% diện tích toàn tỉnh. Huyện nằm ở phía Tây Nam tỉnh Yên Bái, phía Bắc giáp huyện Mù Cang Chải, phía Đông giáp huyện Văn Yên và Trấn Yên, phía Tây giáp huyện Trạm Tấu, phía Nam giáp tỉnh Sơn La.

Đặc điểm địa hình: Văn Chấn nằm ở sườn phía Đông Bắc của dãy Hoàng Liên Sơn. Địa hình phức tạp, có nhiều rừng, núi, hang động, suối khe chằng chịt, thung lũng bằng phẳng. Độ cao trung bình so với mặt nước biển 400m. Tuy địa hình khá phức tạp nhưng chia thành 3 tiểu vùng kinh tế: Vùng trong  là vùng tương đối bằng phẳng, có cánh đồng Mường Lò. Vùng ngoài có lợi thế về phát triển vườn đồi, vườn rừng và trồng lúa nước. Vùng cao thượng huyện có độ cao trung bình 600 m trở lên, có tiềm năng về đất đai, lâm sản, khoáng sản, chăn nuôi đại gia súc.

Khí hậu: Văn Chấn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình 20 – 30 0C; mùa đông rét đậm nhiệt độ xuống dưới tới -2 đến -3oC. Tổng nhiệt độ cả năm đạt 7.500 – 8.100 oC; lượng mưa được chia thành hai mùa rõ rệt. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1200 đến 1600 mm, thích hợp phát triển các loại động thực vật á nhiệt đới, ôn đới và các loại cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp. Rừng của Văn Chấn có hàng trăm loại gỗ cùng tre, nứa, song, mây, trong đó có các loại gỗ quý như: lát, pơ mu, vàng tâm, đinh, lim, sến, táu… Bên cạnh các loại gỗ quý, còn có các loại dược liệu có giá trị như: thiên niên kiện, sa nhân, hoài sơn; nhiều loại thực phẩm tự nhiên như: măng, mộc nhĩ, nấm hương, mật ong và nhiều loại thú rừng.

Do điều kiện địa hình đồi núi dốc mạnh, lượng mưa lớn và tập trung nên tạo cho Văn Chấn một hệ thống ngòi suối khá dày đặc, có tốc độ dòng chảy lớn và lưu lượng nước thay đổi theo từng mùa.

+ Số đặc điểm văn hóa, xã hội:

Huyện Văn Chấn gồm có 3 thị trấn và 28 xã, gồm thị trấn Nông trường Liên Sơn, thị trấn Nông trường Nghĩa Lộ, thị trấn Nông trường Trần Phú, các xã: Sơn Thịnh, Suối Bu, Suối Giàng, Suối Quyền, Đồng Khê, Tân Thịnh, Chấn Thịnh, Thượng Bằng La, Minh An, Nghĩa Tâm, Bình Thuận, Đại Lịch, Phù Nham, Thanh Lương, Thạch Lương, Hạnh Sơn, Phúc Sơn, Nghĩa Sơn, Sơn Lương, Nậm Lành, An Lương, Nậm Mười, Sùng Đô, Gia Hội, Nậm Búng, Tú Lệ, Cát Thịnh, Sơn A. Huyện lỵ đóng trên địa bàn xã Sơn Thịnh.

Theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, huyện Văn Chấn có 145.711 người, bao gồm nhiều tộc người sinh sống như: Kinh, Dao, Tày, Mường, Hmông, Giáy, Khơ Mú, Thái, .... chia thành 3 vùng cư trú. Mật độ dân số: 121 người/km2. Sự đa dạng về dân tộc tạo nên cho huyện Văn Chấn có một nền văn hóa phong phú, mang đậm bản sắc dân tộc, đó là sự giao thoa văn hóa giữa các dân tộc trong toàn huyện. Tổng số lao động trong độ tuổi là 88.554 người; số lao động trong độ tuổi hoạt động kinh tế là 70.866 người; số lao động trong độ tuổi không hoạt động kinh tế là 17.688 người, với lực lượng lao động đông đảo chính là nguồn lực, tiềm năng phát triển kinh tế của huyện.

Văn Chấn – Mường Lò là một vùng văn hóa phi vật thể điển hình của tỉnh Yên Bái với nền văn hoá nghệ thuật phong phú, đa dạng của người Thái, Tày, Khơ Mú, Hmông, Dao, Mường, Giáy, … Lễ hội, trò chơi dân gian phong phú, hấp dẫn thường tổ chức vào các dịp ngày lễ tết cổ truyền. Người Thái có lễ hội “Xên đông”, “Xên mường”, “Lồng tồng”, trò chơi tó mắc lẹ, ném còn. Lễ hội “Rước mẹ lúa”, “Mùa măng mọc” của người Khơ Mú. Hội “Gầu tào”, “Nào sồng”, cưỡi ngựa bắn súng, đánh yến, ném pao dân tộc Hmông. ...Tín ngưỡng vạn vật hữu linh, thờ cúng tổ tiên; chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau như: đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão, Thiên Chúa giáo tạo cho Văn Chấn một miền đất đa tôn giáo kết hợp với những tín ngưỡng bản địa đặc sắc càng làm cho đời sống văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo càng thêm đa dạng.

Những hoạt động văn hoá, văn nghệ dân gian đã tạo cho Văn Chấn một nền văn hoá giàu sắc thái, đa dạng nhưng thống nhất, là sắc mầu văn hoá dân gian độc đáo ở phía Tây của tỉnh và là trung tâm của vùng văn hoá Mường Lò – một trong 3 vùng văn hoá tỉnh Yên Bái. Đây là một lợi thế không nhỏ để Văn Chấn phát triển du lịch sinh thái và du lịch văn hoá trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.   

           

* Lịch sử di cư của người Thái ở huyện Văn Chấn.

Theo những nghiên cứu của các nhà khoa học về sự thiên di của các ngành Thái ở Tây Bắc Việt Nam, đặc biệt qua hai cuốn sử thi của người Thái Đen: “Quắm tố mương” và “Táy pú sấc” thì Mường Lò là vùng đất “quê cha đất tổ” của người Thái Đen Tây Bắc. Vào khoảng thế kỷ XI – XII, ngành Thái Đen do Tạo Xuông, Tạo Ngần thuộc dòng dõi tạo đất Tung Hoàng ngày xưa (miền “sông Thao nước đỏ”) dẫn dắt đoàn quân chinh chiến và các họ của người Thái ra đi. Từ Mường Ôm, Mường Ai ở miền thượng sông Hồng đến Mường Lò cư trú. Đoàn người đặt chân đầu tiên tới đất Mường Min (nay là xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái) rồi vào vùng lòng chảo Mường Lò rộng lớn. Thuở ấy, Mường Lò còn là vùng đất mênh mông, hoang vắng. Tổ tiên người Thái cùng nhau sinh sống và khai phá ruộng đồng, dựng bản dựng mường. Tạo Xuông, Tạo Ngần xuống dựng Mường Lò Luông. Cùng theo các họ Lò, Lường, Quàng, Tòng, Lèo. Những họ này tôn họ Lò làm chủ. Xây dựng xong Mường Lò, Tạo Ngần về Mường Bó Te. Còn Tạo Xuông ở lại, lấy vợ, sinh con là Tạo Lò. Tạo Lò lấy vợ sinh ra bảy người con trai, lần lượt là: Ta Đúc, Ta Đẩu, Lặp Li, Lò Li, Lạng Ngoạng, Lạng Quạng và Lạng Chượng. Tạo Lò chia đất cho các con ăn. Ta Đúc ăn Lò Luông; Ta Đẩu ăn Lò Cha; Lặn Li ăn Lò Gia; Lò Li ăn Mường Min; Lạng Ngoạng ăn Mường Vân; Mường Vành; Lạng Quạng ăn Xí xam bản Lọm (có lẽ là xã Phù Nham, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái ngày nay), riêng Lạng Chượng là con út Tạo Lò không có mường để ăn nên chúa Lạng Chượng triệu tập binh tướng, dân chúng, kéo nhau đi tìm mường.

Vào khoảng đầu thế kỷ XII, những đoàn quân chinh chiến của Mường Lò lại bắt đầu ra đi tới các vùng lòng chảo thuộc các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu. Như vậy, khi xuất hiện Mường Lò, vùng lòng chảo này đã được chia ra làm ba khu mường: Mường Lò Luông (tức Mường Lò lớn) là trung tâm vùng lòng chảo, trung tâm của toàn châu mường; Mường Lò Gia (gọi tắt là Mường Gia) và Mường Lò Cha (gọi tắt là Mường Cha). Do đó, Mường Lò được gọi là Mường Xam Lò (tức Mường Ba Lò). Ngoài phạm vi vùng lòng chảo trung tâm, Mường Lò còn gồm những mường nhỏ khác như: Mường Hồng, Mường Hằng (nay là huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái); Mường Nặm, Mường Piu (nay là xã Thượng Bằng La, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái); Mường Pục, Mường Mẻng (nay là xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái), cũng có ý kiến là Mường Pục, Mường Mẻng thuộc vùng Sơn Bục, Sơn Thịnh, Đồng Khê – huyện Văn Chấn ngày nay; Mường Min (nay là xã Gia Hội, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái); Mường Lùng (nay là xã Tú Lệ, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái).

