Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Bảo tồn văn hóa phi vật thể cấp quốc gia >> Văn hóa - Xã hội

Nghề thủ công truyền thống của người Phù Lá (Xá Phó) - Xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái

21/06/2019 17:12:22 Xem cỡ chữ Google
Tộc người Phù Lá nói chung cũng như nhóm Phù Lá (Xá Phó) nói riêng, có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú và đa dạng; mặc dù ngày nay đời sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn, nhưng các giá trị văn hóa dân gian truyền thống vẫn được bảo lưu, giữ gìn và phát huy. Trong số rất nhiều những yếu tố văn hóa độc đáo đó, nghề thủ công truyền thống là một loại hình không thể thiếu, góp phần làm nên những yếu tố đặc sắc trong văn hóa của tộc người.

Chiếc sáo do người dân tộc Phù Lá thiết kế

* Khái quát về người Phù Lá (Xá Phó) ở tỉnh Yên Bái

I. Khái quát về lịch sử di cư và địa bàn cư trú:

Dân tộc Phù Lá ở Việt Nam có dân số khoảng 10.944 người (theo thống kê dân số năm 2009), có mặt tại 23 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Tộc người Phù Lá tập trung đông nhất tại các tỉnh miền núi phía Bắc như Lào Cai (8.926 người), Yên Bái (942 người), Hà Giang (785 người),... và có bốn nhóm là: Phù Lá Hoa, Phù Lá Đen, Phù Lá Hán và Phù Lá Lão (Lao Va Xơ).

Người Phù Lá ở Yên Bái thuộc nhóm Phù Lá Lão (Lao Va Xơ) hay còn gọi là Xá Phó. Ngôn ngữ đồng bào Phù Lá (Xá Phó) sử dụng thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến (trong dòng ngữ hệ Hán - Tạng), có tiếng nói riêng, song không có chữ viết riêng.

1. Lịch sử di cư:

 "Sự xuất hiện của người Phù Lá ở Việt Nam gắn với quá trình xáo trộn dân cư, bất đồng ngôn ngữ và tranh giành đất đai trong phạm vi khu vực Nam Trung Quốc và Bắc Đông Dương" (theo "Người Phù Lá ở Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái" của tác giả Hoàng Sơn, xuất bản năm 2007). Tộc người này đã di cư sang những vùng đất của Lào Cai (giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc) vào khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và dần di cư sang các vùng đất khác, trong đó có xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

Ban đầu chỉ có 13 hộ sống tập trung thành làng bản và sinh sống bằng nghề săn bắt và hái lượm. Họ Đặng là dòng họ có số người đông nhất và lớn nhất lúc bấy giờ. Khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta, làng không có ai đi theo giặc, mặc dù cuộc sống lúc đó rất khó khăn, cực khổ. Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc; đến năm 1956, theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ, dân tộc Phù Lá di cư xuống những vùng núi thấp, ở ven sông suối định cư, phát triển dân số và kinh tế. Thời gian đầu, họ gặp rất nhiều khó khăn trong lao động sản xuất, vì thiếu dụng cụ lao động, không có kỹ thuật; nhưng từ khi nhà nước xóa bỏ bao cấp thì đời sống của họ mới được cải thiện và nâng cao. Những năm trở lại đây, đời sống kinh tế của họ đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt là kinh tế hộ gia đình. Bản sắc văn hóa của tộc người vẫn được gìn giữ từ đời này sang đời khác.

2. Khái quát về địa bàn cư trú:

- Khái quát về đặc điểm tự nhiên, xã hội, huyện Văn Yên

* Đặc điểm tự nhiên:  Văn Yên là một huyện vùng núi, nằm về phía Bắc của tỉnh Yên Bái, cách trung tâm tỉnh lỵ 40 km, với tổng diện tích đất tự nhiên là 1.391,54 km2 (theo thống kê năm 2009), được thành lập từ tháng 3 năm 1965. Huyện Văn Yên nằm trong tọa độ địa lý 104º23' đến 104º23' độ kinh Đông và từ 21º50'30 đến 22º12' vĩ độ Bắc; phía Đông giáp huyện Lục Yên và Yên Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn, phía Nam giáp huyện Trấn Yên, phía Bắc giáp huyện Văn Bàn và huyện Bảo Yên (tỉnh Lao Cai). Huyện Văn Yên có hệ thống giao thông vận tải thuận tiện về cả đường bộ, đường sắt và đường thủy.

Địa hình huyện Văn Yên tương đối đa dạng và phức tạp, đồi núi liên tiếp cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc, thuộc thung lũng sông Hồng kẹp giữa hai dãy núi cao là Con Voi và Púng Luông. Hệ thống sông ngòi dày đặc với các kiểu địa hình khác nhau, như vùng núi cao hiểm trở, vùng đồi bát úp lượn sang nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và những cánh đồng phù sa nhỏ hẹp ven sông. Sự chênh lệch địa hình giữa các vùng trong huyện rất lớn, đỉnh cao nhất là Pú Luông (cao 2.985 mét), nơi thấp nhất là 20 mét so với mực nước biển. Do đặc điểm địa hình như trên nên Văn Yên là huyện có nhiều tiềm năng về rừng. Rừng ở Văn Yên chủ yếu là loại rừng á nhiệt đới và nhiệt đới núi cao với các loại cây gỗ quý như pơ mu, thông, nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ,...

Huyện Văn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa nóng ẩm. Nhưng khí hậu Văn Yên tương đối ổn định, ít đột biến nên rất phù hợp với trồng trọt và chăn nuôi. Các loại cây trồng chủ yếu là cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp dài ngày như chè, quế. Quế Văn Yên được cho là giống quế tốt nhất Việt Nam, có hàm lượng tinh dầu cao thứ hai ở Việt Nam (sau quế Trà My), đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Diện tích vùng trồng quế ở Văn Yên lên tới hơn 40 nghìn hecta. Ngoài ra, ở đây còn có các loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày như sắn, lạc, đậu, đỗ các loại. Những nơi có khí hậu mát mẻ ở vùng cao còn cho phép trồng nhiều dược liệu quý và chăn nuôi gia súc có sừng như trâu, bò, dê, hươu...

Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, đặc điểm khí hậu và tập quán canh tác, có thể chia Văn Yên thành ba vùng kinh tế chủ yếu:

+ Vùng thâm canh lúa gồm 13 xã: Yên Hưng, Yên Thái, Ngòi A, Mậu A, Mậu Đông, Đông Cuông, Hoàng Thắng, Xuân Ái, Yên Hợp, An Thịnh, Yên Phú, Đại Phác và Tân Hợp (trong đó, thị trấn Mậu A là trung tâm huyện lỵ).

+ Vùng trồng màu và cây ăn quả gồm 6 xã: Lang Thíp, Lâm Giang, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, An Bình, Đông An.

+ Vùng trồng quế gồm 8 xã: Phong Dụ Thượng, Phong Dụ Hạ, Xuân Tầm, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Quang Minh, Viễn Sơn và Đại Sơn.

* Về giao thông vận tải: Trước năm 1954, Văn Yên chỉ có hai con đường chủ yếu là đường bộ liên tỉnh và đường sắt Hà Nội - Lào Cai chạy qua với chiều dài 55 km; 93,5 km đường tỉnh lộ và gần 400 km đường liên xã, liên thôn; phương tiện vận tải cả thủy và bộ đều rất lạc hậu, thiếu thốn. Việc đi lại của nhân dân chủ yếu theo các con đường mòn xuyên qua núi, theo khe suối rất khó khăn. Qua mấy chục năm xây dựng và phát triển dưới chế độ mới, ngày nay Văn Yên có hệ thống giao thông khá phát triển, ô tô vận tải có thể đi đến tất cả các xã, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế và mở mang văn hóa xã hội. Đặc biệt là  tuyến đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai chạy dọc qua địa phận 8 xã của huyện, với chiều dài hơn 50 km, có hai điểm dẫn lên đường cao tốc gắn với hai cây cầu qua sông Hồng tại hai khu đô thị là thị trấn Mậu A và thị tứ Trái Hút.

* Đặc điểm xã hội: Toàn huyện có một thị trấn và 26 xã: Thị trấn Mậu A, các xã: Lang Thíp, Lâm Giang, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, An Bình, Quang Minh, Đông An, Đông Cuông, Phong Dụ Hạ, Mậu Đông, Ngòi A, Xuân Tầm, Tân Hợp, An Thịnh, Yên Thái, Phong Dụ Thượng, Yên Hợp, Đại Sơn, Yên Hưng, Đại Phác, Yên Phú, Xuân Ái, Hoàng Thắng, Viễn Sơn, Mỏ Vàng, Nà Hẩu. Trung tâm huyện lỵ đặt trên địa bàn thị trấn Mậu A.

Tổng dân số toàn huyện Văn Yên là 115.614 người. Trong đó, nam 57.686 người (chiếm 49,9%); nữ 57.928 người (chiếm 50,1%). Dân số ở khu vực thành thị là 10.166 người (chiếm 8,79%); dân số ở khu vực nông thôn là 105.448 người (chiếm 91,21%). Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,14%, gồm nhiều tộc người sinh sống như Kinh, Dao, Tày, Mường, Mông, Giáy, Khơ Mú, Thái, Phù Lá... Mật độ dân số phân bố không đồng đều, có nơi tập trung rất đông như ở thị trấn Mậu A là 1.253 người/km2, ngược lại, ở một số xã vùng cao, diện tích rộng nhưng mật độ dân cư ít như xã Phong Dụ Thượng, bình quân khoảng 23 người/km2, xã Xuân Tầm là 35 người/km2, xã Nà Hẩu 28 người/km2 (theo thống kê dân số năm 2009).

Tổng số lao động đang trong độ tuổi là 61.391 người, chiếm 53,1% dân số. Trong đó, số người có khả năng lao động là 59.241 người, chiếm 96,5%, số người mất khả năng lao động là 2.150 người, chiếm 3,5%.

* Khái quát về xã Châu Quế Thượng:

- Vị trí địa lý: Xã Châu Quế Thượng là một xã vùng cao thượng nguồn đặc biệt khó khăn của huyện Văn Yên, cách trung tâm huyện 50km về phía Bắc; phía Đông giáp sông Hồng và các xã Lâm Giang, Lang Thíp; phía Nam giáp xã Châu Quế Hạ; phía Bắc giáp xã Tân An; phía Tây giáp xã Chiềng Ken, Nặm Tha (huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai). Xã Châu Quế Thượng có mười thôn bản, bao gồm: Thôn 1, 2, 3 (Đồng Tâm); thôn 4, 5 (Lẫu); thôn 6, 7 (Nhầy); thôn 8 (Ao Ếch); thôn 9 (Gò Xoan); thôn 10 (Khe Sán), với tổng diện tích tự nhiên của toàn xã là 7.550 hecta (thống kê năm 2014), diện tích đất nông lâm nghiệp là 5.492,38 hecta.

- Văn hóa xã hội: Dân số của toàn xã là 3.967 người (số liệu thông kê dân số năm 2014). Trong đó, tộc người Kinh chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 41,78%, tiếp đến là tộc người Phù Lá (Xá Phó) là 22,17%, tộc người Tày là 15,88%, tộc người Mường là 0,63%, tộc người Mông là 15,2% và tộc người Dao là 4,3%. 

- Về Giáo dục: Năm 2014, xã đã có ba cấp học, trong đó có hai trường mầm non, gồm tám lớp học với 220 học sinh; một trường tiểu học gồm mười một lớp với 332 học sinh; một trường THCS gồm mười một lớp với 323 học sinh. Tỷ lệ học sinh lên lớp bình quân hàng năm đạt từ 95 - 98%; phổ cập giáo dục THCS đạt từ 97 - 98%.

- Về Y tế: Trạm y tế xã đã được xây dựng khang trang, gồm có 6 giường bệnh, 5 biên chế y sỹ. Hàng năm thực hiện đầy đủ các tiêu chí đạt chuẩn về y tế; duy trì tốt công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân trong xã.

