Trong
cuộc trò chuyện thân mật, ông Phiệt đã “khoe” một kỷ vật quý giá, đó là cuốn sổ
ghi biên bản họp tổ Đảng làng Đồng Phú, xã Việt Cường, huyện Trấn Yên mà cụ
thân sinh ra bác Phiệt là đồng chí Đinh Văn Cấp đã để lại. Lật từng trang viết,
ghi lại nội dung các cuộc họp tổ Đảng, tôi thấy cảm phục những đảng viên lão
thành hoạt động trong buổi đầu cách mạng. Xin được chép lại đôi chút nội dung
biên bản các buổi họp của tổ Đảng Đồng Phú để giới thiệu cùng bạn đọc, giúp mỗi
chúng ta tự hào hơn về những đảng viên đầu tiên của Cách mạng tháng Tám đã phấn
đấu, hy sinh như thế nào cho hôm nay.
“Tháng
7 năm 1947 tổ Đảng Đồng Phú tổ chức họp. Sau khi chào cờ, tuyên bố lý do, các
đảng viên nghe thông báo của Đảng về tình hình giặc Pháp đã phát hiện ra làng
Đồng Phú; tổ chức quyết định sơ tán đồng bào lên núi cao hoặc hẻm sâu để tránh
địch; chú ý vận động bà con mang hết tài sản và lương thực đi cùng, không để
giặc cướp, phá. Chi bộ yêu cầu các đảng viên của tổ Đảng vận động thanh niên
trong làng xây dựng trận địa đánh giặc...”.
Được
tiếp cận với cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Việt Cường nên tôi nhớ rõ: Năm 1947, giặc
Pháp tăng cường càn quét, bắt bớ, cướp bóc; chi bộ Đảng xã Việt Cường (gồm các
xã Việt Cường, Vân Hội, Việt Hồng ngày nay) đã quyết định tách chi bộ thành các
tổ Đảng nhằm tránh tổn thất và thuận lợi cho lãnh đạo, chỉ huy phong trào cách
mạng. Nhiều trận đánh lớn giữa du kích cách mạng với bọn thực dân và phản động
đã diễn ra ngay tại Khe Đó, Khe Bát, Khe Đá Mài… khiến địch tổn thất nặng nề.
Nhiều du kích anh dũng chiến đấu, hy sinh, trong đó tiêu biểu như đồng chí Đinh
Văn Hữu hy sinh ngay tại đầu làng trong những trận đánh đầu tiên.
Trước
sức mạnh hỏa lực của địch, nhằm hạn chế thương vong cho dân làng, cấp trên đã
quyết định làng Đồng Phú tản cư đi Ẩm Phước, huyện Yên Bình (khi ấy thuộc tỉnh
Tuyên Quang), Nga Quán (Trấn Yên) và một số xã tại huyện Lục Yên. Có dân là
phải có tổ chức Đảng, dân đi là tổ chức Đảng phải đi cùng để lãnh đạo, đó là
chỉ thị của cấp trên. Vậy là, các đảng viên của tổ Đảng Đồng Phú phải vận động
gia đình, họ tộc cùng đi về Ẩm Phước nhằm thuận lợi cho việc tập hợp tổ chức
cuộc sống, dễ dàng trong việc triển khai thực hiện nhiệm vụ kháng chiến. Như
vậy, một chuyện hy hữu đã xảy ra là, tổ Đảng Đồng Phú, Chi bộ Việt Cường lại tổ
chức sinh hoạt tại tỉnh Tuyên Quang, cách xa núi Gạo, Khe Đó hàng trăm cây số!
Đọc
những dòng lịch sử này, tôi chợt nghĩ, có lẽ chỉ những đảng viên cộng sản mới
vất vả hy sinh, bám dân, bám cơ sở để hoạt động như vậy.