Các thư tịch cổ của người Việt như: “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi, “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, “Kiến văn tiểu lục” của Lê Quý Đôn hay những tác phẩm về địa dư như: Địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ; Tên làng xã và địa dư các tỉnh Bắc Kỳ, … đều không thấy nhắc tới địa danh Mường Lò. Đến năm 1435, trong lời “Cẩn án” của Nguyễn Thiên Tích ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi mới ghi nhận: huyện Văn Chấn thuộc phủ Quy Hóa, đạo thừa tuyên Hưng Hóa chứ cũng không nhắc gì tới địa danh Mường Lò. Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” có nhắc đến Văn Chấn là một huyện thuộc trấn Hưng Hóa. Nhà nghiên cứu Cầm Trọng trong cuốn “Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam” xác nhận: Mường Lò còn có tên là Văn Chấn. Đinh Xuân Vịnh lại cho rằng: Mường Lò là thổ âm của châu Văn Chấn, tỉnh Hưng Hóa xưa (Sổ tay địa danh Việt Nam). Như vậy, Mường Lò có liên quan đến một địa danh hành chính nhà nước là Văn Chấn. Người Thái vào Mường Lò tức là vào Văn Chấn. Trải qua suốt quá trình lịch sử, từ thế kỷ XI - XII, người Thái đã cùng nhau xây dựng bản mường. Cùng các tộc người khác, xây dựng Mường Lò thành một vùng lòng chảo ấm no, hạnh phúc.

* Khái quát về người Thái ở xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn.

- Khái quát chung về xã Hạnh Sơn: Hạnh Sơn là một xã nằm gọn trong vùng lòng chảo của cánh đồng Mường Lò, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Phía Nam giáp xã Phúc Sơn - huyện Văn Chấn, phía Bắc giáp xã Nghĩa An - thị xã Nghĩa Lộ, phía Đông giáp xã Thanh Lương, Thạch Lương - huyện Văn Chấn, phía Tây giáp xã Pá Lau, huyện Trạm Tấu. Đây là nơi hội tụ cùng sinh sống của nhiều dân tộc anh em như: Kinh, Tày, Thái, Mường, ...

+ Về địa lý hành chính: Xã Hạnh Sơn có đường tỉnh lộ chạy qua trung tâm xã lên huyện Trạm Tấu, toàn xã có tổng diện tích tự nhiên 749,52ha, trong đó đất nông nghiệp 257ha. Toàn xã có 1.292 hộ gia đình với 5.561 khẩu, 2.757 trong độ tuổi lao động, gồm có 4 dân tộc anh em cùng sinh sống trên 12 thôn bản: Thôn Phai Lò, An Sơn, Viềng Công, Mường Chà, Bản Mớ, bản Lốm, Bản Cại, Bản Đường, Bản Phiêng, Lò Gạch, Bản Tào, Thiêng Đình.

+ Sản xuất nông lâm nghiệp:

Nông nghiệp: Diện tích đất nông nghiệp 257ha, tập trung cấy hết diện tích, đúng lịch theo khung thời vụ, áp dụng các mô hình khuyến nông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, nhân dân còn trồng các loại cây màu khác như ngô, sắn, khoai, rau các loại, đậu các loại với việc áp dụng Khoa học kỹ thuật, đổi mới cơ cấu cây trồng để tăng diện tích cây trồng, nâng cao năng suất.

Lâm nghiệp: Toàn xã có 163,65ha và rừng trồng sản xuất 97,7ha. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, tổ chức cho nhân dân học tập ký cam kết về công tác bảo vệ, phòng cháy chữa cháy rừng nên không có hiện tượng xẩy ra cháy rừng trên địa bàn, không có tình trạng tranh chấp đất rừng xảy ra. Kiện toàn ban chỉ huy PCCCR-BVR, có 2 tổ chức canh gác bảo vệ rừng, làm tốt công tác quản lý lâm sản trên địa bàn.

+ Địa chính, giao thông, thủy lợi:

Địa chính: Năm 2014 quản lý tốt đất nông nghiệp, không có tình trạng lấn chiếm đất nông nghiệp làm nhà, không có tình trạng tranh chấp đất xảy ra, thường xuyên kiểm tra việc quản lý đất đai.

Giao thông: Các tuyến đường liên thông và đường nội thôn thường xuyên được tu sửa, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại dễ dàng.

Thủy lợi: Thường xuyên tu sửa, các công trình thủy lợi đều được củng cố đảm bảo nước tưới tiêu, không có tình trạng hạn hán kéo dài.

+ Thương mại dịch vụ: Thương mại từng bước phát triển mạnh, là xã không có chợ nhưng các hộ tại các thôn bản đã tổ chức kinh doanh các mặt hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong xã. Các tổ HTX làm dịch vụ nông nghiệp cung ứng giống, vật tư nông nghiệp đáp ứng nhu cầu sản xuất của nhân dân.

* Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Thái xã Hạnh Sơn

Với điều kiện về địa hình, đất đai. Khí hậu thuận lợi, người Thái nơi đây sống chủ yếu bằng kinh tế nông nghiệp lúa nước và hoa màu. Cây trồng chính là lúa, ngô, khoai, sắn... người dân thường canh tác theo chu trình vòng tròn khép kín. Cây trồng ngoài lúa ngô ra còn có bầu bí, đỗ và các loại cây có củ. Người Thái còn chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà... phục vụ sức kéo và  phục vụ các dịp lễ tết, tiếp khách, tín ngưỡng...

- Nhà cửa: Từ xa xưa trong tiềm thức người Thái họ coi việc làm nhà vô cùng quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt, sự trưởng thành của một đời người. Chính vì vậy, việc chọn đất dựng nhà đòi hỏi một quá trình chuẩn bị kỹ càng, cẩn thận và mang yếu tố tâm linh thiêng liêng. Đối với đồng bào dân tộc Thái nơi đây, khi dựng một ngôi nhà mới phải nhờ thầy mo chọn cho hướng đất cho phù hợp. Đồng bào vẫn dựng nhà theo truyền thống là nhà sàn cột gỗ. Nhà sàn có 4 mái. Gồm 2 mái chính và 2 mái phụ. Trước kia, những ngôi nhà sàn đều được lập bằng cọ hay gianh, nhưng hiện nay những ngôi nhà sàn tại xã Hạnh Sơn đều được lập bằng prôximăng, nhà được thiết kế theo kiến trúc chung có nhiều hàng cột, có gian phụ. Người Thái xã Hạnh Sơn đa số làm nhà sàn có cầu thang lên xuống, có số bậc lẻ 9 hoặc 11, cầu thang được đặt 2 gian ngoài cùng phía trái nhà. Đồng bào quan niệm rằng cầu thang đặt bên trái là dành cho người sống, cầu thang không được dẫn thẳng lên nhà mà được bắc lên một dãy hành lang nhỏ, sau đó mới đến cửa chính để bước vào nhà. Để có ngôi nhà vừa ý, người Thái chọn những loại gỗ tốt làm khung, nhờ khói bếp lâu ngày bám vào mà tạo được độ bền, sàn nhà của người Thái làm khá cao, tránh độ ẩm thấp.

- Trang phục: Người Thái có trang phục độc đáo, rất riêng biệt. Song với người Thái Đen ở xã Hạnh Sơn trang phục của phụ nữ được phân biệt với nhóm Thái Trắng. Bộ trang phục của phụ nữ Thái Đen gồm: áo xửa cỏm, váy, piêu, thắt lưng và các đồ trang sức như: vòng tay, vòng cổ, xà tích (dây bạc đeo bên hông) Trong đó chiếc áo xửa cỏm sát thân là loại áo ngắn tay, nẹp áo trước ngực là hai hàng khuy bạc hình con bướm (mak pém - một bên là con đực, một bên là con cái, số lượng cặp thường là số lẻ, phụ nữ có chồng là số chẵn). Riêng cổ áo người Thái Đen là cổ tròn có chân (khoảng 2 - 3 cm), ôm khít với cổ người mặc. Đây chính là một điểm phân biệt giữa phụ nữ Thái Đen và Thái Trắng (cổ áo của phụ nữ Thái Trắng lượn xuống ngực hình chữ V). Cùng với áo xửa cỏm sát thân là chiếc váy đen nhuộm chàm cuốn hình ống quen thuộc, thắt eo bằng thắt lưng được dệt bằng màu xanh lá cây dài chừng một sải hay một khuyủ tay (theo cách đo của người Thái), quấn quanh eo, tạo cho người phụ nữ Thái có những đường cong mềm mại, duyên dáng. Phụ nữ Thái hầu hết có thân hình đẹp bởi họ được lao động và mặc áo bó từ nhỏ. Đặc biệt phụ nữ Thái Đen đội piêu (khăn) là một phần không thể thiếu được trong bộ trang phục. Piêu là một dải vải nhuộm chàm màu đen đậm, có khổ rộng khoảng 40cm và dài bằng một sải tay. Piêu được các cô gái Thái đội trong các dịp lễ hội hay các sinh hoạt cộng đồng khác, khi không đội piêu với phụ nữ chưa chồng và ngược lại đội piêu là phụ nữ đã có chồng. Tằng cẩu (búi tóc) cũng vậy, để phân biệt phụ nữ có chồng (phải Tằng cẩu), phụ nữ chưa chồng (không phải Tằng cẩu). PiêuTằng cẩu cũng là một trong những điểm phân biệt giữa Thái Trắng và Thái Đen. Phụ nữ Thái Trắng không đội piêu. không Tằng cẩu. Đi kèm với bộ trang phục là những đồ trang sức làm bằng bạc hay nhôm như: vòng tay, vòng cổ, trâm cài đầu (với phụ nữ đã có chồng), dây sài ẻo - xà tích.