- Về Văn hóa: Việc thực hiện nếp sống văn hóa trong việc cưới, việc tang, lễ hội có nhiều tiến bộ, đã phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tại địa phương. Thông tin truyền thanh, truyền hình đã cơ bản đáp ứng được nhu cầu của nhân dân và phục vụ các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Tỷ lệ người nghe đài đạt 98%, xem truyền hình đạt 88%; hàng năm đăng ký sử dụng gần 18 đầu báo, trên 1000 người sử dụng Internet. Hoạt động của bưu điện văn hóa xã được duy trì thường xuyên, liên tục, công văn, báo chí được chuyển, cấp phát kịp thời, đảm bảo nhu cầu tiếp cận văn hóa, thông tin của cán bộ và nhân dân.

- Về Giao thông: Xã Châu Quế Thượng là một trong những xã có tuyến đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai chạy qua, song đường giao thông liên thôn đã và đang xuống cấp, đi lại rất khó khăn. Vì vậy, xã rất cần có sự quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan chức năng để nhân dân được thuận lợi trong việc giao thương với các xã bạn cũng như huyện lỵ.

- Về công tác an ninh - trật tự: Tình hình an ninh chính trị, an toàn xã hội được giữ vững và ổn định, công tác đấu tranh và phòng chống tội phạm được tăng cường, các vụ việc mất trật tự an ninh xảy ra trên địa bàn được giải quyết nhanh chóng và kịp thời. Phong trào quần chúng tham gia bảo vệ an ninh Tổ quốc được phát triển rộng khắp, có hiệu quả.

- Về Quân sự: Tổ chức tốt công tác huấn luyện lực lượng dân quân đảm bảo đúng nội dung và chất lượng huấn luyện. Bảo quản tốt vũ khí được trang bị, kết hợp với lực lượng công an, các ban ngành đoàn thể và các trưởng thôn, triển khai thực hiện tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng và công tác phòng, chống bão lũ.

* Đặc điểm kinh tế:

1. Kinh tế truyền thống: Hoạt động kinh tế truyền thống trước đây chủ yếu dựa vào nương rẫy với phương pháp canh tác thô sơ như chọc lỗ tra hạt, săn bắn; sản xuất nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi cùng các nghề thủ công truyền thống với hình thức tự cung tự cấp. Làm nương rẫy sử dụng hoàn toàn bằng sức người, từ khâu làm đất cho đến công đoạn gieo hạt, mặc dù thời kỳ đó, gia súc như trâu, bò cũng đã được nuôi rộng rãi. Đối với những tộc người sống ở các vùng lân cận, việc sử dụng sức kéo của gia súc vào việc làm vỡ đất trước khi tra hạt rất phát triển, điều này đã chứng tỏ trình độ sản xuất nông nghiệp của người Phù Lá chậm hơn so với các tộc người khác. Ngoài ra, việc sản xuất các sản phẩm từ các nghề thủ công nghiệp cũng không mấy phát triển, sản xuất chủ yếu phục vụ nhu cầu trong đời sống sinh hoạt của nhân dân. Trồng trọt, chăn nuôi cũng không được chú trọng phát triển cả về số lượng và chất lượng.

2. Kinh tế hiện nay: Kinh tế đã phát triển hơn với sự kết hợp giữa phát triển nông lâm nghiệp với các nghề thủ công truyền thống. Sản xuất nông - lâm nghiệp cũng được phát triển hơn với việc đẩy mạnh canh tác lúa nước, trồng cây gây rừng. Ngoài ra, các loại cây ăn quả cũng đã tạo nguồn thu nhập đáng kể trong phát triển kinh tế gia đình. Đặc biệt là, chăn nuôi gia súc, gia cầm ngày càng phát triển về số lượng, cụ thể: trâu có 925 con; bò là 295 con; gia cầm có 17.115 con (theo số liệu thống kê năm 2014). Trong nông nghiệp đã được áp dụng khoa học, kỹ thuật tiến tiến, hiện đại nên đã cải thiện được sản lượng và chất lượng của các loại cây trồng cũng như vật nuôi. Xã đã chủ động giao rừng cho từng hộ dân để họ vừa trồng cây gây rừng vừa phát triển kinh tế hộ gia đình; cùng với dự án xóa đói giảm nghèo, xã đã cấp cho các hộ gia đình trâu, bò, lợn, gà... để phát triển cả số lượng và chất lượng, nhằm cải thiện, nâng cao hơn nữa chất lượng cuộc sống.

Những ngày nông nhàn, người dân còn phát triển thêm các nghề phụ như đan lát, thêu thùa... để mang đi trao đổi, mua bán tại các phiên chợ trên địa bàn. Đây là hoạt động vừa mang ý nghĩa văn hóa truyền thống vừa là nguồn kinh tế phụ của từng gia đình. Các sản phẩm từ nghề phụ này được rất nhiều người ưa chuộng vì những đường nét hoa văn tiêu biểu dân tộc. Với giao thông thuận lợi như ngày nay thì việc giao thương với các vùng lân cận cũng khá dễ dàng; các sản phẩm từ nông, lâm nghiệp cũng như các nghề thủ công truyền thống cũng là những vật trao đổi, mua bán với các tiểu thương lái đến từ các vùng khác nhau.

* Đặc điểm xã hội:

Thiết chế xã hội người Phù Lá (Xá Phó) trong xã hội phong kiến là chế độ phụ quyền; căn cứ vào quan hệ truyền thống xa hay gần mà định trên dưới, theo một thứ tự tôn ti rất nghiêm ngặt. Quan hệ láng giềng là mối quan hệ chủ đạo trong các bản làng tộc người sinh sống. Các gia đình trong bản có nhiều họ khác nhau, mỗi họ lại chia thành nhiều chi. Phủ bên ngoài các tên, họ bằng âm Hán, Hán - Việt, Việt - Thái còn có những tên họ riêng bằng tiếng của tộc người. Dấu vết thờ vật tổ trong các dòng họ còn đặc biệt rõ nét ở nhóm này. Quan hệ dòng họ không thật chặt chẽ, người dân trong bản thường giúp đổi công cho nhau, ăn chung với gia chủ bữa tối trong những ngày mùa. Khi gia đình nào đó có công to, việc lớn (cưới xin, làm nhà, ma chay...) đều nhận được sự giúp đỡ của các thành viên khác trong bản.

Dòng họ: Tộc biểu thị quan hệ thân thuộc của gia đình, mỗi người chịu sự chi phối của hai hệ thống tộc: cửu tộc (chín họ) và tam tộc (ba họ). Cửu tộc là chín thế hệ, lấy một người làm chuẩn thì trên là cha (phụ), trên cha là ông (tổ), trên ông là cụ (tằng tổ), trên cụ kị là cố (cao tằng tổ), dưới chắt là chút (tằng tăng tôn). Lấy huyết thống làm nguyên tắc, người cùng họ không được lấy nhau, ai phạm điều cấm kỵ ấy đều khép vào tội loạn luân. Trước đây, người Phù Lá có tục khi anh trai chết thì em trai phải lấy chị dâu làm vợ, trừ trường hợp chênh lệch tuổi tác quá lớn. Trong gia đình, ngôi trưởng đích hệ là rất quan trọng, lấn át hàng thứ. Quyền của người cha đối với con là tuyệt đối, con đối với cha phải ăn ở hết đạo hiếu.

Gia đình: Là kiểu gia đình nhỏ, một vợ một chồng; bên cạnh đó cũng tồn tại một số ít gia đình lớn phụ quyền, quan hệ trong gia đình có những tập quán còn biểu hiện của tàn dư lễ giáo phong kiến như: địa vị của người phụ nữ rất thấp kém trong gia đình và xã hội. Ngày nay, vai trò của người phụ nữ đã được coi trọng trong gia đình cũng như trong các công tác xã hội. Người phụ nữ đã được giải phóng, thoát ra khỏi sự ràng buộc của phong tục lạc hậu và lễ giáo phong kiến. Tiếng nói của người phụ nữ bao giờ cũng có trọng lượng nhất định, điều này bắt nguồn từ nguyên nhân kinh tế, trong đó, vị trí kinh tế của người phụ nữ trong gia đình không hề thua kém người đàn ông.

* Một số đặc điểm về văn hóa vật chất.

1. Nhà cửa: Người Phù Lá (Xá Phó) ở nhà sàn là chủ yếu; họ thường làm nhà ở các ven đồi, lưng tụa vào đồi núi, phía trước nhà là những mảnh vườn hoặc các thửa ruộng. Người Phù Lá khi chọn đất làm nhà, họ chọn rất kỹ lưỡng và cẩn thận. Trước tiên, họ sẽ thử chỗ đất đó bằng cách đào một cái hố nhỏ và thả ba hạt thóc xuống rồi úp lại; gần đến ngày dựng nhà, họ sẽ đến xem hạt thóc nở quay về hướng nào thì họ sẽ làm nhà theo hướng đó. Khi đã chọn được đất làm nhà, họ tiến hành dựng cột nhà bằng các cây gỗ to có ngoãng (chạc cây), vách nhà làm bằng phên nứa hoặc phên vầu, sàn nhà được dải các phên vầu hoặc nứa đã dập ra, mái nhà lợp bằng lá cọ.

Nhà của người Phù Lá (Xá Phó) thường có năm gian và hai bếp, các gian được chia theo một trật tự nhất định. Gian đầu hồi cạnh cầu thang là gian của chủ nhà; gian bên kia là gian của con cháu hoặc để tiếp khách; gian giữa có "cửa ma" là gian dùng để thờ cúng. Dọc theo chiều dài ngôi nhà, bếp chia thành hai phần: bếp chính dùng để nấu nướng, còn bếp trên đối diện với cửa ma chỉ sử dụng để nấu các món làm đồ cúng.

Đặc trưng nhà sàn của người Phù Lá (Xá Phó) là cầu thang được làm bằng ba cây gỗ có bậc, bên cạnh là máng nước lần, sử dụng để rửa chân; gần máng nước, người ta bắc một hòn đá to nối với cầu thang lên nhà để khi khách rửa chân xong, bước sang hòn đá đó rồi mới bước lên cầu thang để vào nhà.

2. Trang phục: Trang phục là một trong những yếu tố tạo nên đặc thù  riêng của mỗi dân tộc, tạo nên nét văn hóa của tộc người đó và nó mang tính khu biệt rõ ràng trong mỗi cộng đồng. Trang phục của người Phù Lá (Xá Phó) không chỉ có độ bền cao mà còn mang nhiều giá trị thẩm mỹ. Áo váy của họ làm bằng vải bông, được ghép ngang từng khúc, mỗi khúc là một kiểu hoa văn, họa tiết với cách pha màu khác nhau. Trên thân áo có đính các dải hạt cườm, một chất liệu không thể thiếu được của người Phù Lá (Xá Phó), cùng với đó là nhiều nét văn hóa độc đáo mang giá trị thẩm mỹ cao. Những hoa văn này được phân bố khá đồng đều ở cả váy và áo. Hoa văn được phân bố theo chiều ngang của thân áo và váy với các màu chủ đạo như đỏ, trắng, xanh, hồng, tím. Ngoài ra, còn có khăn đội đầu được trang trí các mảng hoa văn hình ô vuông, hình quả trám, các hình tam giác nhỏ... với đủ màu sắc, càng tôn thêm vẻ đẹp cho toàn bộ trang phục.

 * Trang phục nam: Nam giới thường mặc áo loại xẻ ngực; áo được may từ sáu miếng vải, cổ thấp, không cài cúc, nẹp ngực viền vải đỏ, ống tay hẹp, cổ tay thêu hoa văn như áo phụ nữ.

