Lần đầu tiên nước ta có một ngân hàng của
Nhà nước dân chủ nhân dân, là kết quả của quá trình đấu tranh xây dựng hệ thống
tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ. Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng
Việt Nam
gắn liền với lịch sử từng thời kỳ cách mạng và công cuộc xây dựng đất nước. Quá
trình phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam đến nay, có thể chia thành 4
thời kỳ như sau.
Thời kỳ 1951 - 1954: ngày 6/5/1951, Ngân
hàng Quốc gia Việt Nam thành lập với các nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý việc phát
hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc Nhà nước, thực hiện
chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý
tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Thời kỳ 1955 - 1975: là thời kỳ cả nước
kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc vừa xây dựng, chiến đấu, vừa chi viện cho cách
mạng giải phóng miền Nam.
Nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ này là: củng cố thị trường tiền tệ, giữ cho tiền tệ
ổn định, góp phần bình ổn vật giá, khôi phục kinh tế chống chiến tranh phá hoại
của Mỹ ở miền Bắc, chi viện cho chiến trường miền Nam.
Thời kỳ 1975 - 1985: là giai đoạn khôi phục
kinh tế sau chiến tranh giải phóng và thống nhất nước nhà, nhiệm vụ cụ thể của
ngành ngân hàng là tiến hành thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả
nước và thanh lý hệ thống ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam.
Thời kỳ 1986 đến nay: là quá trình đổi mới
căn bản và toàn diện hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nghị định 53/HĐBT (tháng
3/1988) với định hướng cơ bản là chuyển hẳn hệ thống ngân hàng sang hoạt động
kinh doanh. Đến tháng 5/1990, Hội đồng Nhà nước thông qua và công bố Pháp lệnh
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã Tín dụng và Công
ty Tài chính.
Sự ra đời của 2 Pháp lệnh đã chính thức
chuyển cơ chế hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ một cấp sang hai cấp. Quan
hệ hợp tác giữa Việt Nam với Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới
(WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) được tái lập và khơi thông; Luật Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X (ngày
2/12/1997) và Quốc hội khóa XII thông qua (ngày16/6/2010).
Theo đó, khẳng định Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam là cơ quan ngang bộ của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ,
hoạt động ngân hàng và ngoại hối; hoạt động nhằm ổn định giá trị đồng tiền; bảo
đảm sự an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng; bảo đảm sự
an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia; góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế, xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Những năm qua, các giải pháp điều hành về
tiền tệ và hoạt động ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước tích cực triển khai đồng
bộ, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế; đảm bảo an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng; thị trường
tiền tệ, ngoại hối và vàng ổn định; dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng nhanh. Vị thế
của đồng tiền Việt Nam
được nâng lên, lập lại niềm tin của nhân dân vào điều hành chính sách tiền tệ
đất nước. Đó là một thành công căn bản trong điều hành chính sách tiền tệ của
Việt Nam.
Trải qua 65 năm xây dựng, trưởng thành và
phát triển, hệ thống ngân hàng Việt Nam đã vượt qua muôn vàn khó khăn, thử
thách, không ngừng lớn mạnh, phát triển, góp phần xứng đáng vào củng cố nền độc
lập, dân chủ, phục vụ sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và ngày
nay đang là một trong những nhân tố tích cực trong công cuộc đổi mới đất nước,
chuyển mạnh sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Tại tỉnh nhà, ngày 1/6/1951 Ngân hàng Yên
Bái đã được thành lập. Từ khi thành lập đến nay, sau những lần sáp nhập, chia
tách, chuyển đổi cơ chế hoạt động, Ngân hàng Yên Bái luôn phát triển, đổi mới
và đạt được những kết quả quan trọng đóng góp tích cực vào các thành tựu chung
của toàn ngành, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế,
xã hội địa phương.
Mạng lưới hoạt động ngân hàng được mở rộng
đến các xã, phường với các loại hình Ngân hàng Thương mại Nhà nước, Ngân hàng
Thương mại cổ phần, Ngân hàng Chính sách xã hội và các quỹ tín dụng nhân dân
(QTDND). Toàn tỉnh hiện có 7 chi nhánh ngân hàng loại I, 10 chi nhánh loại III,
65 phòng giao dịch, 35 máy rút tiền tự động, 17 QTDND và 180 điểm giao dịch lưu
động tại trụ sở UBND các xã, phường, thị trấn của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Tính quy mô và thị trường hoạt động không
ngừng được mở rộng; năng lực tài chính, trình độ về quản trị kinh doanh, khả
năng cạnh tranh từng bước được tăng cường, đảm bảo hoạt động an toàn, phù hợp
với các quy định của pháp luật, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội địa phương.
Đến hết năm 2015, tổng nguồn vốn của các
chi nhánh ngân hàng, QTDND đạt 13.522 tỷ đồng, tăng gấp 119,6 lần so với năm
1991 (năm đầu tái thành lập tỉnh Yên Bái); tổng dư nợ cho vay đối với nền kinh
tế đạt 11.732 tỷ đồng, tăng gấp 217,2 lần so với năm 1991; tín dụng chính sách xã
hội đạt 2.016 tỷ đồng, tăng gấp 9,88 lần so với năm 2003 (năm đầu thành lập
Ngân hàng Chính sách Xã hội). Vốn tín dụng ngân hàng trong những năm qua, đã
đáp ứng tốt nhu cầu vay vốn phục vụ phát triển SXKD và đời sống của nhân dân;
cơ cấu tín dụng phù hợp với chuyển dịch cơ cấu và tốc độ tăng trưởng nền kinh
tế địa phương trong từng thời kỳ.