Người Thái nơi đây khéo tay, đặc biệt là phụ nữ, giỏi nghề thủ công truyền thống tiêu biểu là nghề dệt thổ cẩm. Nói về nghề dệt người Thái có câu thành ngữ  “Vợ con tay guồng, tay tơ”. Họ quan niệm: gái tốt, gái đẹp phải là người khéo trồng bông, dệt vải. Vì vậy, mọi thiếu nữ Thái đều được mẹ giáo dục chăm chút từ nhỏ, truyền kinh nghiệm để khi cô gái đến tuổi về nhà chồng đã có đủ, áo váy, chăn, đệm, gối do chính tay mình làm ra mang theo. Người Thái có câu ví đặc trưng “Mí phải chăng pên ếm” (có vải mới thành mẹ), thể hiện sự đảm đang, khéo léo của người phụ nữ. Dệt thổ cẩm là một nghề truyền thống lâu đời ở vùng Mường Lò. Bao đời nghề trồng bông, dệt vải đã gắn bó với từng gia đình người Thái. Ngày nay, nhiều nguyên liệu mới, hiện đại đã dần thay thế việc trồng bông ươm tơ. Khung cửi truyền thống cũng được cải tiến, chạy bằng điện, giảm bớt sức người. Sản phẩm thổ cẩm của người Thái nơi đây cũng rất nổi tiếng ở nhiều nơi trong nước và luôn được mọi người ưa chuộng. Do vậy, trang phục của phụ nữ Thái vẫn mang đậm yếu tố truyền thống của cộng đồng người, ngày nay khi đến vùng Mường Lò ta đều bắt gặp sự hiện diện của bộ trang phục nữ giới trong một gia đình, một bản hay khi đi chợ, làm ruộng, đi chơi tuy nhiên điều này lại khác với nam giới, họ rất ít sử dụng trang phục truyền thống của mình, thay vào đó họ mặc những loại quần áo bán sẵn trên thị trường. Trang phục của nam giới đơn giản hơn gồm chiếc áo ngắn (xẻ ngực), có túi 2 bên gấu vạt  bằng thổ cẩm, nhuộm chàm, có cúc hoặc khuy khuyết tết bằng dây vải, hai bên cạnh sườn có đường xẻ để thân áo không bị bó sát vào người, người Thái Trắng có thêm túi bên ngực trái. Thường chỉ khi có các dịp lễ tết hoặc cúng tế thì mới thấy nam giới mặc nhưng rất ít không phổ biến.

- Ẩm thực: Văn hóa ẩm thực là một trong những đặc trưng của văn hóa Mường Lò. Câu nói đã trở thành quen thuộc như: “Muốn ăn gạo trắng, nước trong. Vượt qua đèo Ách vào trong Mường Lò” gợi nhớ về một vùng quê trù phú với những sản vật đặc trưng của vùng đất này. Được thiên nhiên ưu đãi, lòng chảo Mường Lò với cánh đồng lúa thẳng cánh cò bay đã cho những hạt nếp đặc sản. Với bàn tay khéo léo của người Thái Đen, món xôi nếp là một trong những đặc sản khó quên nhất của Mường Lò. Vì vậy, người Thái Đen xã Hạnh Sơn chỉ ăn cơm nếp, sau này học tập lối canh tác của người Kinh (việt) trồng lúa tẻ, nên họ đã ăn cơm tẻ và lấy gạo tẻ làm lương thực chính, gạo nếp chỉ được dùng trong các dịp lễ, tết, cúng bái và những ngày quan trọng bằng cách đồ xôi và làm các loại bánh. Cũng giống như một số dân tộc khác nơi đây cơ cấu bữa ăn của người Thái Đen món ăn chủ đạo vẫn là cơm - rau - cá, sinh hoạt ẩm thực không quá cầu kỳ, thời gian bữa ăn được sắp xếp phù hợp với công việc của mùa vụ đồng áng. Cách chế biến món ăn của người Thái Đen rất độc đáo, những món ăn chế biến thường ngày thì được đồ (xôi) như cá xôi, rau xôi hoặc họ nướng cá, thịt, các con vật săn bắt được, hoặc làm nộm, ăn ghém. Trong các dịp lễ, tết thì các món ăn được chế biến cầu kỳ hơn như: thịt gà xôi (nhựa cậy mọ), cá xỉnh nướng (pa khính pỉnh tộp), rêu đá vùi than (cay hin pho) (rêu ở dòng suối Thia) ngoài ra chế biến các loại rau, củ rừng và các loại thú rừng họ săn, bẫy được hoặc các con côn trùng đặc sản như: bọ xít, ếch, dế trở thành món ăn lạ và rất hấp dẫn.

* Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Thái xã Hạnh Sơn.

- Tiếng nói, chữ viết: Tiếng nói của người Thái xã Hạnh Sơn có tiếng nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, nằm trong ngữ hệ Nam Á. Người Thái có chữ viết riêng sử dụng trong các văn tự cổ của mình. Đến nay chữ viết đã được truyền cho lớp trẻ sử dụng dịch các sách cổ Thái.

- Tín ngưỡng thờ cúng - những nghi lễ và phong tục:

Tín ngưỡng thờ cúng: Người Thái khá phong phú đa dạng về tín ngưỡng thờ cúng. Họ thờ cúng gia tiên và những người chết trong gia đình, nhằm cầu mong sự phù hộ, độ trì đem lại may mắn cho gia đình. Bàn thờ gia tiên được đặt ở gian trong cùng, nơi này chỉ dành riêng cho người đàn ông và chủ gia đình được nằm ngủ bên dưới, phụ nữ không được nằm ngủ hay chải tóc ở đây, đặc biệt là con dâu, phụ nữ mang thai, sinh đẻ tuyệt đối không được qua lại nơi này. Ngoài ra, cổng vào nhà của người Thái xã Hạnh Sơn bao giờ cũng có nơi để thờ cúng thần đất để cầu mong sự che chở, bảo vệ đối với gia đình, mong cho mùa màng tươi tốt.

- Những nghi lễ và phong tục: Người Thái Đen với nhiều lễ hội, lễ thức độc đáo. Việc thờ cúng trời đất, bản mường, những ngày hội hè hàng năm theo chu kỳ sản xuất nông nghiệp và lồng vào các lễ nghi nông nghiệp chủ yếu nhằm cầu xin mùa màng: lễ xuống đồng, hội đánh cá, hội săn bắn hay gắn với các nghi lễ như xên mương, xên bản, xên hươn; gắn với các hiện tượng trong đời sống con người như lễ cưới, lễ lên nhà mới; gắn liền với thời tiết trong năm như lễ hội rằm tháng Giêng, hội hoa Ban (đầu xuân), tết síp xí (14/7 âm lịch), tết nguyên đán. Đặc biệt là lễ tạ (từ 10 đến 15 âm lịch tháng giêng) là những gia đình hoặc cá nhân người trong năm đó bị ốm đau, bệnh tật mà ông mo đã chữa khỏi bệnh (đuổi ma - gọi vía về) là phải đến nhà ông mo nhờ ông mo tạ các thần linh giúp.

Ngoài ra người Thái còn có một số tục tiêu biểu như tục ở rể, ở rể cho tới khi vợ chồng trẻ có con mới về bên nhà chồng. Tục cô dâu chuẩn bị lễ vật cho nhà chồng gồm: 10 - 12 chiếc đệm; 10 - 12 chiếc chăn đắp; một chiếc màn đen; một đến hai chiếc rèm; một đến hai chiếc hòm gỗ đựng vải tự rệt; hai chiếc bem được đan bằng song mây để đựng quần áo và đồ trang sức; 20 - 30 chiếc đệm ngồi; 30 - 40 chiếc gối; hai chiếc áo dài (một cái để tặng bố chồng, một cái tặng mẹ chồng), tục Khửn cảu - tằng cẩu, được tiến hành tại nhà gái trước khi diễn ra đón râu một vài giờ. Trước khi tằng cẩu, cô dâu gội đầu bằng nước vo gạo nếp đã chuẩn bị sẵn cùng các lá thơm, được hai cô phù dâu trợ giúp, cô dâu xõa tóc bên bờ suối hoặc xuống dòng nước gạo nếp thơm với ý nghĩa mọi trần tục được trôi đi, chỉ còn lại trên đầu phần vía (khoăn hua) thơm thảo tốt lành. Trở về đến cầu thang nhà sàn, cô dâu được bạn gái dìu lên nhà và ngồi ngay ngoài sàn nhà, người dì (em mẹ chồng) khoẻ mạnh đức độ làm nhiệm vụ tằng cẩu (búi túc) cho cháu dâu trước sự chứng kiến của mọi người hai họ. Với ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đây là một nét văn hóa độc đáo của người Thái Đen được lưu giữ đến ngày nay, một nét đẹp riêng có, cần được gìn giữ và phát huy trong phong tục của tộc người này. Bên cạnh đó tục chuẩn bị lễ vật về nhà chồng của cô dâu lại khá nặng nề, nó đã trở thành nếp, có chăng thì chỉ một vài lễ vật quan trọng mang tính chất tượng trưng, bởi ý nghĩa của lễ cưới là đem lại hạnh phúc cho cô dâu và chú rể.

