Diện tích lớn, năng suất thấp
Là tỉnh miền núi, địa hình chia cắt mạnh
bởi những dãy núi cao và sông ngòi nhưng Yên Bái lại có diện tích trồng ngô
bình quân hàng năm trên 28.000 ha, chiếm hơn 40% diện tích gieo trồng cây lương
thực toàn tỉnh. Với lợi thế đó, những năm qua, Yên Bái đã có nhiều cơ chế,
chính sách và chỉ đạo phát triển cây ngô. Tuy nhiên, năng suất, chất lượng ngô rất
thấp, bình quân mới đạt trên dưới 30 tạ/ha.
Với năng suất này chỉ bằng 70% năng suất
ngô của cả nước và bằng 73% năng suất ngô của các tỉnh miền núi phía Bắc và
chưa đạt 50% tiềm năng năng suất của giống ngô lai. Năm 2015 được đánh giá là
thắng lợi nhất từ trước đến nay mà năng suất ngô cũng chỉ đạt 32 tạ/ha, sản
lượng đạt trên 93.000 tấn, chiếm 30% tổng sản lượng lương thực toàn tỉnh.
Với quyết tâm đưa cây ngô trở thành cây chủ
lực trong sản xuất lương thực, tỉnh quy hoạch và phát triển trên 5.000 ha ngô
đông trên đất 2 vụ lúa thành vùng ngô hàng hóa. Song song với quy hoạch vùng
ngô hàng hóa, những năm qua, tỉnh có nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển
sản xuất từ vùng ngô đông đến ngô đồi vùng cao.
Tại các huyện, thị cũng thành lập ban chỉ
đạo phát triển ngô nhưng kết quả mang lại chưa đạt được như mong muốn. Nguyên
nhân chính là do địa hình canh tác chủ yếu là đất dốc, cùng với đó là không có
thị trường tiêu thụ; sản xuất thiếu tập trung và chưa có sự đầu tư đồng bộ từ
khâu quy hoạch đến tổ chức sản xuất, chế biến và tiêu thụ; việc đầu tư thâm canh,
áp dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất còn hạn chế...
Giải pháp cho cây ngô phát triển
Để cây ngô thực sự trở thành cây trồng chủ
lực trong sản xuất lương thực, nhất là sản xuất theo hướng hàng hóa, trước
tiên, ngành nông nghiệp và các huyện, thị có lợi thế về phát triển cây ngô phải
xây dựng, đầu tư, quy hoạch cụ thể. Trong quy hoạch, đầu tư không nên làm tràn lan
mà chỉ tập trung ở các huyện Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên, Mù Cang Chải và Trạm
Tấu. Bởi đây là các huyện có diện tích trồng ngô hàng năm lớn và người dân đã
có nhiều kinh nghiệm cũng như kỹ thuật cơ bản trong trồng ngô.
Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng đồng bộ
các giải pháp về thâm canh: đưa các giống ngô lai năng suất cao vào sản xuất
phù hợp với sinh thái và vụ sản xuất. Những diện tích ngô đông nhất thiết sử
dụng giống ngắn ngày; ngô trên đất đồi, đất dốc sử dụng giống chịu hạn tốt,
thân khỏe… áp dụng linh hoạt về thời vụ, mật độ gieo trồng hợp lý, đầu tư thâm
canh tốt...
Giống ngắn ngày bà con nên bố trí trồng mật
độ cao từ 6,6 - 7 vạn cây/ha, giống dài ngày trồng mật độ 5 vạn cây/ha. Trong
đầu tư thâm canh cần bón từ 8 - 10 tấn cộng với 520 kg NPK và 150 - 180 kg đạm
urê cùng 90 - 120 kg kali.
Trong thực tế, thời gian qua, mật độ cây/ha
có thể bảo đảm song khoảng cách giữa các cây không bảo đảm đặc biệt là các xã
vùng cao, vùng đồng bào dân tộc có thói quen gieo dày cây/hốc và khoảng cách
giữa các hốc thưa, do đó, tình trạng cây phát triển hạn chế ra bắp nhỏ, năng
suất thấp.
Một trong những giải pháp tăng năng suất
ngô một cách bền vững là phải ứng dụng đồng bộ các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất như làm ngô bầu và làm đất tối thiểu đối với ngô đông trên đất hai vụ
lúa; sử dụng thảm che phủ đất bằng tàn dư thực vật và trồng xen cây họ đậu bảo vệ
đất, hạn chế xói mòn và thoái hóa trên đất dốc.
Cuối cùng là làm tốt công tác thu hoạch và
bảo quản sau thu hoạch, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ sở chế
biến và bao tiêu sản phẩm cho nông dân. Bên cạnh đó, ngành nông nghiệp đang
triển khai đề án hỗ trợ sản xuất ngô đông trên đất hai vụ lúa giai đoạn 2016 - 2020.
Mục tiêu ổn định trên 6.000 ha ngô vụ đông; trong đó, có 4.000 ha ngô trên đất
2 vụ lúa, phấn đấu năng suất đạt 35 - 40 tạ/ha. Đề án hỗ trợ 20% giá giống ngô
lai, mức hỗ trợ không quá 320.000 đồng/ha, tổng vốn thực hiện dự án trên 360 tỷ
đồng.
Giải quyết tốt những vấn đề nêu trên, chắc
chắn sản xuất ngô sẽ thành công, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế -
xã hội địa phương và thu nhập của người dân. Đây cũng là một mắt xích quan
trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nhất là cây trồng trên đất lúa.