Những
trang biên bản các cuộc họp từ năm 1950 ghi rõ: “Các đảng viên có trách nhiệm
vận động quần chúng thương yêu, đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Phân công đồng chí Hà
Kim Tráng, Hoàng Phúc Thăng, Đinh Văn Cấp, chỉ đạo bà con tăng gia, sản xuất,
gieo cấy ngay vụ lúa chiêm”. Ở một cuộc họp vào ngày 8/10/1951 chi bộ họp tại Ẩm
Phước: "Sau chào cờ, tuyên bố lý do, các đảng viên nghe tình hình kháng
chiến. Về chính trị, tuyên truyền để cán bộ, đảng viên tin tưởng vào sự lãnh
đạo của Đảng. Phân công đồng chí Đinh Văn Truyền lên Lục Yên vận động bà con
hồi cư vì quân ta đã mạnh, địch đã suy yếu".
Di
chuyển từ Ẩm Phước lên Cổ Văn - Lục Yên đâu có gần và dễ đi, nhưng nhiệm vụ
Đảng đã giao thì đảng viên phải thực hiện. Băng rừng, lội suối, ăn rau, ăn măng
mà đồng chí Truyền vẫn vượt cả trăm cây số tìm được đồng bào rồi vận đồng họ trở
về. Biên bản họp tổ Đảng Đồng Phú còn ghi lại câu chuyện về tình yêu thương
đồng chí, trong thời buổi nghèo khó, khiến bất cứ ai đọc cũng thấy xúc động.
Chuyện
rằng, giữa năm 1953 đồng chí Hà Kim Tráng vì nghèo khó nên không có tiền nộp
đảng phí nên tại buổi sinh hoạt, đồng chí Tráng đã nhận khuyết điểm và xin chịu
mọi hình thức kỷ luật. Các đảng viên tham dự buổi sinh hoạt đều phát biểu chia
sẻ khó khăn với đồng chí Tráng, rồi cả tổ Đảng đi đến thống nhất, cùng nhau lên
núi lấy song, mây về bán cho người dân để lấy tiền giúp đồng chí Tráng nộp đảng
phí. Cũng xuất phát từ tình yêu thương mà những năm 60, tổ Đảng mà trực tiếp là
các đảng viên đi đầu trong việc vận động đồng bào Dao ở trên núi cao hạ sơn về
Khe Bát định cư. Gia đình các đồng chí đảng viên đều đi đầu trong việc nhượng
lại ruộng đất, vận động nhân dân giúp bà con người Dao làm nhà ở, hướng dẫn bà
con cấy lúa nước…
Ông
Đinh Đình Phiệt tự hào rằng: “Đúng như lời Bác Hồ dạy, phải đoàn kết dân tộc,
đoàn kết tôn giáo. Người Tày, người Dao, người Kinh đều là anh em một nhà. Bản
thân tôi cũng được một gia đình người Dao nhận làm con nuôi. Rất nhiều người
Dao, người Tày, người Kinh ở Việt Cường, Hưng Khánh huyện Trấn Yên kết nghĩa
anh em với nhau từ những năm kháng chiến rất khó khăn vất vả. Tình đoàn kết gắn
bó là cao quý nhất và các đảng viên của Đảng là những hạt nhân liên kết dân
tộc, tôn giáo và dân làng với nhau".
Đã 70
năm trôi qua, những đảng viên của tổ Đảng Đồng Phú thuở ban đầu ấy đã không
còn, nhưng tinh thần vượt khó vươn lên, bám dân, bám làng lãnh đạo quần chúng
sản xuất, dũng cảm chiến đấu và thương yêu đùm bọc lẫn nhau vẫn luôn được phát
huy. Làng Đồng Phú giờ đã thành 3 thôn: Đồng Phú A, Đồng Phú B và Đồng Máy. Tổ
Đảng Đồng Phú giờ đã phát triển thành 3 chi bộ, với trên ba chục đảng viên.
Truyền thống cách mạng được xây lên từ những đảng viên đầu tiên của làng sau
Cách mạng Tháng Tám đã thắp lên ngọn lửa của tinh thần đoàn kết, vì dân, dũng
cảm trong chiến đấu, cần cù, sáng tạo trong lao động vẫn được thế hệ hôm nay tự
hào tiếp nối trên con đường xây dựng cuộc sống mới giàu mạnh và no ấm.