Tục thiêu xác (hoả táng người chết) của tộc người Thái Đen ở Mường Lò. Bản lệ tục tang ma trình bày các nghi thức tang lễ theo thứ tự từng ngày, trong đó có nghi lễ đưa hồn người chết và đọc bài hát “đưa hồn ma đi xuống Mường Lò quê tổ”. Như trên đã nói, theo quan niệm của người Thái, Mường Lò là nơi đầu tiên người Thái dừng chân sau khi từ phía Mường Ai, Mường Ôm đầu nguồn sông Thao (sông Hồng) di cư xuống. Và cũng từ Mường Lò, họ toả đi các nơi dọc lưu vực sông Đà, sông Mã cho nên, trước khi đưa hồn người chết về cõi trời - nơi linh hồn tổ tiên đang sống họ phải đi qua đất Mường Lò đưa về “Đẳm”.

Những luật tục của người Thái nơi đây chứa đựng nguồn tư liệu rất phong phú về tín ngưỡng, nghi lễ, phong tục và luật tục. Nó đã hình thành từ lâu đời và cố định lại dưới dạng lệ tục. Qua tục lệ tang ma và cưới xin có thể giúp ta hiểu một cách khá đầy đủ phong tục độc đáo của tộc người Thái. Đó là các phong tục mang nét riêng của dân tộc Thái nói chung và người Thái Đen Mường Lò nói riêng, tính hệ thống rất cao và chứa đựng tính nhân bản sâu sắc. Đó cũng là tư liệu quý giúp chúng ta hiểu và khai thác những nét đẹp của phong tục cổ truyền để xây dựng phong tục mới hiện nay, nhất là về cưới xin và ma chay.

- Một số lễ tết trong năm của người Thái.

* Tết Nguyên đán: Cũng như người Kinh và các dân tộc khác trên khắp cả nước, hàng năm người Thái đen xã Hạnh Sơn tổ chức đón Tết Nguyên Đán vào ngày đầu xuân năm. Với tộc người Thái, tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới và họ bắt đầu ăn tết từ ngày 28/12 (âm lịch). Trước và trong ngày Tết, trên bàn thờ các gia đình được trang hoàng dán giấy đỏ, trai gái trong bản nô nức trang trí lại nhà cửa, quét dọn sạch sẽ và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà để cho căn nhà thêm mới mẻ và ấm cúng hơn. Bước sang ngày 29 tết đàn ông người Thái bắt đầu mổ lợn và chế biến ra những món ăn như: giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn... Phụ nữ tổ chức gói bánh trưng để thờ cũng tổ tiên, với quan niệm người Thái thì tổ tiên đã phù hộ sức khỏe, may mắn... cho mỗi thành viên trong đình, đây chính là dịp để cảm tạ tổ tiên, nên mỗi gia đình chuẩn bị rất chu đáo.

Đêm giao thừa là dịp mà các thành viên trong gia đình quây quần bên nhau để trò chuyện, cùng nhau thưởng thức những món ăn đặc biệt hơn ngày thường và chúc nhau những lời chúc năm mới hạnh phúc, thịnh vượng. Tết là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi xuân với những bộ quần áo mới nhất, còn người già và trẻ em thì đi xem các lễ hội đầu xuân.

* Tết Thanh minh: Được bắt nguồn từ Trung Quốc nhưng đến nay ở Việt Nam, ngày tết Thanh minh đã trở thành một ngày lễ đặc trưng trong văn hóa Việt. Mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có một phong tục đón tết riêng. Với đồng bào Thái xã Hạnh Sơn, ngày tết Thanh minh được coi là dịp lễ thiêng liêng, thể hiện lòng thành kính của con cháu với tổ tiên. Vào ngày này, từ sáng sớm các gia đình người Thái đã chuẩn bị các lễ vật đi tảo mộ. Mâm lễ cúng tảo mộ được chuẩn bị chu đáo, gồm có: Gà luộc, xôi ngũ sắc, rượu, hoa, quả…. Ngày tết Thanh minh là dịp duy nhất trong năm đồng bào dân tộc nơi đây sửa sang, quét dọn mộ phần của gia đình, dòng họ mình. Bên cạnh lễ tảo mộ, gia đình người Thái còn làm một mâm cơm gồm: Thịt lợn, xôi, hoa, quả và bánh trái, xôi, thịt, hoa quả để cúng gia tiên cầu mong bình an trong cuộc sống.

* Tết Đoan ngọ: Tết Đoan ngọ ở Việt Nam còn gọi là "ngày giết sâu bọ", theo quan niệm cổ truyền, có thể giết sâu bọ bằng cách ăn thức ăn, hoa quả, rượu nếp vào ngày 5.5 (âm lịch). Các loại thực phẩm được sử dụng nhiều để "diệt sâu bọ" thường là đào, mận, dưa hấu, dứa và một món ăn không thể thiếu đó là món rượu nếp cẩm. Với người Thái cũng vậy, tục ăn rượu nếp và hoa quả vào sáng sớm trong ngày mùng 5.5 (âm lịch) đã trở thành lệ, ngoài ra vào ngày này người Thái còn đi hái các loại lá cây vào buổi trưa (giờ Ngọ) đem phơi khô để làm lá uống cho cả năm. Vì theo quan niệm, ngày Tết Đoan ngọ thì trời đất phong quang, lòng người sáng sủa, trăm loại cây lá đều tốt lành, có thể đun nước uống, vừa mát ruột, vừa trừ độc giúp cho lòng người thanh thản.

* Tết "Xíp xí" (tết 14/7 âm lịch): Cùng với ngày Xá tội vong nhân (Tết Vu Lan) của người Kinh, Tết rằm tháng bảy của dân tộc Thái, ngoài ý nghĩa thờ cúng tổ tiên, cúng các vong hồn đây còn là dịp để gia đình, dòng họ xum họp, con cái thể hiện lòng biết ơn, tình cảm và lòng hiếu thuận đối với cha mẹ. Cứ đến tháng bảy âm lịch hàng năm, đồng bào Thái lại nô nức chuẩn bị cho cái tết lớn thứ hai sau tết Nguyên đán Tết rằm tháng. Vào những ngày này, người Thái thường gác lại các công việc khác, tất cả dồn vào chuẩn bị cho ngày tết. Phiên chợ ngày trước tết Xíp Xí bao giờ cũng náo nhiệt hơn với các mặt hàng đặc trưng như: Lá bánh, đỗ xanh, củ chuối rừng…và một món ăn không thể thiếu đối với người Thái trong rằm tháng bảy đó là thịt vịt.

Theo tục lệ, cứ đến rằm tháng bảy hàng năm, người Thái sẽ làm bánh, làm bún tươi để ăn thịt vịt…để thờ cúng tổ tiên, cúng các vong hồn, cầu chúc sức khỏe, an lành đến với tất cả các thành viên trong gia đình, dòng họ. Trong những ngày này, người Thái còn có phong tục con rể của gia đình sẽ đem biếu bố mẹ vợ một đôi vịt để tỏ lòng biết ơn, kính trọng và hiếu thuận, cảm ơn công dưỡng dục vợ mình. Ngày 14, 15 tháng bảy (âm lịch), đại gia đình sẽ quây quần cùng nhau ăn bữa cơm sum họp. Đây là một nét văn hóa đặc sắc của người Thái, thể hiện tình cảm yêu thương, gắn bó và lòng hiếu thuận của con cái đối với cha mẹ.

* Tết Cơm mới: Đã thành thông lệ, đến cuối tháng 9 đầu tháng 10 (dương lịch) hàng năm, khi những cánh đồng tràn ngập một màu vàng óng của lúa chín. Khắp các bản làng của người Thái lại rộn rã tiếng giã gạo làm cốm, làm khẩu rang chuẩn bị cho lễ "ăn cơm mới" - một nghi lễ nông nghiệp truyền thống, một nét văn hóa độc đáo của người Thái. Ngay sau khi thu hoạch vụ lúa mùa, lúc ngô, lúa đã chất đầy bồ thì đó cũng là thời điểm để bà con người dân tộc bước vào mùa Tết "cơm mới" với ý nghĩa tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, con cháu mạnh khỏe và bày tỏ sự tôn kính lên ông bà tổ tiên đã khuất.

Theo phong tục truyền thống của người Thái tết cơm mới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất của mỗi gia đình, nên được bà con chuẩn bị rất chu đáo, kỹ lưỡng. Tết "cơm mới" không chỉ là lễ tổng kết một năm sản xuất, dâng thành quả lao động cúng đất trời, cầu mưa thuận gió hòa, làm ăn phát đạt, mùa màng tươi tốt, mà còn là dịp để anh em, họ hàng bạn bè gặp nhau cùng trao đổi kinh nghiệm trong sản xuất.

- Một số phong tục theo chu kỳ đời người.

+ Sinh đẻ: Việc sinh đẻ của phụ nữ Thái cũng cũng phải trải qua những tập tục, kiêng kị nhất định. Khi đứa bé được ra đời, người phụ nữ được đưa vào một căn phòng kín trong nhà, Một tháng từ khi gia đình có phụ nữ sinh thì khách lạ không được tới nhà, để tránh những điều không may mắn đối với đứa trẻ. Để thông báo cho khách lạ biết nhà có phụ nữ mới sinh, thì gia đình đan một cây neo dựng trước cổng và buộc một cây củi cháy dở vào cầu thang. Trẻ em sau khi sinh ra từ 7 ngày đến 1 tháng thì gia đình sẽ tổ chức làm lễ cúng vía, đặt tên. Hình thức cúng này mang ý nghĩa báo cáo cho tổ tiên để tổ tiên công nhận đứa trẻ là người trong gia đình đồng thời cũng để thông báo cho bà con trong bản, anh em, bạn bè và họ hàng về đứa trẻ. Lễ vật cúng gồm có lợn, gà, xôi, rượu… Khi mổ gà thì giữ lại chiếc xương cánh gà dùng chỉ buộc cùng với đồng tiền bạc đeo vào cổ đứa trẻ mang ý nghĩa tránh tà ma và đem những điều may mắn tới.