* Trang phục nữ: Trước kia, phụ nữ Phù Lá (Xá Phó) khi chưa lấy chồng thường để tóc dài và quấn quanh đầu cùng với dải khăn màu chàm và một mảnh khăn thêu hoa văn bên ngoài. Trang phục của phụ nữ bao giờ cũng được trang trí cầu kỳ, gồm có váy và áo. Chất liệu chính là vải thô màu chàm hoặc đen; sau khi mua về, vải được giặt sạch, phơi khô cho mềm. Chiếc áo của người phụ nữ thường là áo ngắn, dài tay, cổ vuông, thấp, chui đầu. Cổ vuông và mô tuýp hoa văn trang trí cũng như lối bố cục dùng màu làm cho chiếc áo của họ không thể lẫn với các tộc người khác. Các hoa văn được trang trí tùy theo sự sáng tạo của từng người. Hoa văn trang trí trên áo cũng rất cầu kỳ với màu sắc sặc sỡ và được thêu hoàn toàn bằng tay. Váy màu chàm hoặc đen, được may với cạp chiết nhỏ, thân váy được chắp lại từ hai mảnh vải và được trang trí những họa tiết, hoa văn cầu kỳ. Mảng hoa văn gần cạp váy thêu hình thoi nối dài với nhau, xen kẽ bằng các đường chỉ màu rực rỡ. Chân váy được thêu hình cây thông nối tiếp nhau, bên dưới là hình sóng nước hoặc hình răng cưa, hình quả trám và các hình tam giác xếp chéo lên nhau, đầu và chân váy được trang trí các mảng màu đỏ, trắng, vàng, tím (giống như trên cạp áo) khoảng 2/3 trên nền vải chàm. Ngoài loại áo chui đầu, cổ vuông ra, họ còn có loại áo dài năm thân, cúc cài lệch nên nách phải hoặc loại áo tứ thân, cổ cao, tròn và cài cúc vải.

3. Ăn uống: Người Phù Lá (Xá Phó) có nguồn gốc sinh sống bằng nghề săn bắt và hái lượm. Sau những ngày đi rừng săn bắt được nhiều, ngoài việc sử dụng ngay, họ còn dành một phần bảo quản và cất trữ, chủ yếu trữ dưới dạng sấy khô. Vì thế, các món ăn của người Phù Lá thường được chế biến từ những nguyên liệu đã được sấy khô là chính.

Các món ăn hàng ngày của họ khá đơn giản, thực phẩm chính là lúa nương và các nông sản như ngô, khoai, sắn... Ngoài ra, nguồn thực phẩm khác cũng khá phong phú và đa dạng như bầu, bí, rau quả, cá, thịt gà, thịt lợn… Chế biến món ăn chủ yếu dưới hình thức lam, nướng, xào hoặc luộc. Khẩu vị họ là thích ăn những món có vị cay, chua, đắng.

Nước uống: được dẫn từ trên các đỉnh núi đá cao hay còn gọi là nước lần hoặc đào giếng để lấy từ những mạch nước ngầm chảy trong lòng đất. Nước uống có thể được đun sôi hoặc uống trực tiếp tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Khi ở nhà, có nhiều điều kiện hơn thì họ sử dụng nước đun sôi nhưng khi trên nương hay trên đường đi, họ thường uống nước lã mang theo người hoặc nước chảy từ các khe suối, khe đá.

4. Đi lại, vận chuyển: Dựa vào địa hình cư trú của người Phù Lá (Xá Phó) mà ta có thể thấy rằng, trước kia, khi kinh tế còn chậm phát triển thì đồng bào thường vận chuyển bằng cách gánh, vác, gùi...; di chuyển chủ yếu bằng giao thông đường bộ và phương tiện chủ yếu là đi bộ. Nhưng ngày nay, họ sống ở các triền núi thấp, gần bờ sông nên ngoài giao thông đường bộ, họ còn sử dụng cả giao thông đường thủy với các phương tiện hiện đại như xe máy, công nông, ô tô..., và vì thế, việc vận chuyển hàng hóa cũng như di chuyển của họ trở nên dễ dàng. Chính vì vậy, kinh tế cũng có phần phát triển, việc giao thương với các dân tộc khác cũng được diễn ra thường xuyên hơn.

* Một số đặc điểm văn hóa tinh thần

1. Tiếng nói - chữ viết:

 Tiếng nói: Dân tộc Phù Lá (Xá Phó) thuộc nhóm ngôn ngữ Tạng - Miến, nằm trong hệ ngữ Hán - Tạng. Từ xưa đến nay, ngôn ngữ của tộc người này vẫn luôn được gìn giữ và bảo tồn nguyên vẹn trong đời sống hàng ngày.

Chữ viết: Đồng bào dân tộc Phù Lá không có chữ viết riêng của dân tộc mình. Hiện nay, họ cũng học và sử dụng chữ Quốc ngữ như các dân tộc khác.

2. Ngữ văn dân gian: Ngữ văn dân gian của người Phù Lá (Xá Phó) vô cùng phong phú với nội dung chủ yếu phản ánh tâm tư, tình cảm của tộc người, tình yêu thiên nhiên, đất nước; ca ngợi tình yêu của nhũng đôi trai gái, tài năng và trí tuệ của đồng bào. Trong các sáng tác, văn học dân gian chiếm phần lớn, bao gồm truyện cổ, thơ ca, câu đố, tục ngữ...; các sáng tác này chủ yếu được lưu truyền trong dân gian bằng phương thức truyền miệng.

3. Nghệ thuật trình diễn dân gian: Nghệ thuật dân gian của người Phù Lá (Xá Phó) rất phong phú và đa dạng về hình thức thể hiện như: âm nhạc, múa, hát... Trong đó, âm nhạc của họ nổi bật nhất là hai loại nhạc cụ sáo "cúc kẹ" (sáo mũi) và khèn ma nhí với những cung bậc cảm xúc thể hiện tâm tư, tình cảm của tộc người với giai điệu trầm bổng, réo rắt đi vào lòng người. Cùng với âm nhạc là các điệu múa truyền thống dân tộc, diễn tả khung cảnh tăng gia sản xuất và đời sống sinh hoạt hàng ngày; các điệu múa được lưu truyền từ đời này sang đời khác, theo phương pháp truyền dạy. Đặc biệt, trong điệu múa Xình xi pá, mỗi động tác múa đều có một chủ đề nhất định; có thể là diễn tả những công việc lao động sản xuất hay ca ngợi vẻ đẹp của quê hương, đất nước, tình yêu đôi lứa…, được chắt lọc từ chính cuộc sống, tình yêu, lao động, sinh hoạt của đồng bào.

Hát kể là thể loại độc đáo trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc Phù Lá (Xá Phó) và được truyền từ đời này sang đời khác; đặc biệt là hát kể trong đám cưới với sự kết hợp với trống da trâu, tiếng sáo mũi và tiếng khèn ma nhí. Theo quan niệm của đồng bào, hạnh phúc lứa đôi cũng giống như tiếng khèn, tiếng sáo phải có cặp thì khi ngân lên mới tạo ra sự đồng điệu, hài hòa.

Theo quan niệm của họ, chu kỳ đời người gồm bốn giai đoạn: sinh ra, trưởng thành, xây dựng gia đình và già yếu rồi chết. Mỗi mốc thời gian bắt đầu một chu kỳ đều gắn với nhiều lễ hội đặc trưng mang ý nghĩa khác nhau và không thể thiếu hát kể - một hình thức truyền tải câu nói mang giai điệu với giá trị nhân văn sâu sắc. Ngoài ra, còn có một số loại hình diễn xướng khác như hát ru, hát giao duyên...

4. Tập quán xã hội:

- Phong tục sinh đẻ: Phụ nữ dân tộc Phù Lá thường đẻ ngồi. Họ không được ngủ trên giường mà phải ngủ trên đệm rơm. "Nhau" đẻ được chôn dưới gầm giường hoặc chân dưới chân cột ở gầm sàn, phía buồng ngủ. Sau khi người phụ nữ đẻ, gia đình đó sẽ kiêng người lạ vào nhà ba ngày với dấu hiệu úp nón trên cọc ở trước cửa hoặc cọc bôi than đen có cắm lá đùm đũm ở ngoài cửa. Lễ đặt tên cho con được tiến hành vào khoảng mười hai ngày, sau khi đứa con được sinh ra, do thầy mo thực hiện. Mỗi người được đặt hai tên, một tên khác chỉ dùng để cúng báo tổ tiên hay cúng lúc chết.

- Phong tục cưới xin: Trong cuộc sống mới ngày nay, tục cưới xin của người Phù Lá tuy có nhiều đổi thay nhưng vẫn lưu giữ được những nghi thức độc đáo mang đậm nét văn hóa truyền thống riêng của dân tộc mình. Trai gái dân tộc Phù Lá đến tuổi trưởng thành không bị cha mẹ ép duyên mà được tự do tìm hiểu trước hôn nhân. Khi tìm được cô gái vừa ý, chàng trai về nhà thông báo với bố mẹ và xin ý kiến. Nếu bố mẹ chàng trai đồng ý, họ sẽ nhờ ông mối đến nhà cô gái để thưa chuyện. Mười hai ngày sau, ông mối lại sang nhà gái và mang lễ vật gồm có tiền, hai con gà - một trống, một mái, hai ống rượu bỗng và một vòng tai. Nếu bên nhà gái trả lời đồng ý, ông mối và bố mẹ cô gái sẽ bàn về ngày cưới và lễ vật cưới.

Lễ vật cưới gồm có hai lễ, một lễ để biếu bố mẹ cô gái, một lễ biếu họ hàng nhà gái, gồm có tiền, bạc trắng, thịt ống, thịt gói, rượu, bánh giầy. Sau đó, đám cưới có thể được tổ chức sau một, hai năm. Theo tập quán của dân tộc Phù Lá, cô dâu về ở nhà chồng. Đến ngày cưới đã định, ông mối cùng một số người nhà trai sang nhà gái; tới đầu bản, ông mối phải uống hết mười hai bát rượu và nhà gái lấy mười hai ống nước vẩy ướt đoàn nhà trai, trừ ông mối. Sau đó, đoàn nhà trai đi đến sân nhà gái thì đốt lửa, sưởi cho khô người. Trước khi lên nhà, đoàn nhà trai phải hát đối để được vào nhà và đưa cô dâu về. Vào nhà, ông mối trao lễ vật cho nhà gái và nhà trai tổ chức một bữa cơm thân mật tại nhà gái. Trong đám cưới, họ buộc chỉ trắng vào cổ tay cô dâu, chú rể và phù dâu, phù rể.

Buổi chiều là nhộn nhịp nhất trong đám cưới, nhà trai dâng lên bố mẹ cô gái hai bát rượu và một mâm thịt để xin ra về. Bố mẹ cô gái biếu ông mối một đùi lợn và dặn ông mối: “Con gái tôi không còn là của gia đình tôi nữa, nó là người của nhà chồng, nhà chồng phải dạy bảo nó”. Sau đó, bố mẹ cô gái tặng của hồi môn cho con mình mang về nhà chồng, thường có một con lợn, 30 cân thóc giống, một con dao, một cái chum, một cái cào cỏ và những gì cô gái tự tay làm ra, cô đều được mang về nhà chồng.

- Phong tục tang ma: Khi gia đình có người chết thì thi thể của người chết sẽ được đặt ở giữa nhà, đầu quay về phía bàn thờ, phía trên căng một chiếc chài rộng, đỉnh chài móc dưới mái nhà. Nước rửa mặt cho người chết không được đổ đi mà để tự bốc hơi hết. Cúng cơm thì gồm có một bát cơm cắm đôi đũa, con gà (đã được thui hoặc nướng, không cắt tiết, không rửa). Trong những ngày tang gia, con cái trải đệm rơm ngủ hai bên quan tài; áo quan bằng thân gỗ, không nắp, đắp bằng dát vầu hoặc đóng bằng ván. Lễ viếng có kèn, trống. Khiêng quan tài ra đến nghĩa địa mới đào huyệt. Có nơi còn làm nhà mồ cho người chết. Trong đám tang, người Phù Lá rất quan tâm đến việc giữ gìn hồn vía của những người đi đưa tang để không bị ở lại dưới mộ hay nghĩa địa.

