Năm 1982, tôi đã có dịp vào làng Vần, khi
đưa sinh viên đi tìm hiểu thực tế lịch sử địa phương. Lúc đó đường sá xấu lắm.
Thầy trò phải gửi xe đạp ở Việt Cường, vượt đèo Gỗ vào Vần. Đến nơi, chẳng biết
đâu là chiến khu xưa, nên phải nhờ các cụ trong làng dẫn tận nơi giới thiệu. Bữa
trưa được đãi nồi sắn luộc chấm muối vừng đã thấy hạnh phúc lắm. Còn lần này
thì khác rồi. Trời quang đãng, nắng chan hòa, đường phẳng đẹp, hai bên đường là
những triền đồi, cánh đồng, gò bãi đều khoác trên mình một màu xanh mướt mát.
Cảnh vật làng quê thanh bình. Sự no ấm toát lên qua từng gương mặt, nụ cười.
Đổi thay nhiều quá! Tôi băn khoăn tự hỏi,
không biết có còn những dấu tích của một thời như câu thơ Tố Hữu trong bài Việt
Bắc: “Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”? Đến cổng Trường THCS Việt Hồng,
tôi thấy một tấm bia lớn, hàng chữ đậm nét, ngay ngắn: “Nơi đây có đình làng
Vần. Tháng 7/1945, tại sân đình lực lượng vũ trang Yên Bái đã làm lễ tế cờ. Sau
đó tiến đi giải phóng Trấn Yên, Văn Chấn, Phù Yên, Than Uyên, Văn Bàn, góp phần
giành thắng lợi cuộc khởi nghĩa tháng Tám/1945. Sau khi chiếm làng Vần (1947),
Pháp cho phá hủy ngôi đình, nay chỉ còn sân đình và cây vải. Ngày 4/9/1999 đình
được Nhà nước công nhận là Di tích lịch sử - cách mạng trong cụm di tích lịch
sử Chiến khu Vần”.
Thấy tôi đứng chăm chú đọc bia, một cụ già
râu tóc bạc phơ đến bên. Tôi bắt chuyện. Cụ giới thiệu là người làng Vần, lúc
chiến khu được thành lập cụ mới 11 tuổi, song đã được tham gia liên lạc cho đội
du kích. Cụ hào hứng kể: “Đình làng Vần còn gọi là Đình Trung chú ạ. Tại đình
này không chỉ là nơi Đội du kích Âu Cơ làm lễ tế cờ trước khi xuất trận đâu, mà
còn là nơi ta bầu ra Ủy ban cách mạng lâm thời tổng Lương Ca, và cũng là nơi
chính quyền cánh mạng tổ chức "Tuần lễ vàng" quyên góp cho Chính phủ
được 2,1 lạng vàng, 20 lạng bạc và 12,616 đồng Đông Dương nữa. Ngày đó, tuy còn
nhỏ nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ những gì xảy ra. Còn cây vải này là của
nhà ông Trung, nó trên 100 tuổi rồi đấy… ”.
Biết tôi còn muốn thăm các di tích khác, cụ
già tình nguyện dẫn đi. Vào nhà sàn ông Trần Đình Khánh, ngay đầu khu nhà có
tấm bia ghi: “Tại đây có nhà ông Trần Đình Khánh, dân tộc Tày, đi theo cách
mạng, nhà ông trở thành Sở Chỉ huy của lực lượng vũ trang khởi nghĩa và là trụ
sở đầu tiên của Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái. Năm 1946, ông được bầu làm
đại biểu Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và là Chủ tịch Ủy
ban Kháng chiến tỉnh. Ngày 4/9/1995, Nhà nước công nhận nhà ông Trần Đình
Khánh là di tích lịch sử cách mạng, trong cụm di tích Chiến khu Vần”.