+ Hôn nhân gia đình: Với bất kỳ dân tộc nào dù sinh sống ở đâu thì cưới xin cũng là một trong những công việc hệ trọng của cả cuộc đời con người. Tục cưới hỏi của tộc người Thái xã Hạnh Sơn cũng trải qua nhiều bước và có những nét khác biệt khá độc đáo. Nhưng việc dựng vợ gả chồng không hoàn toàn do bố mẹ quyết định mà là kết quả tình yêu của đôi trai gái, tuy nhiên vẫn phải được sự đồng ý của gia đình hai họ. Thông thường tục cưới hỏi của người Thái đen xã Hạnh Sơn trải qua 6 bước: Bước một là "Chỏm Pảu" tức thăm dò, bước hai là "Pay tham pạu" tức đi ăn hỏi, bước ba "Khắc mắc pu nơ" tức cắm lá trầu bé, bước bốn "Khắt mắc pú luông" tức cắm lá trầu lớn, Bước năm "Tỏn pạu" tức đón dâu, bước sáu "Ngái hua păn trường khá" tiệc đầu nhận lễ. Trong đó lễ đón dâu (tỏn pạu) được xem là đỉnh điểm của toàn bộ lễ cưới, đây cũng là nghi lễ tích tụ những biểu hiện phong phú và độc đáo của đời sống vật chất và tinh thần của người Thái. Ngay từ chập tối ngày hôm trước, sính lễ đã được sắp xếp đầy đủ, lễ vật của nhà trai mang sang nhà gái gồm rất nhiều thứ như: cá sấy, cá nướng, gừng, thịt nướng, trứng, gà còn sống, gà đã mổ, lợn, rượu, trầu cau ...và nhiều đồ lễ khác như lọn tóc, châm cài; trong đồ lễ của người Thái cá sấy là sản phẩm không thể thiếu và được chọn rất cầu kỳ, cá được chọn sấy phải là loại cá sỉnh, một loại cá ngon chỉ dùng để đãi khách quý. Việc chuẩn bị sắp xếp và chọn lễ vật cho đám cưới rất được chú trọng, ngay cả việc gói đồ sính lễ cũng cầu kỳ không kém, nữ sắp xếp các thứ đồ như cá nướng, trầu cau, vỏ và thuốc lào bọc trong giấy gói đỏ, còn nam giới thì xếp đồ sính lễ vào các đồ đan lát làm từ mây tre, những quy ước đơn giản này thể hiện quan niệm về chức phận, cũng như sự phân công lao động theo giới trong cộng đồng người Thái đen.

+ Tang ma: sinh - lão - bệnh - tử là quy luật của tạo hóa danh cho tất cả mọi người mà không ai có thể thoát ra được khỏi vòng quay tự nhiên của nó. Đối với dân tộc Thái đen xã Hạnh Sơn, khi trong nhà có người mất, những người có quan hệ gắn bó, thân thiết với gia đình sẽ đến giúp mọi công việc chuẩn bị nghi lễ cho người mất, còn lại hàng xóm láng giềng không đến chia buồn ngay mà đợi đến khi có báo hiệu mới đến. Mọi công việc đều phải diễn ra theo đúng nghi thức của dân tộc. Khi có người mất, gia đình phải tắm rửa vệ sinh sinh sạch sẽ cho người mất, sau khi tắm xong thì mặc bộ quần áo mới cho người mất. Tất cả mọi công việc chuẩn bị cho tang lễ xong xuôi, gia đình mời thầy Mo đến, đến giờ thầy Mo sẽ đánh trống báo động để thông báo cho tất cả mọi người biết tin và đến chia buồn với gia đình. Trống được đánh 3 hồi gấp, dồn dập và liên tục vang khắp bản, khi 3 hồi trống vừa dứt là lúc người ta đưa người chết vào trong quan tài, lúc này con cháu mới mặc áo tang lễ màu trắng, đội khăn tang và khóc òa thương tiếc, lúc này dân làng bắt đầu đến viếng và đám tang chính thức bắt đầu trong tiếng nhạc trống kèn đưa tiễn người đã khuất. Quan tài lúc này được phủ lên một tấm vải dệt màu đen có điểm hoa văn trắng, bên ngoài là một bàn gỗ nhỏ để đặt bát hương, di ảnh và đồ cúng cho người chết. Người chết có thể được giữ trong nhà 2 -3 ngày tùy theo mỗi gia đình. Sau đó, người chết được gia đình đưa đi hỏa táng theo đúng phong tục của người Thái đen. Đây là một tục lệ hoàn toàn khác với các dân tộc khác, họ không đưa đi chôn cất mà đưa ra một bãi đất để tiến hành thủ tục hỏa táng. Điểm hỏa táng này cũng được thầy Mo làm lễ chọn. Người nhà mổ một con gà, nắm cơm, chai rượu để thầy Mo đưa đi chọn âm dương. Trước khi quan tài được đưa ra đây, củi đã được xếp sẵn gồm nhiều tầng chắc chắn (nam 7 tầng, nữ 9 tầng). Nguyên liệu là những cây xoan, cây si còn tươi, xếp lần lượt theo các tầng từ trên xuống dưới, quan tài người chết đặt lên tầng trên cùng. Khi đến giờ, ông Mo là người châm lửa đốt đầu tiên, sau đó họ hàng, con cháu châm lửa đốt sau, họ châm lửa đốt từ trên xuống. Sau khi đốt xong, xác người chết đã bị thiêu cháy hoàn toàn, người nhà sẽ nhặt những mảnh sương còn lại đặt vào một chiếc lọ đưa về nhà chôn cất. Cây neo trên mấm mồ được chôn chắc chắn nhưng sau 6 tháng đến một năm nếu cây không đổ thì con cháu phải du cho đổ, nếu sau bằng đấy thời gian không du đổ thì ma người chết càng ở lại lâu, linh hồn còn vương vấn không siêu thoát được.

- Văn học dân gian:

Tộc người Thái vốn có một lịch sử và một nền văn hóa lâu đời, một nền văn học nghệ thuật và những tri thức dân gian rất phong phú. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, truyện thơ và sách cổ của người Thái có số lượng rất phong phú và đặc trưng, nhiều truyện thơ nói lên những giá trị tâm hồn thơ mộng của tộc người Thái, nhưng cũng có truyện thơ phản ánh về đời sống hiện thực trong xã hội. Đó cũng chính là một thực thể văn hóa, một nét đặc thù riêng của tộc người Thái.

+ Tri thức về y học dân gian: Y học dân gian tộc người Thái rất phong phú, đa dạng, hiện đang được khai thác nhiều phục vụ nhu cầu của con người. Tộc người Thái tích lũy được nhiều vốn y học cổ truyền quý giá. Các vị thuốc chủ yếu hái lượm ở rừng, ít khi trồng sẵn. Có loại lấy rễ, có loại lấy lá hoặc vỏ, cũng có loại lấy quả hoặc hoa ... . Có vị thuốc sắc uống để chữa bệnh đường ruột, đau xương... có vị giã nhỏ để rịt hoặc bó hư chữa gẫy xương, vết thương nhỏ... có vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa như các bệnh ngứa, lở loét, phù thũng... Nhìn chung có thể chia làm ba loại thuốc chính: thuốc bổ, thuốc trị bệnh và thuốc độc giết hại thú rừng.

 

 

* Lễ Xên Đông (cúng rừng) của người Thái, xã Hạnh Sơn huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái.

 - Quá trình ra đời, tồn tại của lễ cúng rừng (xên đông):

Lễ "xên đông" (cúng rừng) có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống tâm linh của tộc người Thái. Là cư dân nông nghiệp lúa nước, trong tâm thức của mỗi người, ai cũng nhận biết được tầm quan trọng của rừng đối với đời sống hàng ngày. Rừng chính là nơi bảo vệ cho bản mường luôn mát lành, đem lại cuộc sống ấm no, mùa màng tươi tốt, cung cấp những nguồn nước sạch cho đồng bào, cung cấp cho con người bao sản vật quý, từ nhà ở đến sinh hoạt hàng ngày đều do rừng cung cấp, rừng đã góp phần nuôi sống con người và đến khi theo quy luật của tạo hóa, mỗi người qua đời, rừng lại đón về ấp ủ như người mẹ.

Với người Thái, giữ rừng đầu nguồn, rừng thiêng đã thành lệ của bản mường. Từ đời này sang đời khác, người Thái truyền nhau câu ca "Tai pá phăng, nhăng pá liệng" có nghĩa là "Sống rừng nuôi, chết rừng chôn". Vì vậy, việc bảo vệ rừng, đặc biệt là những khu rừng đầu nguồn là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người, đến nay việc bảo vệ rừng đã trở thành lệ của bản mường. Người Thái nơi đây, từ thế hệ cha ông đến nay vẫn luôn nhắc nhau: "Giữ rừng cho muôn đời phát triển, để cho muôn mó nước tuôn trào", đồng bào quan niệm ai nhớ được câu ấy thì mới thành người.

