Theo số liệu tổng kiểm
kê di sản của ngành văn hóa năm 2011, “trên địa bàn tỉnh Yên Bái có trên 1.200
di sản văn hóa, trong đó hơn 700 di sản văn hóa vật thể và trên 400 di sản văn
hoá phi vật thể”. Các di sản và lễ hội nổi tiếng của tỉnh Yên Bái được biết
đến như: Nhà truyền thống và Làng cổ Pang Cáng của người Mông ở Suối Giàng;
Làng cổ Viềng Công của dân tộc Thái ở Hạnh Sơn (Văn Chấn); Làng cổ Ngòi Tu của
dân tộc Cao Lan, xã Vĩnh Kiên (Yên Bình)... cùng các lê hội như: Lễ Tăm khẩu
mẩu của người Tày (Văn Chấn), Lễ cưới của người Dao (Yên Bình), Lễ Đón hồn mẹ
lúa của người Khơ Mú, xã Nghĩa Sơn (Văn Chấn)... Bên cạnh các giá trị văn hóa
của đồng bào các dân tộc thiểu số, tỉnh Yên Bái còn có nhiều di tích lịch sử đã
được xếp hạng cấp quốc gia như Căng và Đồn Nghĩa Lộ, đèo Lũng Lô, khu di tích
Khu ủy Tây Bắc ở huyện Văn Chấn, Di tích đội du kích Cao Phạ ở huyện Mù Cang
Chải; Di tích bến Âu Lâu ở thành phố Yên Bái, Di tích lịch sử Nguyễn Thái Học,
bến Âu Lâu ở thành phố Yên Bái; Di tích Chiến khu Vần - Dọc huyện Trấn Yên…
cùng nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như: Hồ Thác Bà, Ruộng bậc thang Mù
Cang Chải…
Nhằm phát huy các giá
trị văn hóa trở thành nguồn lực trong phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời
quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc… làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn
bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh
của sự phát triển nhằm bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây
dựng, chỉnh đốn Đảng và nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội; tạo
nên sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước”, trong những năm qua,
Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã chủ trương “Phát triển sự nghiệp văn hoá, du lịch gắn
liền với phát triển kinh tế ở địa phương...”.
Thực hiện chủ trương
của Đảng bộ, Ngành Văn hóa đã tham mưu xây dựng và thông qua nhiều đề án: Đề án
“Bảo tồn, khai thác và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc 4 huyện phía tây
tỉnh Yên Bái”; Đề án tổng thể “Bảo tồn, khai thác và phát huy bản sắc văn hóa
các dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái giai đoạn 2006-2010”; Chiến lược “Bảo tồn và
phát triển văn hóa dân gian các dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái đến năm 2020”; Đề
án “Tổng điều tra và kiểm kê di sản văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Yên Bái”.
Đồng thời, ngành văn hóa phối hợp với các địa phương trong tỉnh tiến hành
rà soát các lễ hội, làn diệu dân ca, dân vũ của các dân tộc để có phương án
khôi phục, bảo tồn. Do có chủ trương đúng đắn và cách làm phù hợp, có hiệu quả
Đề án của Chính phủ về ‘Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm
2020”, đến nay, toàn tỉnh đã khôi phục một số các làn điệu dân ca, dân vũ
cùng các làng nghề thủ công truyền thống của các dân tộc: hát Sình ca dân tộc
Cao Lan (xã Tân Hương, huyện Yên Bình); diễn xướng Khảm hải, dân tộc Tày (xã
Xuân Lai, huyện Yên Bình)… Phục dựng, bảo tồn các lễ hội dân gian truyền thống,
các phong tục tập quán: đám cưới người Dao quần trắng (xã Yên Thành, huyện Yên
Bình); lễ cưới truyền thống dân tộc Mông (xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn); lễ
Mừng cơm mới dân tộc Xa Phó (xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên); lễ Đám chay dân
tộc Cao Lan (huyện Yên Bình); Tết nhảy dân tộc Dao đỏ (xã Kiên Thành, huyện
Trấn Yên); lễ hội Xé then dân tộc Thái (thị xã Nghĩa Lộ), tết Xíp xí dân tộc
Thái đen (huyện Văn Chấn); Múa Mỡi dân tộc Mường (xã Sơn A, huyện Văn Chấn); lễ
Cầu mưa dân tộc Dao (xã Đông An); lễ hội đền Đông Cuông, dân tộc Tày, xã Đông
Cuông; lễ Cấp sắc dân tộc Dao (xã Đại Sơn của huyện Văn Yên); lễ hội Hạn
khuống, dân tộc Thái (xã Nghĩa An, thị xã Nghĩa Lộ)… Đồng thời tiến hành khôi
phục lại các làng nghề truyền thống: nghề làm giấy dó của dân tộc Dao; nghề
rèn, chạm khắc bạc, xe lanh, dệt vải của người Mông; đan lát, dệt thổ cẩm của
người Thái... Vì vậy, “Bản sắc văn hóa tốt đẹp của nhân dân các dân tộc được
bảo tồn và phát huy. Việc cưới, việc tang và lễ hội có sự chuyển biến tích cực,
rõ nét. Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa được quan tâm, đã công nhận trên 66 di
tích cấp tỉnh và 13 di tích cấp Quốc gia”.
