Yên Bái là tỉnh có diện tích chè lớn thứ 2 cả nước. Nhiều năm qua cây chè đóng góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, năm 2015 lại là một năm khó khăn với ngành chè Yên Bái trên cả 3 lĩnh vực chế biến, tiêu thụ và nâng giá trị sản phẩm. Vậy, đâu là giải pháp tháo gỡ khó khăn?
Năm
2015, theo kế hoạch, sản lượng chè búp tươi toàn tỉnh đạt 85 nghìn tấn, song do
những khó khăn về thời tiết, giá cả vật tư, phân bón tăng cao, thị trường “
đỏng đảnh”... nên đến gần hết vụ, sản lượng chè toàn tỉnh mới chỉ đạt trên 72
ngàn tấn, bằng gần 85% kế hoạch. Nguyên nhân năng suất chè giảm là do
chịu ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết, đầu mùa rét đậm rét hại, tháng 6, tháng
7 nắng nóng kéo dài ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây
chè. Bên cạnh đó, một bộ phận người dân có thu nhập thấp ít đầu tư thâm canh
cho cây chè; việc quy hoạch trồng thay thế giống chè cũ còn phân tán, nhỏ lẻ,
chạy theo quy mô diện tích, chưa có sự chuyển biến mạnh trong đầu tư thâm canh,
chăm sóc chè theo hướng hữu cơ bền vững.
Dù chưa
có con số cụ thể thống kê số lượng chè chế biến tồn kho của các nhà máy song
với số lượng trên 100 doanh nghiệp, đơn vị, cơ sở chế biến chè, tổng công suất
chế biến đạt trên 1.200 tấn chè búp tươi/ngày.
Năng
suất chè giảm, giá thu mua chè búp tươi cũng giảm hơn so với năm 2014 đã ảnh
hưởng đến thu nhập của người nông dân. Nếu như năm trước, giá chè búp tươi dao
động từ 3.500 – 4.500 đồng/kg thì năm nay chỉ từ 2.200 đồng – 2.500 đồng/kg.
Nguyên nhân là do việc chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè của các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn. Dù chưa có con số cụ thể thống kê số
lượng chè chế biến tồn kho của các nhà máy song với số lượng trên 100 doanh
nghiệp, đơn vị, cơ sở chế biến chè, tổng công suất chế biến đạt trên 1.200 tấn
chè búp tươi/ngày (chưa tính đến 1520 bom chè mi ni hoạt động với công suất chế
biến từ 500 – 1000 tấn chè búp tươi/ ngày) đã thấy công suất chế biến vượt quá
khả năng cung cấp nguyên liệu, dẫn đến tình trạng tranh mua nguyên liệu, người
trồng chè chạy theo lợi nhuận trước mắt, khai thác chè không đúng quy trình kỹ
thuật, làm giảm sản lượng, chất lượng nguyên liệu, ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm chè chế biến, dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm chế biến khiến khách
mua khó gật đầu.
Bên
cạnh những yếu tố khách quan, thì việc bảo quản, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm
chè ở Yên Bái vẫn còn nhiều bất cập. Công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị
trường tiêu thụ cho sản phẩm chè còn yếu, xuất khẩu trực tiếp đạt thấp nên chưa
thúc đẩy ngành chè phát triển. Sản phẩm có thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa chưa
nhiều, năng lực cạnh tranh và hội nhập còn hạn chế, việc liên kết “4 nhà” mới
chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết. Cùng với đó, việc lạm dụng hóa chất bảo vệ thực
vật, thuốc kích thích tăng trưởng ở nhiều hộ nông dân đã làm ảnh hưởng đến việc
sản xuất chè an toàn ở Yên Bái.
Dù thu
nhập thấp song đã quá gắn bó nhiều năm nên người nông dân không thể bỏ cây chè.
Để người dân sống được và làm giàu từ cây chè thì cần phải xây dựng thương hiệu
cho chè Yên Bái, tìm kiếm thị trường mới cho tiêu thụ sản phẩm chè.
Ông
Trần Đức Lâm – Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái
cho biết: Để tháo gỡ khó khăn cho ngành chè, Yên Bái cần quy hoạch vùng chè
nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, thực hiện liên kết chặt chẽ giữa “4 nhà”.
Vận động nhân dân chăm sóc, thâm canh và cải tạo trồng mới chè già cỗi chất
lượng thấp bằng các giống chè chất lượng cao như: Phúc vân tiên, Bát tiên, chè
lai LDP1… Ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, chế biến chè theo hướng sản
xuất chè thành phẩm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, từng bước triển khai
ứng dụng quy trình thực hành sản xuất chè theo tiêu chuẩn Viet Gap; tập trung
nâng cao chất lượng chè xuất khẩu.
Trước
khó khăn của ngành chè Yên Bái ngoài sự quan tâm của các cấp, các ngành,
các doanh nghiệp cũng cần tích cực đầu tư công nghệ; đặc biệt quan tâm tới quy
trình sản xuất chè an toàn, tạo thương hiệu và uy tín trên thị trường; tạo sự
liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để cùng nhau vượt qua khó khăn.