Theo ông Lò Văn Phong, 81 tuổi, ông là thầy mo có tiếng ở vùng Mường Lò, cư trú tại bản Cại, xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn cho biết: Ngày xưa, ở vùng đất Mường Lò còn hoang vu, núi rừng rậm rạp. Đời sống người dân cực khổ, làm quanh năm, ngày tháng mà vẫn không đủ ăn, họ chỉ biết trồng lúa ở ven bờ suối, nhưng toàn bị con sâu, con bọ ăn hết cây lúa, hạn hán mất mùa quanh năm. Lên rừng thì không thể kiếm sống bởi đồng bào quan niệm rừng chỉ có cây cối rậm rạp, là nơi ẩn nấp của các loài thú giữ, ít ai dám lên đây. Bỗng dưng một ngày, xuất hiện đôi vợ chồng từ Tây Tạng xuống khai thác tại các chân rừng để làm thành ruộng, thành nương. Lúc bấy giờ, nhiều người dân cũng lên làm ăn, sinh sống cùng họ. Sau một vài năm, cuộc sống của người dân khấm khá hơn trước, không bị đói, bị rét như xưa kia mà giờ họ đã có nhà để trú mưa, ruộng nương ngày càng tươi tốt. Sau khi đôi vợ chồng chết đi, đúng vào năm đó, ruộng nương dân làng bỗng nhiên bị sâu bọ ăn hết, cả làng đều mất mùa. Người dân quan niệm, người khai phá ra những mảnh ruộng, mảnh nương chết đi thì ruộng nương cũng chết theo, để cảm tạ công ơn người đã khai phá ra những mảnh ruộng, nương, nhân dân đã mang lễ vật, những của cải làm ra để đem cúng lễ cho đôi vợ chồng và dâng những lễ vật đó lên các thần thánh để cầu mong các thần phù hộ. Từ năm đó ruộng nương bỗng trở lại tươi tốt, đời sống người dân no đủ, trong tâm thức của người dân lúc này đã hiện lên các vị thần linh cứu giúp nhân dân. Cũng từ đây, cứ vào ngày giỗ của đôi vợ chồng, họ lại tổ chức lễ cúng tại khu rừng thiêng để cảm tạ công ơn của đôi vợ chồng, cảm tạ thần rừng đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Tục này được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, đến nay đã trở thành lệ của bản mường, cứ đến ngày 12 tháng Giêng âm lịch hàng năm là nhân dân tổ chức lễ hội "xên đông" cúng rừng để tưởng nhớ những vị tiên tổ đã đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân đồng thời cầu mong các vị thần linh phù hộ cho một năm mới bản làng bình an ấm no, hạnh phúc.

* Thời gian và địa điểm tổ chức lễ hội.

- Thời gian và địa điểm

+ Thời gian: Lễ cúng rừng (xên đông) diễn ra ngày 02/3/2015 (tức từ ngày 12/01 âm lịch).

+ Địa điểm: Lễ cúng rừng (xên đông) được khai mạc tại trụ sở UBND xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn và lễ cúng chính thức diễn ra tại gốc cây đa cổ thụ thuộc bản Đường, xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

* Công tác chuẩn bị lễ cúng rừng.

- Lễ vật chuẩn bị cho lễ hội.

- 01 con trâu

- Gà, vịt

- Gạo, rượu

- Hoa, quả

- Hương, vàng

- Bánh trưng, bánh dày

- Trứng gà, trứng vịt

- Giấy màu đỏ, màu xanh, màu vàng,… mỗi màu thể hiện cho mọi ước mong của con người. Màu đỏ tượng trưng cho sự sung túc, đủ đầy của cộng đồng; màu xanh tượng trưng cho sự bình an, may mắn; màu vàng tượng trưng cho sự thành công, vui vẻ, …

- 01 áo dài đen của chủ mường (hay người có chức sắc trong xã, hiện là ông Lò Văn Hó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hạnh Sơn). Theo quan niệm của người Thái khi cúng xên đông, áo của tạo sẽ là cầu nối giữa thế giới hiện tại (trần gian) với "mương phi" (tức là mường ma), nhằm kính báo với các "phi" về những gì cuộc sống dưới trần gian đang có, cầu mong "Phi" phù hộ, che trở cho mọi người được khỏe mạnh, cây cối sinh sôi nảy nở, mùa màng tốt tươi, thóc lúa đầy bồ, gia súc không dịch bệnh.

- Mời 2 thầy mo (thầy mo chính mặc áo đỏ, thầy phụ mặc áo đen). Thầy Mo chính mặc áo đỏ cúng thỉnh lên "mương Phi" (ma), còn thầy Mo mặc áo đen cúng cho thế giới hiện tại.

-  Thành phần tham gia trong lễ cúng "xên đông".

Thầy mo chính: Ông Lò Văn Phong, 81 tuổi, bản Cại, xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên  Bái.

Thầy mo phụ : Ông Hà Văn Điền, 73 tuổi, bản Đường, xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Chủ mường: Ông Lò Văn Hó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Hạnh Sơn, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.

Lãnh đạo huyện Văn Chấn cùng toàn thể bà con nhân dân xã Hạnh Sơn và các xã lân cận trong huyện Văn Chấn và du khách gần xa.

* Quy trình tiến hành lễ hội cúng rừng (xên đông).

- Phần lễ: Khi công tác chuẩn bị xong, trâu được đưa về nhà tạo, xưa nay là người có vị trí, chức sắc trong xã (chủ tịch xã, trưởng bản), trâu được buộc dưới cột cái gầm sàn. Đến giờ tốt, thầy mo dắt trâu ra bãi đất rộng ven bờ suối, hoặc bên dưới chân rừng thiêng để mổ. Trước đó, dân bản làm một cái lều nhỏ tại gốc cây đa ở bản Đường để làm ban thờ.

Trâu mổ xong, lấy 4 chân, đầu, nội tạng, tiết để làm lễ cúng. Nội tạng được thầy mo cúng cho thế giới hiện tại, cùng những người giúp việc nướng tại gốc cổ thụ có ban thờ, sau đó chuẩn bị 3 mâm cơm gồm có nội tạng trâu, thịt lợn, gà, gạo, vàng hương, rượu, ... để làm lễ cúng, ban thờ trên gồm có đầu trâu, chân trâu, hoa quả, hương, đầu trâu được đặt chính giữa. Lễ vật cúng lúc nào cũng phải có đầu trâu, chân trâu, người cư dân Việt trồng lúa nước thường có câu: "Con trâu là đầu cơ nghiệp", vì trâu chính là con vật đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt ở nông thôn, trâu gần gũi thân thiết với con người như hình với bóng, số phận của con trâu và người gắn bó đồng cam cộng khổ. Vì vậy mà trong lễ cúng người dân cũng muốn dâng những sản vật quý báu lên các thần thánh.

Mọi việc đã chuẩn bị xong, đúng 8h ngày 02/3/2015 tại sân Ủy ban nhân dân xã Hạnh Sơn đã mời các cấp, các ban ngành, thầy cúng và nhân dân địa phương về dự lễ khai mạc “Lễ hội xên đông”. Trong lễ khai mạc này, địa phương luôn ôn lại lịch sử truyền thống, mục đích, ý nghĩa của rừng cũng như lễ cúng rừng đối với đời sống cộng đồng  nói riêng và con người nói chung. Ngoài việc nhắc nhở cộng đồng giữ gìn truyền thống nghi lễ, các tiết mục văn nghệ dân gian cũng được phô diễn trong buổi khai mạc long trọng này và được bà con các thôn bản nhiệt tình hưởng ứng, thể hiện.

Lễ khai mạc kết thúc là đến giờ linh thiêng nhất mà nhân dân rất coi trọng từ xưa đến nay. Tất cả mọi người đều hướng về khu rừng Pu Loong "đồi rồng" nơi có cây "co loong" (cây cổ thụ) thực hiện nghi lễ cúng rừng. Theo quan niệm của người Thái, gốc cây cổ thụ là nơi các vị thần, thánh thường xuyên lui tới nên lễ cúng xên đông thường được tổ chức tại đây. Ban thờ được làm ngay dưới gốc cây, ngôi nhà thờ được dựng và trang trí chủ yếu bằng các vật liệu tranh, tre, nứa, lá và hoa giấy có màu xanh, đỏ.

Lúc này trước ban thờ gồm có hai thầy mo, ngồi phía sau thầy mo là tạo bản, tạo mường cùng người già, nhân dân trong bản. Thầy mo sẽ cúng theo nghi lễ dân tộc, trong bài cúng, thầy mo kính báo với Phi về cuộc sống hiện tại, những điều đã làm được, những điều chưa làm được, trong đó do ma quỷ dữ làm hại con người nên cầu mong Phi phù hộ, che chở cuộc sống dân bản, trừ ác để dân có cuộc sống an lành, các thầy Mo sẽ lần lượt hỏi ý kiến các Phi về những việc cần làm và không nên làm, sau mỗi câu hỏi của thầy Mo nếu các Phi đồng ý thì hai đồng xu sẽ có một mặt sấp và một mặt ngửa, nếu các Phi không đồng ý thì hai đồng xu mà thầy Mo tung lên mặt đĩa sẽ là hai mặt giống nhau. Nếu các Phi cho rằng đó là điều sai phạm, không đồng ý sẽ rất tức giận, có khi hất tung cả đồng xu xuống dưới nền, các thầy Mo và đồng bào phải xin và hỏi nguyên do, đến khi nào các Phi đồng đồng ý thể hiện trên hai mặt đồng xu thì các nghi lễ cúng tế mới được tiếp tục. Buổi cúng lễ xên đông giống như một cuộc trao đổi, trò chuyện giữa thầy Mo và các Phi, khi cúng xên đông áo của tạo mường sẽ là cầu nối giữa thế giới hiện tại (trần gian) với mường Phi (mường ma).