- Tín ngưỡng thờ cúng: Người Phù Lá thờ riêng tổ tiên nam để phù hộ cho sức khoẻ, tổ tiên nữ phù hộ cho mùa màng. Lễ cơm mới chủ yếu cúng ở nơi thờ tổ tiên nữ, do phụ nữ đại diện và nữ giới trong nhà được ăn cơm trước. Lễ cúng bản thường vào tháng Hai hàng năm. Họ thực hiện nhiều nghi lễ tín ngưỡng nông nghiệp trên nương, ruộng để cầu mong mưa thuận, gió hòa, mùa màng tươi tốt, bội thu. Chiếc chài mới cũng phải qua lễ cúng mới được mang ra sử dụng. Thầy cúng giữ vị trí quan trọng trong xã hội. Những người là thầy cúng thường được dạy theo cách truyền khẩu vào các dịp tết tháng Giêng, tháng Bảy.

5. Nghề thủ công truyền thống: Nghề thủ công truyền thống của người Phù Lá (Xá Phó) rất phong phú và đa dạng với nhiều nghề nổi tiếng như: nghề đan lát mây tre, nghề thêu thổ cẩm, nghề chế tác nhạc cụ truyền thống,...

Nghề mây tre đan sản xuất ra những dụng cụ sử dụng trong đời sống sinh hoạt, trong lao động sản xuất và nhiều sản phẩm độc đáo với các nét hoa văn tinh xảo. Đây là một nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời của tộc người; nó không chỉ cung cấp các dụng cụ, vật dụng sinh hoạt, phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp của đồng bào mà nó còn là vật trao đổi với các tộc người khác cùng sinh sống trên địa bàn. Người ta có thể đổi gạo, đổi muối và gần đây là bán mua, trao đổi như tất cả các loại hàng hóa khác.

Nghề thêu cũng là nghề thủ công truyền thống nổi tiếng với những mảng hoa văn trang trí trên trang phục một cách hài hòa. Ngoài thêu hoa văn trên các trang phục, nghề thủ công truyền thống này còn thêu hoa văn trên các vật dụng sinh hoạt khác như túi đeo, mặt chăn, gối, mặt khăn và các vật trang trí khác. Chế tác nhạc cụ cũng là một nghề thủ công truyền thống có tiếng của người Phù Lá (Xá Phó) nhưng đến nay còn ít người biết đến. Nhạc cụ nổi tiếng của tộc người Phù Lá là cây sáo mũi và chiếc khèn "ma nhí". Đây là hai loại nhạc cụ do tộc người tự sáng tạo, tự thực hành đã mang lại sự ngưỡng mộ với các tộc người khác, đặc biệt trong các hội diễn nghệ thuật các dân tộc những năm gần đây. Ngoài ra, tộc người còn chế tác và sử dụng nhiều loại sáo, nhị khác giống như người Thái, người Kinh.

6. Tri thức dân gian: Tri thức dân gian của người Phù Lá (Xá Phó) rất phong phú, đa dạng; thể hiện qua hệ thống các tri thức trên hoa văn, tri thức y học dân gian, tri thức về các hiện tượng thiên nhiên, tri thức trong lao động sản xuất, tri thức về nghệ thuật ẩm thực. Cách thức thêu, các loại hoa văn trên trang phục, trên các vật dụng sinh hoạt đều thể hiện cách thức nhìn nhận của tộc người về thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan. Nó thể hiện tư duy của tộc người trong việc lưu lại lịch sử di cư, lịch sử cư trú, địa bàn cư trú. Người Phù Lá (Xá Phó) không nổi tiếng về các bài thuốc dân gian như tộc người Dao hay một số tộc người khác, nhưng đồng bào cũng có những tri thức của riêng mình trong việc khai thác các sản phẩm trên địa bàn cư trú, phục vụ việc chữa trị một số căn bệnh thông thường như đau dạ dày, đau xương khớp, sốt, cảm, ho,…

Tri thức dân gian trong nghệ thuật ẩm thực của người Phù Lá (Xá Phó) thể hiện trong một số món ăn đặc biệt, mang đặc trưng của địa bàn cư trú vùng sông nước, núi rừng của tộc người. Người Phù Lá ưa ăn các món nướng, xôi. Đồ ăn được tẩm ướp các loại gia vị lấy trên rừng, phù hợp với khẩu vị ở từng món ăn. Ngoài ra, đồng bào cũng có những tri thức riêng trong cách tính nông lịch, tính mùa cày, cấy, tra hạt, phục vụ nhu cầu canh tác truyền thống của tộc mình.

* Các nghề thủ công truyền thống của người Phù Lá (Xá Phó) xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái:

Đối với các tộc người ở nước ta, ngoài nông nghiệp là ngành sản xuất chính thì thủ công nghiệp đóng vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế, trong đời sống văn hóa của họ. Cùng với nông nghiệp, thủ công nghiệp góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế, phục vụ dân sinh, phát triển văn hóa. Thủ công nghiệp mang cả giá trị vật chất và tinh thần. Chính vì thế, nghiên cứu thủ công nghiệp cũng chính là nghiên cứu các giá trị vật chất và tinh thần đó. Khi nghiên cứu thủ công nghiệp, ta luôn đặt nó trong quá trình phát triển của tộc người để hiểu lịch sử phát triển tộc người  đó trong sự giao thoa văn hóa với các cộng đồng khác. Bởi vậy, các sản phẩm thủ công nghiệp đều in đậm các đặc trưng văn hóa cũng như thế giới quan, nhân sinh quan của tộc người. Đó là một trong những vấn đề mà việc nghiên cứu các nghề thủ công truyền thống cần hướng tới và giải quyết.

Nghiên cứu thủ công nghiệp tộc người chính là góp phần tìm hiểu, khám phá tinh hoa tộc người, gồm truyền thống kỹ thuật - công nghệ, tài hoa sáng tạo của bản thân tộc người về các giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ; đồng thời thông qua đó, góp phần nghiên cứu cách thức tư duy và đặc trưng của tộc người. Trong các sản phẩm thủ công, đặc trưng văn hóa của tộc người làm ra nó hay địa phương làm ra nó là rất rõ nét; trong đó hội tụ trình độ kỹ thuật, thẩm mỹ, óc sáng tạo của tộc người Phù Lá. Cũng chính từ những giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ đó mà hình thành nên đặc trưng tộc người, tạo nên những sản phẩm độc đáo, kết tinh văn hóa của tộc người.

Cũng giống như các dân tộc thiểu số khác ở miền núi phía Bắc, nghề thủ công của người Phù Lá (Xá Phó) ở xã Châu Quế Thượng mang những đặc điểm nổi bật như: là nghề tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp; người thợ thủ công trước hết và đồng thời là những người nông dân của bản làng; những sản phẩm thủ công không chỉ là vật dụng sinh hoạt hàng ngày mà còn là những tác phẩm nghệ thuật biểu trưng cho lịch sử phát triển văn hóa cũng như nền kinh tế của cộng đồng; kỹ thuật thủ công được sử dụng nhiều trong chế tác các sản phẩm, qua đôi bàn tay khéo léo của những người thợ bản làng, góp phần làm nên những tác phẩm nghệ thuật độc đáo.

Người Phù Lá ở đây có nhiều hoạt động thủ công truyền thống, phục vụ nhu cầu tự cung tự cấp, điển hình là nghề đan lát, thêu thùa và chế tác nhạc cụ cổ truyền.

* Nghề đan lát truyền thống của người Phù Lá (Xá Phó) xã Châu Quế Thượng:

- Nguồn gốc nghề đan lát của người Phù Lá (Xá Phó): Địa bàn cư trú của người Phù Lá chủ yếu là đồi núi, chính vì vậy đời sống của họ gắn với thiên nhiên; họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên có sẵn để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của mình. Do cuộc sống còn khó khăn và thiếu thốn cả về vật chất lẫn khoa học kỹ thuật nên họ chủ yếu dựa vào thiên nhiên, khai thác thiên nhiên để tạo ra các vật dụng thiết yếu trong đời sống hàng ngày. Cùng với nguồn nguyên liệu tre nứa dồi dào, đồng bào đã hình thành nên nghề đan lát; lúc đầu chỉ làm ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu cuộc sống, nhưng sau đó đã trở thành một nghề không thể thiếu trong đời sống của tộc người.

Đan lát là một nghề thủ công truyền thống có từ lâu đời và rất nổi tiếng của dân tộc Phù Lá. Nó xuất hiện từ khi nào không ai rõ, mọi người chỉ biết là khi lớn lên đã được cha ông truyền dạy cho họ biết đan lát những vật dụng trong sinh hoạt hàng ngày. Từ những nguyên liệu có sẵn còn thô sơ, qua bàn tay khéo léo của đồng bào mà những dụng cụ sử dụng trong đời sống hàng ngày lần lượt được ra đời, giúp họ cải thiện được cuộc sống. Cứ như vậy, nghề đan lát truyền thống ra đời và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

- Thực trạng nghề đan lát của người Phù Lá (Xá Phó) xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên: Trước đây, nghề đan lát của tộc người Phù Lá phát triển rộng khắp các bản làng và đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân nơi đây; nguồn nguyên liệu cũng rất phong phú, sẵn có trong tự nhiên. Tuy nhiên, ngày nay còn rất ít người biết đến nghề đan lát truyền thống này mà hầu như chỉ còn những người lớn tuổi vẫn đan lát; nhưng họ không sản xuất rộng rãi, đại trà mà chỉ tập trung vào những ngày nông nhàn. Nguồn nguyên liệu cũng không sẵn có mà phải đi đến những cánh rừng cách nhà rất xa mới lấy được những cây tre, nứa tốt, vì những cánh rừng ở gần hầu như đã được khai hoang trồng các loại cây lâm nghiệp thay vì những cánh rừng tre nứa bạt ngàn như trước đây.

Trong những lúc nông nhàn, những người già trong làng thường ngồi cùng nhau chẻ tre, nứa, ken mây, đan lát những vật dụng cần dùng trong gia đình. Nghề đan lát đã tạo sự gần gũi, gắn bó giữa các thành viên trong gia đình với nhau cũng như những người trong cùng làng bản, đảm bảo được tính tự cung tự cấp các vật dụng sinh hoạt trong gia đình.

Từ xa xưa, người Phù Lá từ già đến trẻ, ai cũng biết đến nghề đan lát truyền thống này. Những người già có nhiều kinh nghiệm thường sẽ đan những vật dụng cần đến kỹ thuật đan cầu kỳ, phức tạp và khó như đan mâm, gùi, ghế. Còn những người trẻ thì đan những vật dụng đơn giản hơn như rổ, rá... Từ những sản phẩm đơn giản đó, họ dần tiếp cận được với kỹ thuật đan phức tạp và đúc kết cho mình nhiều kinh nghiệm qua việc học hỏi từ những người già, dày dặn kinh nghiệm. Trải qua bao thế hệ, người dân nơi đây đã tạo ra được những sản phẩm độc đáo, thể hiện bản sắc văn hóa độc đáo của tộc người.

Những sản phẩm như gùi, ghế, mâm, giỏ… và một số vật dụng sử dụng trong các nghi lễ đều được coi là những kiệt tác của nghệ thuật đan lát và sự tài tình, khéo léo của các nghệ nhân khi kết hợp các loại nguyên vật liệu lại với nhau để tạo nên sự tinh tế, hài hòa cho sản phẩm mà họ tạo ra. Những sản phẩm này cũng được nhiều tộc người khác ưa chuộng nên nó là những sản phẩm được sản xuất thường xuyên hơn và mang trao đổi, mua bán, tạo thêm nguồn thu nhập cho gia đình cũng như góp phần phát triển kinh tế xã hội.

Nghề đan lát đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống cộng đồng cũng như trong từng hộ gia đình của người Phù Lá; nó không chỉ phục vụ đời sống sinh hoạt mà còn phản ánh những nét văn hóa độc đáo riêng có của tộc người, thông qua những sản phẩm mà họ sản xuất ra. Chỉ dựa vào những sản phẩm mà người ta có thể biết được họ là tộc người nào, vì mỗi tộc người lại có một bản sắc văn hóa riêng, nên họ đưa những cái riêng đó vào những sản phẩm, từ những nghề thủ công truyền thống của mình, trong đó có cả nghề đan lát.