Cụ già nói với tôi: “Trên bia chỉ ghi ông
Trần Đình Khánh làm Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến tỉnh, nhưng trước khi làm Chủ
tịch tỉnh, ông Khánh là Chánh tổng Lương Ca, chú ạ. Ông được Việt Minh giác ngộ
đã trở thành cơ sở cách mạng, rồi ông được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách
mạng lâm thời, Chủ tịch Uỷ ban Kháng chiến lâm thời tổng Lương Ca; nhà sàn ông
Khánh trước khi là trụ sở của Ủy ban cách mạng lâm thời tỉnh đã là trụ sở của
Ban lãnh đạo chiến khu Vần và Đội du kích Âu Cơ. Bí thư Ngô Minh Loan, hồi ấy
thường qua lại nhà ông Khánh”.
Tôi nhìn khu nhà xưa của nguyên Chánh tổng
Lương Ca, gồm nhà chính và nhà bếp, quả là rất đồ sộ, hoành tráng, vậy mà ông
đã từ bỏ tất cả để đi theo cách mạng. Cụ già bảo: “Nhà cũ bị Pháp đốt rồi. Đây
là nhà dựng lại, do thợ tận trung ương về làm giống y như nhà cũ”. Tôi bước lên
sàn, thắp hương trên bàn thờ, ngồi nhìn ngắm xung quanh, tưởng tượng ra những
cuộc họp quan trọng của tỉnh trong ngôi nhà này để làm nên thành công của Cách
mạng tháng Tám ở Yên Bái.
Rời nhà ông Khánh, tôi mời cụ già lên xe
cùng đi hang Dơi và gò cọ Đồng Yếng. Đến hang Dơi, tôi không khỏi choáng ngợp
trước vẻ đẹp hoang sơ kì vĩ. Hang cao và rộng, có chỗ cao tới 10m, rộng 8 m. Cụ
già bảo: “Hang Dơi được chọn làm địa điểm phòng thủ và cất giữ lương thực, thực
phẩm. Bãi đất rộng, trước cửa hang này được còn là nơi luyện tập của anh em du
kích”. Hai bác cháu tôi đi tiếp chừng hơn 3 cây số, cụ già vỗ tay bảo dừng xe
và nói: “Đây là làng Đồng Yếng, chú ạ. Làng này nằm giữa Vần và Hiền Lương.
Những quả đồi mâm xôi kia trước đây toàn cọ nên Đội du kích Âu Cơ chọn làm nơi
huấn luyện quân sự và trại sản xuất. Đây cũng là nơi đón các tù nhân cánh mạng
vượt ngục trở về”.
Chiều, đi tiếp vào Đại Lịch. Đến đèo Din,
nơi tiếp giáp giữa Việt Hồng và Đại Lịch, tôi dừng lại lưng chừng đèo, ở đó có
một tấm bia ghi: “Nơi đây, Khe Sâng, Bản Din, xã Việt Hồng, ngày 20/ 11/ 1947,
diễn ra trận đánh của Đội du kích Đại Lịch do Đội trưởng Hoàng Minh Lưu chỉ huy
đã phục kích đánh tan 1 trung đội địch đi càn quét, diệt 1 tên Pháp, 6 lính
ngụy, nhiều tên khác bị thương. Trận này chiến sỹ du kích trẻ Hoàng Văn Thọ đã
can đảm cướp súng đánh lại giặc và anh dũng hy sinh. Năm 1998, Liệt sỹ Hoàng
Văn Thọ được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Trận Đèo Din mở đầu cho chiến tranh du kích trong vùng địch hậu trên địa bàn
tỉnh”.
Tôi đứng lại hồi lâu, cố hình dung ra trận
đánh mai phục của du kích Đại Lịch năm xưa và hình ảnh anh Thọ sau khi giật nổ
mìn, thấy một thằng Tây lảo đảo vật xuống. Từ trận địa mai phục, anh Thọ nhảy
ào xuống đường dùng hết sức giật khẩu tiểu liên khỏi tay tên giặc rồi chạy vào ven
rừng. Nhưng không kịp, bọn lính đã lấy lại bình tĩnh. Một loạt đạn địch làm Thọ
loạng choạng ngã xuống. Hôm ấy là ngày 20 tháng 11 năm 1947.