Người Thái quan niệm về mường ma có 3 mường, nên con người rất sùng bái mường Phi, trong một năm làm ăn được hay không phần lớn là do mường Phi ban cho con người. Hàng năm, con người gặt hát được bất kể thứ gì đều dâng lên cho mường Phi ăn trước. Họ cho rằng, những lễ vật đó là để cảm tạ công ơn thần thánh đã phù hộ cho con người, còn những lễ vật dâng lên cho ma quỷ làm hại con người là những con ma đói, ma khát sẽ biến thành những con sâu, con bọ ra ăn cây lúa, cây ngô mà con người trồng lên. Vì vậy, dâng những lễ vật đó lên để cho ma đói, ma khát ăn no rồi không làm hại ruộng nương con người, cầu mong mường phi phù hộ cho con người. Với những bài cúng thành khẩn của thầy mo mời các vị thần thánh xuống dự lễ cùng nhân dân. Nội dung bài khấn:

Tam Đông Xên

Mơi mưa chảu phạ tẳng phạ tó

Chảu phạ có dệt mương

Có pên mương lo luông cả hak

Bản Cại cáu chiềng lang

Mơi sau ma kin

Kin mết nhứa quai thấc lón quai căm

Nhứa quai thấc lăm quai kiểng

Mơi sau lông ma kin, kin mết lẹo

Dệt xăng hở ly lảy

Cạy xăng hở ly pên nờ

Ăn hại nha hở hên

Ăn khên nha hở hụ

Ly pang tạo, hả pang chiêng

Ly tênh dảo, hảo tênh hươn

Liệng mu ma hở pè

Liệng cáy củ cáy mè hở pên

Liệng ngua pên ngua lai

Liệng quai pè quai lai mè

Púc khảu pên khảu

Khảu na chiêm na mua chằn tênh dân

Tô bổng bô hở cắt...

Dịch nghĩa: Hôm nay ngày lành tháng tốt, dân bản làm mâm cỗ dâng tổ tiên, trời đất và các thánh thần để tỏ tấm lòng thành kính, tưởng nhớ tới công ơn khai mường mở bản, đào ruộng, trồng lúa cho nhân dân no đủ, bản làng yên vui. Mong các vị thánh thần về chứng giám và phù hộ cho dân bản trồng lúa lúa tốt, trồng cây sai quả, chăn nuôi không bị dịch bệnh, mọi người khỏe mạnh, bản làng bình an, ...

Sau khi thầy mo chính cúng xong, đến thầy mo mặc áo đen cúng cho thế giới hiện tại bắt đầu cúng, nội dung bài cúng nói về những tâm ước, nguyện vọng của nhân dân đến các thần thánh, cảm tạ những vị thần đứng đầu của vùng đất, những người đã có công khai phá được những mảnh nương, mảnh ruộng nuôi sống con người, mong muốn sang năm mới, thần thánh sẽ giúp cho nhân dân có một cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc...

Khi thầy mo cúng xong, cả thầy cúng và người dân đều thụ lộc bằng những chén rượu được cho là thần thánh đã ban lộc cho con người. Tất cả vàng hương nhân dân dâng lên thần thánh thì được người giúp việc hóa ngay tại ban thờ. Mâm cúng gồm: đầu, chân, nội tạng trâu được đưa về nhà tạo; gà, rượu, vịt thầy mo mang về, mọi người về nhà tạo ăn uống vui vẻ, múa xòe, hát khắp mừng cho một năm mới.

Trước đây, trong những ngày này, dân bản, dân mường đầu bản, cuối bản ta treo Ta Leo, nhằm mục đích thông báo cho những người làng khác kiêng không cho ai vào bản, đồng thời cấm dân bản lên rừng chặt cây, không được đặt chân lên rừng, kiêng sử dụng đồ dùng dụng cụ sinh hoạt có nguồn gốc từ rừng. Sau 3 ngày dân bản mới được lên rừng chặt cây, lấy củi và người ngoài mới được vào bản. Nhân dân nơi đây quan niệm, thần rừng đã giúp con người cả năm phù hộ, che chở, mang lại những gì tốt đẹp nhất cho nhân dân, đây chính là dịp để cho các vị thần nghỉ ngơi và hưởng thụ những công ơn báo đáp của con người. Đây cũng là dịp để chúng ta chúc mừng nhau những thành quả đã đạt được trong một năm qua, sau một năm miệt mài lao động vất vả, con người cũng cần được nghỉ ngơi, phải có dịp để cảm tạ các thần thánh thì cuộc sống được ấm no, hạnh phúc. Nhưng ngày nay tục lệ cắm Ta Leo ở đầu bản và cuối bản không còn nữa, mỗi khi tổ chức lễ xên đông, tất cả người Thái từ già trẻ, trai gái ở các bản trong xã và các xã lân cận đều kéo nhau đến rất đông. Ngày nay, người Thái quan niệm có lộc thần thánh ban cho thì phải cùng hưởng, còn tục lệ không lên rừng chặt phá cây, lấy củi vào những ngày này vẫn được giữ nguyên, họ cho rằng đây là tháng hưởng thụ những thành quả sau một năm làm việc vất vả, chuẩn bị năm mới với nhiều niềm vui, may mắn và hạnh phúc hơn...

Rừng trong tâm thức của người Thái như trái tim của cộng đồng, thể hiện những quy ước, luật tục và những giá trị văn hóa truyền thống được tôn thờ, được sùng bái. Trải qua hàng ngàn năm chung sống hòa thuận với rừng, những của cải vật chất mà rừng đã đem lại cho người, người dân nơi đây đã rất biết ơn và tôn trọng rừng, đặt ra những quy định về việc bảo vệ rừng được cộng đồng tôn trọng như những luật tục.

Những khu rừng thiêng đã cung cấp cho con người biết bao sản vật, từ những của cải vật chất, những vật dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày. Không những thế rừng còn là nơi bảo tồn những loài động vật quý hiếm của đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải khôi phục lại những khu rừng bị tàn phá, bảo vệ những khu rừng thiêng để bảo vệ môi trường, góp phần to lớn trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

- Phần hội: Sau khi nghi lễ cúng kết thúc, toàn thể đồng bào đều hướng về sân Ủy ban nhân dân xã Hạnh Sơn để tổ chức phần hội, các trò chơi dân gian lần lượt được diễn ra như múa xòe, nhảy sạp, ném còn, tó mắc lẹ, kéo co, đẩy gậy,...Ném còn là một trò chơi dân gian không thể thiếu trong mỗi cuộc vui của cộng đồng. Ném còn thể hiện khát khao của cộng đồng về một cuộc sống bình an, no đủ, một hạnh phúc trọn vẹn cho mỗi gia đình và cho cả bản mường. Bởi vậy, mọi người đều hướng lên cây còn.

Theo quan niệm của người Thái cây càng cao, thẳng thì những mong ước về mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu, đời sống sung túc, nòi giống sinh sôi của con cháu sẽ càng dễ đến với tổ tiên, thần linh ở trên trời. Các cụ già xưa kia cho rằng, quả còn chính là sự mô phỏng rồng còn (luông còn) trong truyền thuyết. Trong tâm thức của họ, rồng chính là con vật đẹp nhất, biểu tượng của sự biến đổi, phát triển, thanh bình và hạnh phúc. Quả còn được khâu theo múi hoa văn nhiều màu sắc ghép nối, tượng trưng cho muôn màu của vũ trụ. Bên trong là hạt thóc, hạt ngô, hạt đỗ, hạt hoa... thể hiện khát vọng tồn tại, sinh sôi, nảy nở của con  người. Dây còn được se bằng sợi gai, nhuộm tua xanh đỏ. Khi ném còn, tất cả mọi người đứng cách cây còn 20 đến 25m và chia thành hai bên, rồi lần lượt bên tung còn, bên bắt còn. Cây còn cao, tâm còn mỏng, bé. Việc tung còn trúng tâm không phải việc đơn giản, ai cũng làm được. Các chàng trai, cô gái kiên trì tung, bắt, có khi đến cả buổi, cả ngày. Mọi người đi dự hội thay nhau ném, đến lúc quả còn xuyên tâm thì dừng lại. Ai ném trúng sẽ được thưởng quà và được coi là người may mắn nhất bản, nhất mường năm đó, đem lại mùa màng tươi tốt cho bản mường. Người tung còn trúng tâm cùng ông Mo bước lên lạy với trời đất và ma mường, ma bản. Ông Mo khấn tạ trời đất, thần linh đã ban phúc lớn cho dân bản.