727 lượt xem
Theo Báo Yên Bái
Yên Bái là tỉnh có diện tích chè lớn thứ 2 cả nước. Nhiều năm qua cây chè đóng góp phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, năm 2015 lại là một năm khó khăn với ngành chè Yên Bái trên cả 3 lĩnh vực chế biến, tiêu thụ và nâng giá trị sản phẩm. Vậy, đâu là giải pháp tháo gỡ khó khăn?
.ExternalClassBA9FDF72769443AE85446686852E3ACD .shape {
}
Năm
2015, theo kế hoạch, sản lượng chè búp tươi toàn tỉnh đạt 85 nghìn tấn, song do
những khó khăn về thời tiết, giá cả vật tư, phân bón tăng cao, thị trường “
đỏng đảnh”... nên đến gần hết vụ, sản lượng chè toàn tỉnh mới chỉ đạt trên 72
ngàn tấn, bằng gần 85% kế hoạch. Nguyên nhân năng suất chè giảm là do
chịu ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết, đầu mùa rét đậm rét hại, tháng 6, tháng
7 nắng nóng kéo dài ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây
chè. Bên cạnh đó, một bộ phận người dân có thu nhập thấp ít đầu tư thâm canh
cho cây chè; việc quy hoạch trồng thay thế giống chè cũ còn phân tán, nhỏ lẻ,
chạy theo quy mô diện tích, chưa có sự chuyển biến mạnh trong đầu tư thâm canh,
chăm sóc chè theo hướng hữu cơ bền vững.
Dù chưa
có con số cụ thể thống kê số lượng chè chế biến tồn kho của các nhà máy song
với số lượng trên 100 doanh nghiệp, đơn vị, cơ sở chế biến chè, tổng công suất
chế biến đạt trên 1.200 tấn chè búp tươi/ngày.
Năng
suất chè giảm, giá thu mua chè búp tươi cũng giảm hơn so với năm 2014 đã ảnh
hưởng đến thu nhập của người nông dân. Nếu như năm trước, giá chè búp tươi dao
động từ 3.500 – 4.500 đồng/kg thì năm nay chỉ từ 2.200 đồng – 2.500 đồng/kg.
Nguyên nhân là do việc chế biến và tiêu thụ sản phẩm chè của các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn. Dù chưa có con số cụ thể thống kê số
lượng chè chế biến tồn kho của các nhà máy song với số lượng trên 100 doanh
nghiệp, đơn vị, cơ sở chế biến chè, tổng công suất chế biến đạt trên 1.200 tấn
chè búp tươi/ngày (chưa tính đến 1520 bom chè mi ni hoạt động với công suất chế
biến từ 500 – 1000 tấn chè búp tươi/ ngày) đã thấy công suất chế biến vượt quá
khả năng cung cấp nguyên liệu, dẫn đến tình trạng tranh mua nguyên liệu, người
trồng chè chạy theo lợi nhuận trước mắt, khai thác chè không đúng quy trình kỹ
thuật, làm giảm sản lượng, chất lượng nguyên liệu, ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm chè chế biến, dẫn đến việc tiêu thụ sản phẩm chế biến khiến khách
mua khó gật đầu.
Bên
cạnh những yếu tố khách quan, thì việc bảo quản, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm
chè ở Yên Bái vẫn còn nhiều bất cập. Công tác xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị
trường tiêu thụ cho sản phẩm chè còn yếu, xuất khẩu trực tiếp đạt thấp nên chưa
thúc đẩy ngành chè phát triển. Sản phẩm có thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa chưa
nhiều, năng lực cạnh tranh và hội nhập còn hạn chế, việc liên kết “4 nhà” mới
chỉ dừng lại ở mặt lý thuyết. Cùng với đó, việc lạm dụng hóa chất bảo vệ thực
vật, thuốc kích thích tăng trưởng ở nhiều hộ nông dân đã làm ảnh hưởng đến việc
sản xuất chè an toàn ở Yên Bái.
Dù thu
nhập thấp song đã quá gắn bó nhiều năm nên người nông dân không thể bỏ cây chè.
Để người dân sống được và làm giàu từ cây chè thì cần phải xây dựng thương hiệu
cho chè Yên Bái, tìm kiếm thị trường mới cho tiêu thụ sản phẩm chè.
Ông
Trần Đức Lâm – Phó giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái
cho biết: Để tháo gỡ khó khăn cho ngành chè, Yên Bái cần quy hoạch vùng chè
nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến, thực hiện liên kết chặt chẽ giữa “4 nhà”.
Vận động nhân dân chăm sóc, thâm canh và cải tạo trồng mới chè già cỗi chất
lượng thấp bằng các giống chè chất lượng cao như: Phúc vân tiên, Bát tiên, chè
lai LDP1… Ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, chế biến chè theo hướng sản
xuất chè thành phẩm, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, từng bước triển khai
ứng dụng quy trình thực hành sản xuất chè theo tiêu chuẩn Viet Gap; tập trung
nâng cao chất lượng chè xuất khẩu.
Trước
khó khăn của ngành chè Yên Bái ngoài sự quan tâm của các cấp, các ngành,
các doanh nghiệp cũng cần tích cực đầu tư công nghệ; đặc biệt quan tâm tới quy
trình sản xuất chè an toàn, tạo thương hiệu và uy tín trên thị trường; tạo sự
liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để cùng nhau vượt qua khó khăn.