Chia tay đèo Din, theo lời hẹn, tôi lên trụ
sở xã. Lãnh đạo xã niềm nở, chân tình, mới gặp lần đầu như là bạn đã thân quen
lâu. Các anh dẫn tôi sang nhà lưu niệm Anh hùng liệt sỹ Hoàng Văn Thọ. Nhà xây
đẹp, thoáng đãng, rộng rãi. Chỉ tiếc là hiện vật còn ít và tấm ảnh chân dung Hoàng
Văn Thọ chỉ được vẽ lại theo tượng anh Thọ của họa sỹ Quách Hùng.
Thắp hương cho liệt sỹ Hoàng Văn Thọ, chúng
tôi vào thăm bà Hà Thị Chuyên - người bạn gái của anh Thọ, nguyên mẫu nhân vật
Thảo trong truyện “Kỷ vật cuối cùng” của nhà văn Hà Lâm Kỳ. Bà Chuyên đã trên
80 tuổi, không còn khỏe nhưng rất minh mẫn. Tôi hỏi về tấm áo. Bà bảo cháu vào
buồng bê ra một chiếc hòm gỗ nhỏ, rồi bà lấy ra một cái bọc vải đỏ, cẩn thận mở
bọc, nâng trên hai tay tấm áo chàm và bảo: “Đây là tấm áo anh Thọ mới mặc một
lần. Anh ấy nhờ Thậm đưa cho tôi để thùa thêm cái khuy áo ở cổ …”.
Nhìn bà Chuyên tay run run nâng tấm áo vẫn
mới sau gần 70 năm cất giữ, tôi chợt nhớ tới hình ảnh bà trong tác phẩm “Kỷ vật
cuối cùng” của Hà Lâm Kỳ: “Tin người đội trưởng hi sinh làm các đội viên choáng
váng. Người đau đớn nhất hôm nay là Thảo. Thảo ngất đi, tỉnh lại trên tay Liên.
Mà lạ thay, Thảo không khóc, nước mắt của cô gái mười bốn tuổi ấy đã làm ướt
đẫm tấm áo mà người bạn trai thân yêu gửi lại từ mấy hôm trước...”.
Chia tay bà Chuyên, tôi đi thăm 3 di tích
nữa trên đất Đại Lịch. Vào Khe Liền, trên bãi đất trống đầu làng có một tấm bia
ghi: “Nơi đây có đình Khe Liền. Đình được hình thành từ TK XVIII, chính ngai
thờ Thần Núi Đáy (Tản Viên Sơn), thứ ngai là bài vị thờ ông Hà Đình Sứ, người
có công khai phá lập làng. Khi Nghĩa Lộ giải phóng Huyện bộ Văn Chấn bí mật rút
về đóng tại làng Khe Liền. Tháng 10/1947 tại ngôi đình này đồng chí Nguyễn Tấn
Phúc, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái đã chủ trì làm việc với Huyện bộ chỉ đạo xây dựng
các xã Đại Lịch, Cát Thịnh, Thượng Bằng La… thành căn cứ du kích, phát động
chiến tranh nhân dân trong vùng địch hậu, định hướng đối sách với Pháp, củng cố
chính quyền, bảo vệ dân. Năm 1948 đình Khe Liền bị giặc Pháp đốt cháy cùng với
hàng chục nhà dân trong vùng”.