Bên cạnh những nhóm người thanh niên ném còn là những người đã có gia đình và các cụ già chơi trò "Tó mác lẹ" (chọi quả lẹ). Đây là một trò chơi dân gian độc đáo, được đồng báo Thái rất ưa thích. Luật chơi "Tó mắc lẹ" đơn giản song nó đòi hỏi sự tinh tế và hết sức trình tự của người chơi, trò chơi bao giờ cũng chia thành hai đội và có thể chơi theo nhiều thức, quả mắc lẹ được xác định là quả mốc, đặt cách vị trí xuất phát từ 15-25m, họ đào đất, cắm quả mắc lẹ thành hàng. Người chơi quỳ xuống đất, đặt hạt mắc lẹ lên đùi, dùng thanh tre bật hạt mắc lẹ bắn đến đích, ai bắn trúng đích, làm hàng hạt mắc lẹ đổ xuống nhiều hơn thì người đó chiến thắng. Hoặc có thể chơi theo cách, người chơi dùng chân cặp hạt mắc lẹ, chạy vượt chướng ngại vật, khi cách đích khoảng 40cm thì thả hạt mắc lẹ sao cho trúng mục tiêu, làm hàng mắc lẹ cắm làm mốc đổ nhiều hơn thì là chiến thắng. Các trò chơi cứ lần lượt diễn ra cho hết ngày...

Các nhóm nam thanh niên cùng nhau đẩy gậy, các nhóm phụ nữ kéo co, rồi cùng nhảy sạp, múa xòe, … tất cả cũng hòa vào nhau trong tiếng chiêng, trống rộn ràng của những ngày đầu xuân, của niềm vui cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, nhà nhà no đủ.

Khi những trò chơi kết thúc là đến lúc mọi người cùng nắm tay nhau để xòe, họ xòe mừng cho một năm đạt được nhiều thành quả tốt đẹp, để bước vào một năm với nhiều hứa hẹn, may mắn đang chờ phía trước.

Kết thúc các vòng xòe là lúc người ta chia tay nhau, về với gia đình, với bạn bè, làm những công việc ngày thường với niềm vui phấn khởi của một năm mới hứa hẹn nhiều thành công, để rồi mùa sau gặp lại, lại cùng nắm tay nhau xòe trong chén rượu nồng, xòe trong niềm vui được mùa, may mắn.

* Giá trị của lễ cúng rừng "xên đông":

Là một nghi lễ truyền thống của tộc người Thái, lễ cúng rừng mang trong mình nhiều giá trị không chỉ với cộng đồng tộc người là chủ thể văn hóa mà còn với các cộng đồng xung quanh về truyền thống và ý nghĩa nhân văn cao cả của nghi lễ. Có thể nhận thấy một số giá trị tiêu biểu của nghi lễ như sau:

- Giá trị lịch sử: Lễ xên đông là một nghi lễ truyền thống rất độc đáo, phản ánh một tập quán xã hội có lịch sử lâu đời trong đời sống xã hội cộng đồng, phản ánh quá trình lịch sử, đặc điểm kinh tế, đặc điểm cư trú và một số yếu tố văn hoá, xã hội của tộc người rất rõ nét. Lễ hội xên đông còn là một nghi lễ mang đậm dấu ấn tín ngưỡng văn minh nông nghiệp, tuy có quy mô nhỏ, ngắn gọn nhưng có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện đời sống của tộc người Thái từ xưa đến nay.

- Giá trị văn hóa: Đây là di sản văn hóa phi vật thể có tính đại diện, thể hiện bản sắc của cộng đồng tộc người. Nghi lễ thể hiện quan niệm của cộng đồng về thế giới tâm linh, thể hiện những đặc điểm tôn giáo - tín ngưỡng của tộc người, thể hiện các giá trị văn hóa văn nghệ của cộng đồng, những phong tục tập quán, tính giáo dục của cộng đồng. Lễ "xên đông" được cộng đồng duy trì qua nhiều thế hệ; các nghi lễ, thủ tục cúng tế, các giá trị nghệ thuật độc đáo luôn được bảo tồn và phát huy, do đó nó có giá trị duy trì thuần phong mỹ tục của cộng đồng.

- Giá trị khoa học: Lễ cúng rừng của tộc người Thái ngoài tính giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn cho thế hệ trẻ còn là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán của tộc người Thái. Qua các hình thức chuẩn bị, các bước tiến hành thủ tục nghi lễ, thầy mo cúng tế giúp các nhà nghiên cứu có thêm tri thức dân gian về đời sống vật chất cũng như tinh thần của cộng đồng người Thái.

- Giá trị giáo dục: Lễ "xên đông" thể hiện rất rõ giá trị giáo dục của mình đối với cộng đồng người Thái nói riêng và các tộc người khác nói chung cùng chung sống trong môi trường cảnh quan vùng thung lũng lòng chảo. Nó giáo dục cho con người biết về ý thức giữ gìn môi trường sống với vai trò đặc biệt quan trọng của rừng trong khu vực vòng chảo. Rừng bao quanh cả một vùng lòng chảo (là địa bàn cư trú truyền thống của đồng bào Thái), nếu không có ý thức bảo vệ và gìn giữ rừng thì ắt hẳn môi trường sống của cộng đồng bị ảnh hưởng. Giữ rừng là giữ gìn sự sống, là giữ gìn môi trường trong lành và cúng rừng hàng năm là để giáo dục cho con cháu muôn đời cái ý thức tốt đẹp đó.

- Vai trò của di sản văn hóa phi vật thể đối với đời sống cộng đồng: Lễ "xên đông" (cúng rừng) là lễ cảm tạ thần rừng và những người đã có công khai phá, giúp đời sống nhân dân no đủ, hạnh phúc. Trong tâm thức của người Thái luôn sùng bái về các thần thánh cứu giúp con người, để có một cuộc sống bình an, làm ăn may mắn, có của ăn của để. Vì vậy, đây là một tục lệ phổ biến đối với tộc người Thái. Đây là một nghi lễ rất quan trọng trong đời sống tâm linh, đời sống sinh hoạt xã hội của tộc người.

Lễ hội cúng rừng được tổ chức cả tập thể cộng đồng, lễ cúng nhằm mục đích hướng thiện, giúp con người có một tinh thần thoải mái, tự tin bắt tay vào những công việc đồng áng, chăn nuôi và phấn đấu những việc mà họ chưa đạt được trong cuộc sống. Lễ xên đông còn là dịp để cộng đồng cùng thưởng thức các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhảy múa, khắp và chơi những trò chơi hết sức hấp dẫn. Do đó, đây là một di sản văn hóa phi vật thể có vai trò quan trọng và ý nghĩa thiết thực trong đời sống cộng đồng tộc người nói chung.

Xét về tổng thể, có thể nhận thấy lễ hội "xên đông" của cộng đồng tộc người Thái là một luật tục có tính kế thừa, kết nối các giá trị văn hóa giữa các thế hệ, do vậy nó chứa đựng nhiều thành tố quan trọng của bản sắc văn hoá Thái. Bởi thế, bảo tồn lễ hội "xên đông" sẽ góp phần tích cực vào việc giữ gìn và phát huy các đặc trưng văn hoá truyền thống của tộc người cũng như tính đa dạng của nó trong bức tranh văn hoá cộng đồng các dân tộc Việt Nam.

 

KẾT LUẬN

           

Người Thái xã Hạnh Sơn nói riêng và người Thái huyện Văn Chấn nói chung có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú và đa dạng, mặc dù ngày nay đời sống đồng bào người Thái còn gặp nhiều khó khăn, nhưng văn hóa dân gian, văn hóa truyền thống của đồng bào vẫn được bảo lưu, giữ gìn và phát huy. Nhiều giá trị văn hóa cổ truyền đã làm nổi bật lên giá trị văn hóa người Thái nơi đây, trong cộng đồng miền núi phía Bắc nói riêng và cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.

Lễ hội xên đông của tộc người Thái rất độc đáo, thể hiện những giá trị văn hóa đặc sắc, phong phú của người Thái nơi đây, lễ cúng diễn ra rất đơn giản, mang đậm chất sơ khai của người dân bản địa. Theo quan niệm của người Thái đây là dịp tạ ơn, tưởng nhớ tổ tiên, cảm tạ trời đất, cúng ma mường, ma bản, những người đã có công khai mường tạo bản, xin các đấng siêu nhiên phù hộ cho dân bản thóc lúa đầy bồ, con cháu mạnh khỏe, xin các ma giữ lấy cổng làng, bảo vệ dân bản.

Đây là một nét văn hóa đặc sắc, có tính gắn kết cộng đồng, tăng cường tình làng nghĩa xóm, nhắc nhau trách nhiệm và niềm vui sống trong cộng đồng, giáo dục truyền thống uống nước nhớ nguồn cho các thế hệ mai sau. Do đó, lễ hội xên đông cần được bảo tồn, phát huy giá trị tốt đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc Thái.

Để bảo tồn và lưu giữ giá trị văn hóa đặc sắc này lâu dài trong cộng đồng, chính quyền địa phương cần tiếp tục tập hợp các nghệ nhân cao tuổi, am hiểu văn hóa tộc người và sự đồng thuận của nhân dân trong vùng lên kế hoạch trao truyền cho các thế hệ trẻ nhằm bảo lưu một cách đầy đủ và hiệu quả nhất giá trị văn hóa này.

Đồng thời, các cấp, các ngành và địa phương cần đầu tư kinh phí để thực hiện một dự án quay phim bảo tồn lễ cúng rừng (xên đông) của cộng đồng tộc người trong thời gian gần nhất.

(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)

Ban Biên tập Cổng TTĐT

4823 lượt xem
BBT

15oC

Thấp nhất 13°C, cao nhất 17°C. Trời nhiều mây, . Áp suất không khí hPa.
Độ ẩm trung bình %. Tốc độ gió km/h