Tuy nhiên, ngày nay nghề đan lát thủ công này gần như không còn thấy trong bản làng người Phù Lá (Xá Phó) nữa. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do các sản phẩm của họ làm ra không cạnh tranh được với những sản phẩm sản xuất theo quy trình công nghiệp. Bởi vì, để tạo ra sản phẩm từ phương thức thủ công truyền thống, họ phải mất rất nhiều thời gian mà chi phí lại cao, trong khi các sản phẩm sản xuất theo hình thức công nghiệp lại phong phú về mẫu mã, giá thành thấp và người sử dụng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn.

- Cách khai thác, vận chuyển, chế biến và bảo quản nguyên liệu:   

Vốn sinh sống trên địa bàn vùng cao nên dân tộc Phù Lá chủ yếu sử dụng các nguyên liệu là tre, nứa, mây... để đan lát. Mỗi một loại nguyên liệu lại phù hợp để sản xuất từng loại sản phẩm khác nhau như tre dùng để đan gùi, thúng, mẹt; nứa dùng để đan sọt, bồ đựng thóc; mây dùng để đan ghế, mâm... Nhưng hầu hết những sản phẩm đan lát của họ đều mang những đặc điểm riêng, nét văn hóa đặc sắc của dân tộc và đều có chức năng sử dụng nhất định của nó.

Là một tộc người cư trú lâu đời trên địa bàn rừng núi, người Phù Lá có những kinh nghiệm riêng, truyền đời nhau trong việc lựa chọn những nguyên liệu tốt nhất cho hoạt động sản xuất của nghề đan lát. Theo các nghệ nhân dày dặn kinh nghiệm trong bản cho biết, muốn có sản phẩm đẹp, bền lâu, không mối mọt thì phải chọn tre vào những ngày cuối tháng, từ tháng Chín tháng Chạp (âm lịch); đó là những ngày không có trăng, vì đồng bào quan niệm "tre đầu tháng thân chứa nhiều nước nên dễ bị hỏng". Cây nứa, cây giang thì lại chỉ lấy được trong tháng Ba thì cây mới già, mới tốt, ít nước và không bị mọt.

Sáng sớm, bà con đã lên rừng để lấy các nguyên vật liệu đan. Họ tìm những khóm nứa to, chọn cây càng già càng tốt; chặt từ gốc, chặt lấy ba sải tay, cây nào chẻ được là lấy; chặt đến khi nào đủ thì dùng lạt bó lại để vác về nhà. Cây giang hiếm hơn đồng bào cũng chặt từ gốc rồi đẵn thành từng gióng, sau đó bó như bó củi và gánh về nhà. Các sản phẩm đan từ cây giang được người sử dụng đánh giá là bền hơn và không bị mọt. Những vật liệu được chọn phải là những đoạn tre nứa thẳng, những bó song đẹp, những cuộn mây tốt.

Khi nguyên liệu được mang về nhà để các cụ già tạo ra các sản phẩm khác nhau thì tùy vào đan dụng cụ gì, người ta sẽ chẻ nan theo cách đan của dụng cụ đó. Khi chế biến nguyên liệu, người thợ phải tôn trọng nguyên tắc "tre nứa chẻ từ ngọn xuôi, song mây lóc từ gốc ngược". Có như thế, mới đảm bảo chất lượng của nguyên liệu phục vụ cho việc đan lát sau này.

Dao vót nan là dụng cụ chuyên dùng, với nhiều hình thù khác nhau; có thể là loại dao to, dài hoặc ngắn tùy thuộc vào sở thích của từng người sử dụng. Loại dao họ dùng để vót nan đều phải mua ở chợ, vì ở đây thực chất không có nghề rèn; bởi thế, khi mua dao, bao giờ họ cũng chọn cho mình những con dao tốt, cầm vừa với tay của người sử dụng. Con dao cũng là một công cụ thiết yếu đối với hầu hết những người dân nơi đây; lúc nào họ cũng dắt con dao bên người khi đi nương làm rẫy hay đi rừng đốn củi.

Khi chọn được cây tre ưng ý, người ta hạ tận gốc rồi chặt thành từng đoạn vừa để vác được về. Từ các đoạn tre đó, họ pha thành các gióng tre, thanh tre rồi nan tre. Nan tre được pha theo lối lột vỏ từ ngoài vào trong; mỗi thanh tre chỉ lột lấy hai đến ba nan, còn lại là bỏ. Tre được pha thành nan từ lúc còn tươi, dẻo để tránh gẫy và ưởi. Nan pha xong, được vót qua, ngâm nước rồi sau đó mới được vót lại cẩn thận. Nan vớt xong, không bao giờ được đan ngay mà những người thợ đan sẽ đem để lên gác bếp một thời gian cho lên màu nâu sẫm hay vàng óng để đảm bảo độ bền và chống mối mọt cho sản phẩm đan. Đối với giang, sau khi vót nan thật đẹp, họ lại đem hơ vào lửa cho nan có màu hơi đen mới sử dụng.

- Kỹ thuật đan lát của người Phù Lá: Tộc người Phù Lá cũng thường sinh sống trên các vùng núi cao, nơi có những cánh rừng rậm bạt ngàn cây cối. Chính môi trường sống như vậy đã mang lại cho họ những bản sắc văn hóa riêng, những ngành nghề riêng và những đặc điểm riêng trong lao động sản xuất cũng như sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Cuộc sống của họ mang tính chất tự cung tự cấp, thiếu thứ gì là họ làm ra thứ đó để phục vụ cho nhu cầu của mình, trong đó có nghề đan lát mây tre. Lúc đầu, kỹ thuật đan của họ còn rất đơn giản, nhưng theo thời gian, khi tay nghề đã vững, họ đã sáng tạo ra những kiểu đan phức tạp hơn, cầu kỳ hơn để sản phẩm tạo ra có phần sinh động và thẩm mỹ hơn.

Tộc người Phù Lá sản xuất ra rất nhiều sản phẩm từ nghề đan lát; tất cả những sản phẩm ấy đều được làm từ những nguyên liệu có sẵn trong tự nhiên. Để tạo nên những nét độc đáo cho sản phẩm, họ có nhiều cách khác nhau: có thể để nguyên màu của vỏ cây và kết hợp với những nan thường để tạo màu sắc cho sản phẩm hoặc sử dụng những cách đan phức tạp tạo ra sản phẩm có đường nét tinh tế, được nhiều người ưa chuộng.

Kỹ thuật đan của người Phù Lá cũng giống như bao tộc người khác; thường họ chỉ dùng kỹ thuật đan đơn giản, không cầu kỳ phức tạp, như đan nong mốt, nong hai và đan chéo. Những kiểu đan này thường thấy ở các sản phẩm như rổ, rá, gùi của người Phù Lá, nhưng khi nhìn vào các sản phẩm đó, ta vẫn có thể nhận thấy những nét rất đặc trưng của tộc người này mà không hề lẫn với các sản phẩm của dân tộc khác. Chính vì điều này đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng biệt cho tộc người Phù Lá.

So với các tộc người khác trong vùng, người Phù Lá đã sáng tạo ra rất nhiều kỹ thuật đan lát khác nhau, có kiểu giống với các tộc người khác như đan nong mốt, nong hai, nong ba nhưng cũng có những kiểu đan đặc trưng riêng chỉ có ở người Phù Lá như đan chéo và đan xiên chéo. Sau đây là một số kỹ thuật điển hình:

+ Đan nong mốt (hu đa hự né): Đây là kiểu đan đơn giản nhất, không đòi hỏi sự khéo léo và thường được áp dụng đan các sản phẩm rổ, rá.

- Cách đan: Nhấc một nan, đè một nan và lệch nhau một nan dọc giữa hai hàng nan ngang liền kề theo trình tự sau:

- Đan nan ngang thứ nhất: đặt các nan dọc lên bàn, đường nối liền các nan dọc nằm ở phía dưới, sau đó nhấc nan dọc 2, 4, 6, 8 lên và luồn nan ngang thứ nhất vào, dồn nan ngang khít với đường nối liền các nan dọc.  

- Đan nan ngang thứ hai: nhấc nan dọc 1, 3, 5, 7, 9 và luồn nan ngang thứ hai vào, dồn nan thứ hai sát vào nan thứ nhất cho khít lại.

- Đan nan ngang thứ ba giống nan thứ nhất.

- Đan ngang thứ tư giống như đan nan ngang thứ hai. Cứ đan như vậy cho đến nan thứ cuối cùng.

+ Đan nong đôi (hu đa hự vớ): Kiểu đan này được áp dụng để đan các sản phẩm yêu cầu mỏng và mềm như tấm phơi, tấm liếp, tấm trải, các hoa văn hình xương cá chạy quanh các loại gùi.

Cách đan: nhấc một nan, đè hai nan, nhấc hai nan, đè hai nan và lệch nhau một nan dọc giữa hàng nan ngang liền kề theo trình tự sau:

- Đan nan ngang thứ nhất: đặt các nan dọc song song với nhau theo khoảng cách thích hợp, đặt một nan ngang cố định ở phía dưới; sau đó nhấc nan dọc 2, 3, 6, 7 lên, luồn nan ngang thứ nhất vào, sau đó dồn xuống khít với nan cố định đặt trước đó.

- Đan nan ngang thứ hai: nhấc nan dọc 3, 4, 7, 8 lên, luồn nan ngang thứ hai vào, sau đó dồn nan thứ hai xuống khít với nan thứ nhất.

- Đan nan ngang thứ ba: nhấc nan 1, 2, 5, 6, 9 lên luồn nan ngang thứ ba vào, sau đó dồn nan thứ ba xuống khít với nan thứ hai.

- Đan nan ngang thứ bốn: giống như đan nan ngang thứ nhất.

- Đan nan ngang thứ năm: giống như đan nan ngang thứ hai.

- Đan nan ngang thứ sau: giống như đan nan ngang thứ ba. Cứ đan như vậy cho đến nan cuối cùng.

+ Đan chéo (líu hự bớ): Là kỹ thuật đan đòi hỏi phải có sự khéo léo, tỉ mỉ và kiên trì. Vì đây là kiểu đan khó, phải là người có nhiều kinh nghiệm trong nghề đan lát mới làm được. Nó thường được áp dụng trong việc đan gùi, giỏ và một số vật dụng khác.

Cách đan: giống với cách đan nong mốt nhấc một nan, đè một nan và cách nhau một nan dọc ở giữa; nhưng có điểm khác là khi đặt các nan dọc, ta không đặt các nan thẳng đứng mà đặt các nan chéo và các nan ngang vẫn đan bình thường, để khi đan xong ta sẽ được một sản phẩm đan với các nan đan chéo nhau.

+ Đan xiên chéo: Là cách đan mà ở đấy người ta đặt ba chiếc nan chồng và chéo lên nhau ở chính giữa các nan, tạo thành sáu góc đều nhau. Sau đó, người ta đan các nan tiếp theo cách các cạnh sao cho nan đan sau song song với nan đan trước theo ba chiều cắt nhau, tạo thành các lóng hình lục giác đều. Kỹ thuật này gần giống với kỹ thuật đan mắt cáo của người Kinh. Đây là một kỹ thuật phức tạp và khó đan, rất ít người làm được. Nan để đan kiểu này thường phải vót mỏng, to bản, đảm bảo độ dẻo và cứng vừa phải. Kiểu đan này thường dùng để tạo các sản phẩm như mâm mây, đáy hay nắp đậy các loại gùi. Các bộ phận nhỏ trên sản phẩm như cạp, dây đeo, quai, tai... đều dùng mây để làm; vì mây là loại cây có thân leo dài và có độ dẻo dai cao, rất thích hợp cho việc cột chặt các bộ phận lại với nhau hoặc uốn làm cạp.

- Một số sản phẩm tiêu biểu và phổ biến: Sản phẩm đan lát của người Phù Lá rất phong phú với nhiều chủng loại khác nhau, được sử dụng trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.