Quả là, nếu không có tấm bia này, tôi không
thể biết tại đây có một ngôi đình cổ đã từng gắn bó với phong trào cách mạng,
giải phóng dân tộc của tỉnh. Tuy đình cổ không còn nhưng một tấm bia như thế
cần thiết và ý nghĩa đến chừng nào. Điểm đến tiếp theo là thôn Bằng Là, ngay
giữa thôn cũng có một tấm bia ghi: “Nơi đây, bãi chằm Lũng Bũm (Bằng Là), tháng
12/1947, đơn vị 76 bộ đội địa phương Văn Chấn do đồng chí Hà Thiết Hùng chỉ huy
cùng du kích 2 xã Đại Lịch, Chấn Thịnh, được trung đội quân chủ lực Kim Tiến
chặn chốt đã đánh tan 1 trung đội địch từ Đồng Bồ ra Đại Lịch càn quét, diệt và
bắt sống 34 tên (có 2 tên Pháp) thu nhiều vũ khí. Trận Lũng Bũm khẳng định chủ
trương phát động chiến tranh du kích đánh giặc ngay trong hậu địch của Tỉnh ủy
Yên Bái những năm đầu kháng chiến là đúng đắn và sáng tạo”.
Điểm đến cuối cùng là Trường THCS xã Đại
Lịch. Dù đã cuối chiều nhưng các thầy cô giáo và học sinh vẫn đợi để gặp gỡ,
giao lưu. Thầy hiệu trưởng dẫn tôi ra khoảnh sân trước cửa văn phòng, chỉ cho
tôi tấm bia khá lớn và bảo: “Mời thầy xem văn bia của trường”. Tôi chăm chú
đọc: “Từ một nhóm lớp dân góp nuôi thầy, năm 1934 chính quyền châu Văn Chấn
đồng ý cho lập trường, địa điểm đặt tại Gò Lim (Bằng Là). Ông Nguyễn Đức Quỳ đã
truyền bá bài thơ yêu nước, trong đó có đoạn: “Nhà trường dạy tấm gương sử ký/
Đã là người nguyên ủy phải hay/ Bởi đâu có nước non này/ Việt Nam phải biết các
đời Việt Nam…”.
Năm 1943 trường chuyển về gò Bằng (Thanh
Bồng). Tại đây, 3/7/1945, cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên được kéo lên. Ủy ban cánh
mạng lâm thời xã Đại Lịch tuyên bố chính quyền về tay nhân dân. Năm 1947, Pháp
đánh chiếm Văn Chấn, Trường tạm ngừng dạy học, chuyển thành trạm cứu chữa
thương binh các chiến dịch Tây Bắc, Điện Biên. Từ 1965 đến 1968 Trường sơ tán đi
nhiều nơi vẫn vẫn duy trì dạy và học. Ngày đầu thành lập, trường có tên là:
Trường Sơ học yếu lược Đại Lịch. Từ tháng 10/1945 đến nay, cải cách giáo dục,
Trường mang nhiều tên gọi khác nhau. Trường đã ghi danh nhiều thế hệ học trò,
trong đó có Anh hùng liệt sỹ Hoàng Văn Thọ học và là niềm tự hào của nhân dân
các dân tộc Đại Lịch”.
Là người từng trong ngành giáo dục, đến
nhiều điểm trường trong tỉnh, nhưng ít trường có một tấm văn bia như thế. Các
lãnh đạo xã Đại Lịch chia sẻ: “Đại Lịch là một trong những cái nôi của phong
trào cách mạng. Nhân dân Đại Lịch có truyền thống yêu nước, cách mạng và hiếu
học. Chúng tôi thấy cần thiết phải truyền lại tinh thần ấy cho các thế hệ tương
lai, nên đã xây dựng những tấm bia trên. Những tấm bia đó đều do dân trong xã
tự làm và sự tham gia nhiệt tình về vật chất, tinh thần của nhiều người con Đại
Lịch đi công tác xa, trong đó là Nhà văn Hà Lâm Kỳ, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn
hóa - Thể thao và Du lịch, Hiệu trưởng Trường cao đẳng Văn hóa nghệ thuật &
Du lịch tỉnh”.
Chỉ có một ngày với vùng đất chiến khu xưa,
nhưng tôi đã được sống với quá khứ hào hùng và biết được niềm tin và hy vọng
của những con người bình dị nơi đây.