Bên cạnh các hoạt động
tu bổ, tôn tạo, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, Yên Bái đã mở tuyến
du lịch văn hóa “về cội nguồn” nhằm khai thác lợi thế du lịch văn hóa, phục vụ
phát triển kinh tế địa phương. Theo đó, tỉnh đã tổ chức thành công “Lễ hội sông
Hồng” gắn với lễ hội đền Mẫu Đông Cuông; tổ chức Tuần văn hoá, thể thao, du
lịch danh thắng quốc gia ruộng bậc thang Mù Cang Chải với chủ đề: “Mù Cang Chải
- kết nối những miền quê danh thắng”. Đặc biệt, đã tổ chức màn đại xòe xác lập
kỷ lục Gui-nét Việt Nam tại thị xã Nghĩa Lộ, với sự tham gia biểu diễn của
2.013 diễn viên, nghệ nhân… góp phần giới thiệu nét văn hóa truyền thống đặc
sắc của dân tộc Thái vùng Mường Lò, thu hút đông đảo khách du lịch trong và
ngoài nước tham dự.
Nhờ có chủ trương đúng
đắn và sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh và các cấp ủy việc khôi
phục bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc
tỉnh Yên Bái đạt hiệu quả cao, tăng tỷ trọng kinh tế của ngành du lịch dịch vụ.
Theo số liệu của Ngành Du lịch tỉnh Yên Bái, nếu năm 2012 tỉnh Yên Bái
đã đón và phục vụ 265.280 lượt khách đến tham quan các di sản văn hóa và danh
lam thắng cảnh (trong đó khách quốc tế đạt 14.841 lượt), doanh thu đạt 111,4
tỷ đồng thì đến năm 2014 đạt gần 440.000 ngàn lượt người, doanh thu trên 178 tỷ
đồng. Chỉ riêng trong Tuần Văn hóa - Du lịch Danh thắng quốc gia Ruộng bậc
thang Mù Cang Chải năm 2015 đã có hơn 20 nghìn lượt du khách trong nước và quốc
tế đến với Yên Bái. Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ XVIII của Đảng bộ
tỉnh Yên Bái (tháng 9-2015) cho biết: “Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5
năm đạt 11,3%; trong đó, dịch vụ là 15%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực; tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 42,9% lên 45,1%. Tổng sản phẩm trên
địa bàn (giá so sánh 2010) năm 2015 đạt 15.548 tỷ đồng, tăng bình quân
10,7%/năm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25triệu đồng, gấp 2,1 lần
so với năm 2010”.
Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đạt được, công tác bảo tồn, phát triển văn hóa của tỉnh Yên Bái
vẫn còn những hạn chế. Đó là: Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về lĩnh
vực văn hoá chưa đầy đủ, chưa đúng mức. Công tác chỉ đạo ở cơ sở còn kém hiệu
quả, còn nhiều mặt bất cập chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới. Mức hưởng
thụ về văn hoá của nhân dân ở các thôn bản vùng sâu, vùng xa, vùng cao quá thấp
so với vùng đô thị. Công tác xã hội hoá về hoạt động, xây dựng các thiết chế
văn hoá cơ sở còn chậm đổi mới, chưa huy động được các nguồn lực xã hội tham
gia. Đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, cơ chế chính sách thu hút lực
lượng trẻ tham gia vào hoạt động các lĩnh vực của ngành còn chậm đổi mới. Sự
phối hợp giữa các ngành chưa tích cực và đồng bộ. Cơ sở vật chất cho hoạt động
văn hoá còn nhiều yếu kém, lạc hậu. Kinh phí hoạt động còn thấp so với nhu cầu,
nhất là đối với cấp huyện, cấp xã.