* Rổ (cao đu): Là một trong số sản phẩm thông dụng nhất trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân nơi đây. Rổ chia thành hai phần chính là thân rổ và cạp rổ. Thân rổ được đan nong mốt hoặc nong đôi, khoảng cách giữa các nan từ 0,5 - 1 cm. Còn cạp rổ được làm bằng những thân tre đực già, vót tròn vẹt hai đầu rồi buột lại với nhau để tạo thành hình tròn bao quanh vành thân rổ. Khi đã uốn xong cạp rổ, họ sẽ đặt tấm đan lên trên cạp rồi kéo từ dưới lên cho đến hết tấm đan, dùng dao hoặc kéo cắt hết những phần thừa còn lại; dùng thêm một cái cạp như vậy nữa ở bên trong, rồi buộc kẹp tấm rổ đan ở giữa hai cạp. Cuối cùng, dùng những dây mây được tước nhỏ, buộc thành từng mối, khoảng cách của mỗi mối buộc từ 1 - 1,5 cm; làm như vậy để giữ cho những nan đan không bị tuột ra. Rổ có đường kính và chiều cao phụ thuộc vào việc sử dụng; nếu muốn đựng được nhiều thì họ sẽ đan to và cao, còn nếu đựng ít họ sẽ đan loại nhỏ hơn.

* Gùi (a khé): Đây vừa là đồ đựng, vừa là công cụ vận chuyển chính khi đi nương làm rẫy của người Phù Lá. Gùi cao chừng 60 - 65 cm, gồm hai phần là đáy gùi và thân gùi. Đáy gùi vuông, mỗi cạnh chừng 25 - 30 cm. Thân gùi dưới hình vuông, chiếm khoảng 1/3 tổng độ cao của chiếc gùi; thân gùi phía trên hình tròn, chiếm khoảng 2/3 tổng độ cao của chiếc gùi; càng lên cao, thân gùi càng loe ra như hình chiếc phễu. Miệng gùi loe rộng được quấn mây thanh thoát, vừa có dây quàng qua trán vừa có ách tỳ vào gáy người đeo. Đáy gùi được đan bằng tre. Dây gùi (mê chê) được họ dùng những dây mây nhỏ, mỏng cuộn lại với nhau, tạo thành một loại dây hình vặn vừa đẹp mắt, vừa lại rất bền. Dây gùi đỡ toàn bộ chiếc gùi từ đáy lên nên có tác dụng là tăng tuổi thọ cho thân gùi và miệng gùi. Đây là một sản phẩm đan lát đặc biệt của người Phù Lá, nó tinh xảo cả về kiểu dáng và kỹ thuật chế tác. Những người đến lứa tuổi đi làm nương rẫy đều có ít nhất một chiếc gùi cho riêng mình.

* Mâm (ca be): Mâm được đan bằng mây và tre, gồm hai bộ phận chính là mặt mâm và thân mâm. Mặt mâm hình tròn có đường kính khoảng 70 cm, đan bằng tre theo kỹ thuật đan xiên chéo. Vành ngoài cùng của mặt mâm được đan bằng những sợi mây để nguyên uốn theo kiểu hình lượn sóng. Thân mâm là một vòng tròn, hình trụ có chiều cao chừng 15 - 20 cm; đường kính đáy nhỏ hơn đường kính mặt mâm từ 8 - 10 cm. Thân mâm được làm bằng tre đan hình mắt cáo, thưa thoáng và tạo hoa văn mềm mại; vành đáy thân mâm thường làm bằng tre vót nhẵn, cũng có khi làm bằng cây song uốn tròn lại.

* Rá (lá tạ): Cũng giống như kỹ thuật đan rổ, nhưng khoảng cách giữa các nan dày hơn, có khi họ sẽ không để các nan có khoảng cách mà đan chúng sát lại với nhau. Rá cũng gồm hai phần là cạp và thân rá. Kích cỡ của rá phụ thuộc vào mục đích sử dụng nên có nhiều loại, như rá vo gạo, rá đựng đồ...

* Bu gà (ho bo): Được sử dụng để nhốt gà con vừa mới xuống ổ. Chiếc bu gà của người Phù Lá gần giống như chiếc giỏ bắt cá của người Kinh. Bu gà có chiều cao khoảng 30 - 40 cm, đế hình vuông, các nan đan của phần đáy và phần thân được đan khít với nhau, nhìn gần giống với kiểu đan nong mốt; ở phần miệng của bu gà, các nan được đan thưa hơn để tạo độ thoáng. Miệng của bu gà được đan xiên chéo, vặn ngược các đầu nan gài vào thân để tạo hình tròn cho miệng, vừa tạo được nét độc đáo, vừa tạo sự chắc chắn cho chiếc bu gà.

Ngoài những sản phẩm kể trên, người Phù Lá còn đan nhiều sản phẩm khác như mẹt, rổ, giần, sàng, nong, nia, dụng cụ đánh bắt cá, ống đũa, khay để ấm chén, bát đĩa, ghế, gối,… Đó đều là những sản phẩm thiết yếu cho sinh hoạt, phục vụ cho nhu cầu cuộc sống của tộc người.

* Giá trị của nghề đan lát: Có thể nói, đan lát là nghề thủ công truyền thống tiêu biểu, đặc sắc, một đặc trưng mang tính tộc người của người Phù Lá. Nó thể hiện nhiều giá trị khác nhau:

- Giá trị lịch sử: Các hoạt động đan lát cũng như những sản phẩm đan lát, kỹ thuật chế tác và nghệ thuật tạo hoa văn trên sản phẩm đều phản ánh rõ nét quá trình lịch sử của tộc người với lịch sử di cư, địa bàn cư trú, sự phát triển tư duy nghệ thuật,...

- Giá trị văn hóa: Từ cách thức khai thác, vận chuyển, chế biến nguyên vật liệu đến cách đan, cách trang trí hoa văn đều thể hiện những nét văn hóa riêng, độc đáo của tộc người.

- Giá trị thẩm mỹ: Mỗi sản phẩm đan lát đều thể hiện giá trị thẩm mỹ riêng của nó, từ cách thức đan đến cách thức tạo hoa văn và ý nghĩa của các hoa văn đó. Tư duy nghệ thuật của tộc người được thể hiện rõ nét trong hoạt động thủ công truyền thống này.

- Giá trị khoa học: Nghề đan lát nói chung cũng như mỗi sản phẩm đan lát nói riêng đều thể hiện những giá trị khoa học của nó. Qua đó, người ta nhận thấy được tổng thể các giá trị khác của tộc người.

* Phương hướng bảo tồn và phát triển nghề đan lát:

Để bảo tồn và lưu giữ nghề đan lát lâu dài trong cộng đồng, chính quyền địa phương cần tiếp tục tập hợp các nghệ nhân cao tuổi có am hiểu nghệ thuật đan lát, văn hóa tộc người; lên kế hoạch mở các lớp trao truyền cho các thế hệ trẻ, nhằm bảo lưu một cách đầy đủ và hiệu quả nhất giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc của người Phù Lá.

Đề nghị các ngành và địa phương đầu tư kinh phí để thực hiện dự án bảo tồn nghề thủ công truyền thống đặc trưng của cộng đồng người Phù Lá; đồng thời gắn hoạt động của nghề với du lịch văn hóa cộng đồng và du lịch văn hóa vùng để có thể phát huy một cách tốt nhất hoạt động kinh tế gắn liền với sản xuất trong tương lai. Tổ chức mở thêm các lớp truyền dạy trong cộng đồng tộc người; có chính sách, chế độ cho các nghệ nhân, những cá nhân có công sức gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Đến nay, nghề đan lát không còn nhiều người biết đến, vì thế hệ trẻ đi ra ngoài lao động kiếm sống, không có thời gian quan tâm đến nghề truyền thống của dân tộc mình. Hơn nữa, đan lát chỉ diễn ra những lúc nông nhàn, không có tổ chức mà chỉ là hình thức lao động tự nhiên và tập trung vào đan những vật dụng mà gia đình còn thiếu chứ không sản xuất một cách đại trà.

* Nghề thêu của người Phù Lá (Xá Phó) ở Châu Quế Thượng:

-  Nguồn gốc nghề thêu của người Phù Lá: Vốn sinh sống ở trên những triền núi cao, giao thông đi lại khó khăn nên cuộc sống của đồng bào chủ yếu là hình thức tự cung tự cấp là chính. Vì vậy, các đồ dùng sinh hoạt cũng như trang phục đều tự họ sản xuất ra từ những nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên hoặc những loại cây do họ trồng và thu hoạch. Do cuộc sống tự cung tự cấp nên từ cái ăn, cái mặc đến công cụ lao động sản xuất cũng là tự tay họ làm ra, trong đó, việc trồng bông, trồng đay để dệt vải, may quần áo, trang phục rất được chú trọng. Lúc đầu chỉ là những bộ trang phục giản dị, không hoa văn, màu sắc nhưng dần họ đã sáng tạo các mẫu hoa văn để thêu lên váy áo, tạo nên những đặc sắc văn hóa riêng trên trang phục của người Phù Lá.

Phụ nữ Phù Lá rất giỏi dệt vải và thêu thùa, nhưng họ cũng không rõ những việc đó có từ bao giờ mà chỉ biết là ngay từ khi còn nhỏ, họ đã được các bà, các mẹ, các chị chỉ dẫn và truyền dạy cho cách thêu thùa, khéo léo trong từng đường kim, mũi chỉ. Họ được chỉ dạy từ những công đoạn đơn giản đến những công đoạn phức tạp nhất của thêu thùa, may mặc. Dưới sự chỉ dẫn tận tình của các bà, các mẹ, họ có được kinh nghiệm thêu dệt các loại hoa văn độc đáo trên trang phục của mình, tạo ra sự khác biệt, mang đậm nét văn hóa dân tộc của dân tộc Phù Lá.

-  Thực trạng nghề thêu của người Phù Lá (Xá Phó) xã Châu Quế Thượng, huyện Văn Yên: Trước kia, khi cuộc sống còn khó khăn và thiếu thốn, chủ yếu là tính tự cung tự cấp nhưng nghề thêu cũng khá là phát triển. Nguồn nguyên liệu cũng phong phú và dồi dào: họ tự trồng và cung cấp nguyên liệu may thêu; có khi, họ dùng các sản phẩm từ nghề đan lát, lương thực, thực phẩm... để trao đổi những nguyên liệu may thêu từ những tộc người khác.

Ngoài những lúc đi nương làm rẫy, trong làng người già, trẻ nhỏ ai cũng thêu; trên tay họ lúc nào cũng có một mảnh vải nhuộm chàm cùng với cây kim, sợi chỉ, cùng nhau ngồi thêu, trao đổi với nhau về các mẫu hoa văn và cùng nhau sáng tạo ra các hoa văn mới. Sản phẩm từ nghề thêu thùa được người Phù Lá sử dụng để may trang phục truyền thống. Các sản phẩm này đặc biệt quan trọng với họ, vì nó thể hiện được tính sáng tạo, sự khéo léo và nét văn hóa đặc trưng của dân tộc mình. Những mẫu hoa văn sử dụng trong nghề thêu được họ lấy cảm hứng từ cuộc sống lao động sản xuất hàng ngày hoặc từ những loại cây trồng, con vật gắn bó với cuộc sống của họ. Khi việc thêu thùa phát triển rộng rãi, sản phẩm thêu cũng được mang ra chợ mua bán trao đổi để lấy những loại vật dụng khác.