Hệ thống thanh toán điện tử, thanh toán
không dùng tiền mặt, các dịch vụ tiện ích ngân hàng mới, hiện đại không ngừng
được phát triển ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng trong
thanh toán chuyển tiền trong nước và quốc tế; thanh toán lương qua tài khoản...
Đến 31/12/2015, toàn tỉnh có 35 máy rút
tiền tự động ATM với 135.424 thẻ thanh toán đã phát hành, gấp 14,73 lần so với
năm 2007 (năm đầu tiên triển khai thực hiện thanh toán lương), có 40,06% đơn vị
thực hiện chuyển lương qua tài khoản từ ngân sách Nhà nước, riêng thành phố Yên
Bái tỷ lệ đạt 98,23%. Công tác tổ chức, cán bộ luôn được tăng cường và củng cố;
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, được đào tạo và đào tạo lại đáp ứng được
yêu cầu nhiệm vụ đổi mới của ngành và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
Đồng chí Bùi Trung Thu chủ trì một
buổi giao ban tháng của Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Yên Bái.
Trong quá trình 65 năm xây dựng, trưởng thành
và phát triển, từ ngày tái lập tỉnh (năm 1991) đến nay, ngành Ngân hàng Yên Bái
đã vinh dự được đón nhận các phần thưởng cao quý: 3 Huân chương Lao động hạng
Nhì; 4 Huân chương Lao động hạng Ba cho tập thể và 10 cá nhân; 48 lượt đơn vị tập
thể nhận Cờ thi đua xuất sắc của tỉnh, của ngành; 42 lượt đơn vị tập thể, cá
nhân nhận bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 03 cá nhân đạt danh hiệu Chiến sỹ
thi đua toàn quốc; 158 lượt cá nhân đạt danh hiệu Chiến sỹ thi đua cấp ngành,
cấp tỉnh và 962 lượt đơn vị tập thể, cá nhân được Chủ tịch UBND tỉnh, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước tặng bằng khen.
Nhân dịp này, thay mặt cán bộ, công chức,
viên chức và người lao động trong toàn ngành ngân hàng trên địa bàn, tôi xin
trân thành cảm ơn Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh và Ngân hàng Trung ương. Cảm ơn
các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị, xã hội đã phối hợp, giúp đỡ và tạo
điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng hoạt động ngày càng có hiệu quả phục vụ
tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội địa phương.
Để góp phần thực hiện thắng lợi các mục
tiêu chính sách tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội địa phương, những
năm tiếp theo toàn ngành ngân hàng trên địa bàn cần tập trung làm tốt những
nhiệm vụ trọng tâm đó là:
Thứ nhất, tạo mọi điều kiện thuận lợi và
khuyến khích các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần
lớn mở chi nhánh tại Yên Bái phát triển mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch,
máy rút tiền tự động ATM, điểm chấp nhận thanh toán thẻ, thành lập và mở rộng
mới QTDND, nhằm đa dạng hóa các loại hình tổ chức tín dụng phục vụ phát triển
kinh tế, xã hội địa phương.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức huy động
vốn, tranh thủ nguồn vốn từ Trung ương. Tập trung nguồn vốn cho vay phục vụ các
nhu cầu sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, khu vực nông nghiệp, nông thôn, xây dựng
nông thôn mới, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án trọng điểm và nhu cầu vay vốn
của các hộ nghèo, hộ cận nghèo, các đối tượng chính sách xã hội. Tăng trưởng
tín dụng hàng năm phù hợp mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ và các chỉ tiêu
phát triển kinh tế, xã hội của địa phương; mở rộng tín dụng gắn với nâng cao
chất lượng tín dụng và kiểm soát nợ xấu ở mức an toàn.
Thứ ba, cung ứng đầy đủ các phương tiện
thanh toán cho nền kinh tế, mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển
các dịch vụ ngân như phát triển thêm các máy rút tiền tự động ATM, lắp đặt các
điểm chấp nhận thẻ, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng tiếp cận và hưởng
các dịch vụ tiện ích ngân hàng hiện đại.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, nâng cao vai trò
quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối trên địa bàn;
nâng cao chất lượng công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra của Ngân hàng Nhà
nước đối với hoạt động của các chi nhánh ngân hàng, QTDND, đảm bảo an toàn hệ.
Thứ năm, tăng cường công tác giáo dục chính
trị, tư tưởng, nâng cao trình độ mọi mặt, đổi mới phong cách, lề lối làm việc
của cán bộ, công chức, viên chức ngân hàng, tạo dựng hình ảnh đẹp, ấn tượng cho
khách hàng; giảm thời gian giải quyết các thủ tục hành chính, thời gian thẩm
định hồ sơ cho vay, giải ngân cho vay, thanh toán... tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho khách hàng trong quan hệ giao dịch tại các chi nhánh ngân hàng, QTDND
trên địa bàn góp phần cải thiện và nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh (PCI)
của tỉnh.
Nhiệm vụ của toàn ngành những năm tới là
rất nặng nề. Song, phát huy truyền thống vẻ vang 65 năm xây dựng, trưởng thành
và phát triển của ngành, cán bộ, công chức, viên chức ngành ngân hàng Yên Bái
quyết tâm, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần thực hiện thắng
lợi các mục tiêu chính sách tiền tệ và các chỉ tiêu nhiệm vụ phát triển kinh
tế, xã hội địa phương theo Nghị quyết tỉnh Đảng bộ Yên Bái lần thứ XVIII đã đề
ra.
Bùi Trung Thu - Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh tỉnh Yên Bái
Theo Báo Yên Bái