Để công tác bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc ở tỉnh Yên Bái gắn
với phát triển kinh tế bền vững và hiệu quả, cần thực hiện tốt một số giải pháp
sau:
Thứ nhất, xây
dựng cơ chế, chính sách phù hợp trong quản lý bảo tồn và phát triển các giá trị
văn hóa truyền thống. Tăng cường công tác quản lý của ngành văn hóa, tạo môi
trường thuận lợi cho việc phát triển văn hóa theo quy định của pháp luật. Có
chính sách thu hút các nguồn lực cho việc bảo tồn và phát triển văn hóa bền
vững.
Thứ hai, đẩy
mạnh tuyên truyền về đạo đức, lối sống, các chuẩn mực giá trị văn hóa trong
nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, góp phần xây dựng
con người Yên Bái phát triển toàn diện. Nâng cao chất lượng và hiệu quả các
hoạt động văn hóa, văn nghệ, tạo điều kiện cho các hoạt động văn học nhằm đáp ứng
nhu cầu hưởng thụ của nhân dân. Đồng thời, đẩy mạnh công tác xã hội hóa các
hoạt động văn hóa; tạo cơ chế, tăng cường đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa
phục vụ cho hoạt động văn hóa từ tỉnh đến cơ sở.
Thứ ba, tăng
cường quảng bá, giới thiệu rộng rãi quy hoạch chi tiết các công trình văn hoá,
các khu du lịch trọng điểm của tỉnh để kêu gọi đầu tư. Tập trung đầu tư có
trọng điểm vào các di sản truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu sốt, các
danh lam thắng cảnh như hồ Thác Bà, khu du lịch suối Giàng, Ruộng bậc thang Mù
Cang Chải... nhằm tạo ra nét đặc sắc riêng của tỉnh. Đồng thời, xây dựng các ấn
phẩm giới thiệu về văn hoá, du lịch Yên Bái, xây dựng các biển quảng cáo tấm
lớn, các biển chỉ dẫn quảng bá trên phương tiện thông tin đại chúng để tuyên
truyền rộng rãi trong nhân dân địa phương cũng như ra toàn quốc và bạn bè
quốc tế.
Thứ tư, tiến
hành tổ chức mở các khoá đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp vụ văn hóa cho cán bộ làm
công tác văn hóa dưới nhiều hình thức. Tăng cường đầu tư đào tạo và bồi dưỡng
nghiệp vụ thường xuyên cho cán bộ văn hoá cấp xã, phường, đặc biệt chú trọng
đến cán bộ văn hoá các xã vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và cán
bộ văn hoá thôn, bản. Đồng thời, có chính sách đãi ngộ phù hợp đối với cán bộ
làm văn hóa.
Thứ năm, tăng
cường hợp tác phát triển văn hoá với các tỉnh trong khu vực cũng như các tỉnh
trên phạm vi toàn quốc, đồng thời tham gia tham gia đầy đủ các sự kiện văn hoá
của khu vực, quốc gia, trong đó tổ chức tốt ngày hội văn hoá thể thao khu vực
Tây Bắc, Chương trình Du lịch về cội nguồn, hợp tác giữa các tỉnh khu vực Tây
Bắc, tạo điều kiện phối hợp trao đổi thông tin, giới thiệu hình ảnh đất nước
con người Yên Bái đến với mọi người và các tổ chức trong và ngoài nước.
Thực hiện chủ trương
phát triển văn hóa gắn với tăng trưởng kinh tế không chỉ là giúp tăng thêm
nguồn thu ngân sách cho tỉnh, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân mà còn giúp cho việc bảo tồn và phát triển bền vững các giá trị
truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số của tỉnh Yên Bái.
Theo Xây dựng đảng