Hiện nay, nghề thêu đang dần bị mai một, những người còn biết đến thêu cũng chỉ còn rất ít, chủ yếu là những người già và người trung tuổi. Họ không thể tự mình sáng tạo ra họa tiết hoa văn thêu mà phải chỉ nhìn và thêu theo những mảng hoa văn trên các sản phẩm truyền thống.. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến vấn đề này là sự giao thoa văn hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xen lẫn vào cuộc sống của họ; những sản phẩm may mặc hiện đại, trẻ trung, đơn giản, không cầu kỳ, không mất nhiều thời gian và chi phí lại thấp. Mặc dù trước đây nghề thêu rất quan trọng đối với đời sống của Phù Lá, góp phần tạo dựng nên nền tảng văn hóa của họ, nhưng đến nay, cuộc sống hiện đại đã khiến cho các nghề truyền thống không còn được coi trọng, vì nó không mang lại hiệu quả cả về vật chất cũng như tinh thần của người dân. Nghề thêu cũng vì vậy mà mất dần bản sắc vốn có của nó, các mảng hoa văn thêu không còn được thêu ra từ sự sáng tạo của con người mà là sự sao chép lại từ những cái cũ sẵn có.

Danh sách những nghệ nhân còn biết thêu truyền thống của tộc người Phù Lá (Xá Phó):

   1. Bà Đặng Thị Thanh, thôn Nhầy, xã Châu Quế Thượng.

   2. Bà Đặng Thị Lan, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.

   3. Bà Nông Thị Mà, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.

   Ngoài ra, còn có một số thanh niên trẻ cũng đã học hỏi và trao đổi với các nghệ nhân về nghề thêu truyền thống của dân tộc mình và họ cũng biết cách thêu những loại hoa văn từ đơn giản đến phức tạp.

- Cách khai thác, vận chuyển, chế biến và bảo quản nguyên liệu của nghề thêu: Trước đây, với cuộc sống ở các vùng núi cao, vùng sâu vùng xa, tách biệt với cuộc sống văn minh hiện đại, người Phù Lá đã phải tự cung tự cấp lương thực, thực phẩm, các nguyên vật liệu sử dụng trong các nghề thủ công trong đó có nghề thêu. Nguyên liệu của nghề thêu gồm có vải, chỉ thêu, kim thêu.

1. Vải thêu (thà tạ): Những loại vải sử dụng trong việc thêu thùa là loại vải dệt bằng cây đay hoặc cây gai. Khi thu hoạch về, họ lấy vỏ của thân cây tước thành những sợi nhỏ, phơi khô, se chúng lại thành từng cuộn rồi mang dệt thành những tấm vải với nhiều kích cỡ khác nhau. Khi công đoạn dệt đã hoàn thành, người ta sẽ mang những tấm vải đó ngâm vào trong thùng nước có màu xanh xám; đây là loại nước được ngâm từ loại lá chàm, một loại cây vừa giữ được độ bền màu cho vải, lại mọc rất nhiều ở trên rừng. Sau khi ngâm nhuộm với thời gian nhất định, họ sẽ vớt vải ra, đem phơi nắng để màu giữ được lâu hơn. Đây là công đoạn cuối cùng trong việc sản xuất vải.

2. Chỉ thêu (chi bư): Trước đây chỉ thêu được làm thủ công bằng cách tước vở cây đay, cây gai rồi xe chúng lại, nhuộm màu rồi đem phơi. Nhưng cho đến nay đồng bào không dùng chỉ thêu sản xuất thủ công nữa mà thay vào đó là chỉ thêu công nghiệp, sản xuất đại trà có bán sẵn trên thị trường. Những loại chỉ thêu này rất đa dạng về màu sắc:

* Chỉ màu trắng (ý khu pá): Màu trắng là màu chủ đạo và chiếm diện tích tương đối lớn trong mảng hoa văn trên trang phục.

* Chỉ màu đen (ế nu pá): Được tạo từ chỉ nhuộm chàm đen, ngâm bùn cho bền màu. Màu đen của chỉ thêu tương ứng với màu cơ bản của bộ y phục, chỉ dùng xen kẽ khi kết hợp với các màu khác chứ không dùng để tạo ra hoa văn đơn lập.

* Chỉ màu đỏ tươi (ý nhu pạ): Được tạo ra bằng cách nhuộm chỉ vào một loại thuốc nhuộm tự chế từ lá của một loại cây trên rừng và một vài thứ khác có tác dụng hãm màu; được coi là bí quyết riêng của mỗi người. Đây là màu được coi là chủ đạo trên mỗi mảng hoa văn, được tôn lên bởi các màu khác.

* Chỉ màu đỏ sẫm (hè nơ pá): Được tạo ra bởi chỉ đỏ nhuộm thêm cánh kiến, rất bền màu. Màu đỏ sẫm thường được kết hợp với các màu khác, đặc biệt là màu đỏ tươi cho nhạt bớt sắc độ của màu này, khiến nó trở nên mềm mại hơn.

* Chỉ màu xanh (è nhu pá): Là màu được tạo nên bằng cách trộn lẫn nước chàm nhạt với nước của loại lá song.

* Chỉ màu vàng (è hế pá): Được tạo ra bằng cách nhuộm chỉ trắng với nước rễ cây hoàng liên. Trong các mảng hoa văn, màu xanh và màu vàng chiếm tỷ lệ không lớn nhưng có tác dụng làm giảm nhẹ sự tương phản và khắc chế bớt độ chói của các màu chủ đạo.

* Chỉ màu tím (pá cà mí): Đây là loại chỉ màu rất ít người biết cách pha chế và bí quyết  pha chế nó luôn được giữ kín. Trước đây, màu tím ít được sử dụng trong việc thêu hoa văn trang phục, nhưng ngày nay nó được sử dụng rất rộng rãi và phổ biến, nhất là trong các mảng hoa văn trang trí trên gấu váy, gấu và cửa tay áo.

3. Kim thêu (gulu): Được làm từ một loại thép cứng, kích thước thường ngắn hơn kim khâu và đầu kim thêu không sắc nhọn như kim khâu.

4. Hạt cườm (ám che): Là một trong những nguyên liệu quan trọng không thể thiếu trong trang phục của người phụ nữ Phù Lá. Cây hạt cườm cùng họ với cây ý dĩ, có hình dáng tương tự hạt ý dĩ nhưng hạt cườm nhỏ, dài hơn và có màu trắng. Trước đây, cây hạt cườm được trồng rất nhiều tại địa phương. Khi những hạt cườm già, họ thu hoạch về, đem phơi, đến khi nào những hạt cườm đó chuyển thành màu trắng và màu xám là lúc hạt cườm đã khô và có thể sử dụng được. Người ta phơi khô như vậy để tạo độ bền cho hạt cườm, làm chúng không bị mối mọt hay bị mủn, mốc khi sử dụng.

* Kỹ thuật thêu của người Phù Lá (Xá Phó): Kỹ thuật thêu của tộc người Phù Lá cũng giống như những tộc người khác, không chỉ đòi hỏi sự kiên trì, tỉ mỉ mà còn phải sáng tạo trong từng đường kim, mũi chỉ. Trước đây, họ dựa vào trí tưởng tượng và óc sáng tạo của mình để vẽ ra những hình ảnh sống động từ cuộc sống; rồi từ những sợi chỉ màu, họ đã thêu nên thành những mảng hoa văn trang trí với những kỹ thuật thêu đơn giản, không cầu kỳ phức tạp.

Người Phù Lá không chỉ sử dụng những kỹ thuật thêu của tộc mình mà họ còn học hỏi và tích lũy thêm nhiều kỹ thuật thêu của các tộc người khác. Chính vì vậy mà kỹ thuật thêu của họ ngày càng phong phú, với những đường chỉ thêu đều đặn đã tạo ra nhiều sản phẩm tinh tế, phù hợp với nhu cầu của cộng đồng dân tộc mình cũng như làm mặt hàng mua bán, trao đổi trên thì trường. Càng về sau, kỹ thuật thêu của người Phù Lá càng được sáng tạo hơn với những kỹ thuật thêu khó và những hoa văn, họa tiết phức tạp. Ngoài ra, họ còn biết kết hợp giữa kỹ thuật thêu truyền thống với kỹ thuật thêu hiện đại để tạo ra những sản phẩm thêu đẹp, đáp ứng được nhu cầu sử dụng của mọi người dân ở mọi lứa tuổi.

Nhìn chung, kỹ thuật thêu của người Phù Lá đã phát triển một cách đáng kể từ khi sự giao thoa văn hóa diễn ra một cách đồng loạt và ngày càng mạnh mẽ. Từ những nét thêu đơn giản, truyền thống đến những cách thức thêu phức tạp, hiện đại với những nét hoa văn phong phú có phần hơi trừu tượng.

* Một số sản phẩm của nghề thêu:

1. Khăn quấn đầu (ư ty): Là chiếc khăn có khổ rộng khoảng 15 cm, dài chừng 30 cm, được ghép từ hai mảnh vải thủ công, có thêu trang trí các dạng hoa văn đơn giản khác nhau; hai bên được nẹp bằng đường vải trắng chạy dọc theo chiếc khăn. Phần giữa của khăn được thêu các hoa văn hình khối, còn ở hai đầu khăn là những mảng thêu hoa văn nhỏ li ti, tạo nên sự hài hòa cho chiếc khăn.

2. Áo (khợ): thường có chiều dài trung bình khoảng 40 cm, cổ được khoét sâu 8 - 10 cm; được ghép từ nhiều mảnh vải lại với nhau. Hoa văn được chia thành hai phần rõ rệt là phần trên và phần dưới. Phần trên của áo được trang trí bằng các dải hạt cườm xếp song song với nhau, còn phần dưới được thêu các hình hoa văn với nhiều màu sắc khác nhau. Cả phía trước và phía sau của thân áo đều được trang trí bằng các mảng hoa văn thêu chủ yếu bằng tay. Trên ống tay áo được trang trí bằng các họa tiết đơn giản, bằng chỉ thêu màu trắng lđể àm nổi bật hoa văn trên nền vải chàm.

3. Váy (họ): Được ghép từ năm mảnh vải có kích thước khác nhau, phần cạp và phần thân giữa của váy là những mảnh vải không được thêu trang trí họa tiết hoa văn mà vẫn giữ nguyên vải màu chàm. Phần dưới cạp váy được thêu trang trí bằng các hoa văn đơn giản như hình sóng nước, dấu chân con nhện, hình chân rết…, và sử dụng duy nhất loại chỉ thêu màu đỏ. Chân váy, là nơi tập trung tất cả các hình hoa văn từ đơn giản đến phức tạp và được thêu bằng nhiều màu khác nhau, trong đó, màu trắng là màu chủ đạo trong cả mảng hoa văn; hàng hoa văn hình cây thông được thêu trang trí ngay bên trên.

4. Túi đeo (tại): Trước đây, túi đeo được may bằng vải lanh và trang trí các mảng hoa văn thêu ở thân túi và dây đeo. Ngày nay, họ thường sử dụng những chiếc túi được may từ vải công nghiệp có bán sẵn trên thị trường; trên chiếc túi cũng có các mảng màu trang trí to nhỏ khác nhau được in bằng mực với công nghệ hiện đại.

5. Thắt lưng (zui ị): Có chiều dài chừng 130 - 150 cm, chiều rộng 20 cm bằng với khổ vải được định trên khung dệt vải. Trước kia, thắt lưng của người phụ nữ Phù Lá là loại thắt lưng được nhuộm chàm, có thêu các mảng hoa văn trang trí đơn giản bằng chỉ đỏ. Ngày nay, họ sử dụng phổ biến loại thắt lưng làm từ vải công nghiệp màu xanh, không có thêu trang trí hoa văn nhưng vẫn tạo được nét độc đáo nhờ sự tương phản màu xanh trên nền chàm của váy và áo.  

 *  Một số hoa văn tiêu biểu trong nghề thêu truyền thống của người Phù Lá (Xá Phó).

Hoa văn trang trí trên trang phục, khăn quấn đầu, túi đeo… của người Phù Lá là những hoa văn được cách điệu từ những loại cây, loài côn trùng hoặc những loài hoa mà họ nhìn thấy trong đời sống hàng ngày. Dưới đây là một số hoa văn tiêu biểu được thêu thủ công:

1. Hoa văn hình cây cọ (chò gó mà): Được thêu theo lối tả thực về cuộc sống, thường được bố trí dày đặc ở tay áo, với hai màu chủ đạo là màu trắng.

2. Hoa văn hình da con trăn (ao khoan nơ mạ): Da con trăn có những hoa văn vằn ngoằn ngoèo cũng được người Phù Lá đưa vào thêu trang phục.

3. Hoa văn hình hoa các chu vi: Các chu vi là một loại hoa mọc ở trên nương, lá to và có màu xanh. Hoa của cây các chu vi thường nở thành chùm tròn, chia ra từng nhánh vuông, có nhiều màu, trong đó, màu da cam và màu vàng là phổ biến hơn cả. Mỗi năm, cứ đến tháng Ba, tháng Tư, khi tra lúa nương là lúc hoa các chu vi nở rộ. Chính vì vẻ đẹp tự nhiên của loài hoa này mà họ đã đưa vào thêu thành những nét hoa văn độc đáo trên trang phục của mình.

4. Đường ngoằn ngoèo (nhâng kha mạ): Đây là nét hoa văn phổ biến và là hoa văn không mấy phức tạp, được đồng bào sử dụng khá rộng rãi. Hầu hết sản phẩm thêu của họ đều có các đường thêu ngoằn ngoèo. Đây là hoa văn miêu tả đường đi lên nương rẫy, là đường làm nền cho các hoa văn thêu phức tạp khác.

5. Dấu chân con nhện (nha mạ): Là loài nhện sống dưới nước, có bốn chân dài, hình vọng vó thường bay nhảy trên mặt nước ở các dòng suối nhỏ.

6. Hoa văn hạt cườm (ám che): Bố cục chủ yếu ở thân trên của áo nữ, lưng áo nam và túi khoác, được tạo thành từ những đường hạt cườm xếp song song theo chiều dọc hoặc chiều ngang y phục, tạo ấn tượng bằng sự tương phản đen - trắng, giữa màu tự nhiên của hạt cườm và màu chàm của vải áo.

7. Hình hạt trám (ma cướm): Là hình biến tướng của dạng hình con thoi song có tên gọi riêng và thường được bố cục như hình thoi trên các mảng hoa văn trên trang phục của họ.

8. Hình chân rết (bi si khờ na mạ): Được thêu pha lẫn với các hoa văn khác nhưng nếu tách riêng ra thì hình thù của nó giống như hai hàng chân rết được thêu song song với nhau, tạo nên sự phong phú về hoa văn trên trang phục.

9. Hình con bướm (a te go mạ): Được tạo thành từ những đường chéo và đường thẳng đan vào nhau, thường được bố trí thành từng mảng dưới chân váy.

10. Chim trời (niêu mạ): Là hoa văn hình con chim được thêu cách điệu, tạo vẻ hài hòa giữa nhiều loại hoa văn.

Ngoài các hình hoa văn trên còn có rất nhiều hình hoa văn khác nữa đều lấy hình ảnh từ những loài động, thực vật trong thiên nhiên. Trong mỗi khuôn hình, mặc dù có nhiều đường nét thêu hoa văn khác nhau song bao giờ cũng có một màu chính (thường là màu đỏ), tạo nên gam màu chủ đạo cho cả mảng thêu. Phía ngoài, người ta thường thiết kế những đường ngoằn ngoèo hoặc đường kẻ thanh mảnh và phân tán hơn. Trên màu chàm đen, họ thêu hoa văn bằng những màu chỉ rực rỡ, nên những đường viền này bị chìm lấp. Chính vì vậy, ấn tượng về mảng hoa văn sẽ đẹp hơn.

Nhìn tổng thể, các mảng hoa văn thêu trên trang phục được hình thành trên ý tưởng về vũ trụ rất rõ. Theo chiều từ trên xuống, mỗi mảng hoa văn tượng trưng cho một không gian tự nhiên khác nhau, khá sinh sộng về Trời Đất, cây cối, hoa lá và con vật. Đặc biệt, đây là lối tả thực về những sinh vật gần gũi với đời sống sinh hoạt hàng ngày của họ. Chính điều này đã tạo nên một phong cách rất riêng trong nghệ thuật thêu hoa văn trang trí trên y phục của tộc người Phù Lá nơi đây.

* Giá trị của nghề thêu: Nghề thêu là một trong những nghề thủ công truyền thống mang đậm nét văn hóa tiêu biểu của tộc người Phù Lá, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc riêng biệt. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, nghề thêu của họ mang những giá trị bền vững, không thể phủ nhận.

1. Giá trị lịch sử: Thông qua những nét hoa văn được thêu trên y phục, kỹ thuật cũng như sự sáng tạo trong từng đường chỉ thêu đều phản ánh rõ nét về quá trình lịch sử của người Phù Lá, từ quá trình di cư, địa bàn cư trú đến lịch sử phát triển tư duy nghệ thuật của họ.

2. Giá trị văn hóa: Từ cách thức vẽ hoa văn, phối màu, trang trí hoa văn cho đến công đoạn thêu đều thể hiện nét văn hóa riêng biệt, độc đáo của dân tộc Phù Lá ở Châu Quế Thượng.

3. Giá trị kinh tế: Dù chưa phải là hoạt động kinh tế mang lại thu nhập chính cho cộng đồng nhưng ít nhiều nó cũng là sản phẩm trao đổi, mua bán giữa các thành viên trong cộng đồng tại địa phương và các vùng lân cận. Bởi thế, dù không phải thường xuyên và phổ biến, nhưng giá trị kinh tế của hoạt động thủ công này cũng đã được thể hiện trong đời sống của cộng đồng.

4. Giá trị nghệ thuật: Mỗi sản phẩm của nghề thêu đều thể hiện rõ nét giá trị nghệ thuật mà nó đem lại, từ cách thức thêu đến cách tạo ra những đường nét hoa văn với những màu sắc hài hòa, sống động mang  ý nghĩa thực tiễn về cuộc sống. Qua đó, tư duy nghệ thuật của tộc người đã được thể hiện rõ nét trong nghề thêu thủ công truyền thống này.

5. Giá trị khoa học: Nhìn chung, nghề thêu nói chung cũng như mỗi sản phẩm của nghề thêu nói riêng đều đã thể hiện được giá trị khoa học của nó. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy những nét khái quát tổng thể về các giá trị văn hóa khác của sản phẩm thêu.

* Phương hướng bảo tồn và phát triển nghề thêu của người Phù Lá (Xá Phó) xã Châu Quế Thượng:

Khôi phục và phát triển nghề thêu truyền thống phải giải quyết cùng lúc với vấn đề tăng trưởng kinh tế gắn với bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Các sản phẩm thêu phải phù hợp với đời sống xã hội hiện nay; sản xuất phải gắn với thị trường tiêu thụ, phải có chính sách hỗ trợ gắn liền với tuyên truyền quảng bá về nghề với những địa danh, địa chỉ văn hóa, du lịch. Sản phẩm thêu truyền thống không những chỉ tiêu thụ ở thị trường địa phương mà còn phải phát triển rộng ra các vùng lân cận, càng cần thiết phải vươn ra thị trường trong nước cũng như quốc tế. Muốn được giới thiệu rộng rãi, đòi hỏi sản phẩm làm ra phải có súc thu hút về mặt chất lượng và thẩm mỹ. Đó là những điều kiện cần thiết để phát triển nghề thêu, góp phần bảo tồn, phát triển nghề thêu truyền thống của dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Cùng với đó, để nghề thêu ngày càng phát triển, cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo địa phương, tiếp tục hợp tác với các nghệ nhân cao tuổi, am hiểu nghệ thuật thêu thùa, mở thêm nhiều lớp truyền dạy cho thế hệ trẻ trong cộng đồng nhằm bảo lưu một cách đầy đủ và hiệu quả nhất nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc này.

* Nghề chế tác nhạc cụ:

1. Nguồn gốc của nghề chế tác nhạc cụ: Nghề chế tác nhạc cụ xuất hiện từ khi nào không ai biết. Theo một số nghệ nhân cao tuổi trong làng kể lại rằng: Vào một đêm giông tố cách nay hàng thế kỷ, cụ tổ của cây sáo Cúc Kẹ vào rừng kiếm cái rau, săn con thú. Bỗng dưng, sấm nổ rền vang, mưa lớn trút xuống ào ào như thác lũ; bầu trời đang sáng trăng bỗng vần vũ mây đen. Sợ quá, cụ tổ liền trú chân dưới một khóm nứa. Bỗng từ đâu phát ra một âm thanh rất lạ. Ngước nhìn lên rặng nứa trước mặt, ông thấy âm thanh đó phát ra từ lỗ thủng duy nhất trên thân một cây nứa. Cùng lúc đó, giông tố cũng biến mất, mưa không còn nặng hạt, mây đen cũng tan dần nhường chỗ cho đêm trăng sáng. Thấy sự lạ, ông liền chặt đoạn nứa mang về, dạy cho dân bản biết thổi sáo. Từ đó, nhạc cụ được chế tác ra, trước tiên là cây sáo mũi (cúc kẹ); sau này, người ta còn sáng tạo thêm chiếc khèn bầu (ma nhí). Đây là hai trong số những nhạc cụ đặc trưng, mang tính chất nghệ thuật và thể hiện rõ bản sắc dân tộc của tộc người Phù Lá nơi đây.

Qua câu chuyện về sự xuất hiện của các loại nhạc cụ mà những người già trong làng truyền miệng từ đời này sang đời khác, ta có thể nhận thấy, cuộc sống của người Phù Lá gắn bó chặt chẽ với thiên nhiên, dựa vào thiên nhiên và khai thác thiên nhiên để tạo nên nền văn hóa của dân tộc mình. Từ những loài cây dại mọc trên rừng, cùng với đôi bàn tay khéo léo và sự sáng tạo của mình, con người đã làm nên sắc màu dân tộc mà không phải tộc người nào cũng làm được.

2. Thực trạng của nghề chế tác nhạc cụ: Nghề chế tác nhạc cụ trước kia được rất nhiều người trong làng biết đến; họ có thể chơi, chế tác ra nó và hầu như những người lớn trong làng đều làm được. Mặc dù cuộc sống lúc đó còn rất khó khăn, kinh tế còn chậm phát triển nhưng họ vẫn sống rất lạc quan, đặc biệt, trong cuộc sống của họ không bao giờ thiếu những giai điệu từ những nhạc cụ truyền thống dân tộc. Mọi người trong làng thường trao đổi với nhau và truyền dạy cho nhau cách chế tác các loại nhạc cụ của tộc người, tạo sự gắn kết cộng đồng. Nghệ nhân Đặng Thị Thanh đang tích cực truyền dạy cho các thế hệ trẻ trong bản cách chế tác và thổi loại sáo mũi độc đáo của dân tộc mình. Hiện nay, bà là người duy nhất trong tộc người Phù Lá còn có thể làm được những cây sáo mũi truyền thống và thổi nó một cách thuần thục; vì thế, bà đã được Nhà nước trao tặng danh hiệu “nghệ nhân dân gian”.

Nghề chế tác nhạc cụ của người Phù Lá đã có từ rất lâu nhưng cho đến nay có rất ít người trong xã biết về nghề này. Nguyên liệu để chế tác rất sẵn có, bởi cuộc sống của họ luôn gắn liền với thiên nhiên, bao quanh bản làng là những cánh rừng xanh bạt ngàn tre nứa. Đó cũng là yếu tố để tạo nên những nhạc cụ độc đáo, mang đậm bản sắc dân tộc mà không phải dân tộc nào cũng có được, bởi lẽ cây sáo mũi này chỉ có duy nhất ở tộc người Phù Lá.

Ngoài chế tác hai cây sáo mũi và khèn bầu, ở đây còn có đàn nhị. Trong xã cũng có người chế tác được đàn nhị nhưng đó lại không phải là nhạc cụ của người Phù Lá Châu Quế Thượng mà chỉ là loại nhạc cụ của một bộ phận người Phù Lá di cư từ huyện Văn Bàn (Lào Cai) mang sang.

Những năm gần đây, do kinh tế phát triển và sự giao thoa về văn hóa diễn ra trên địa bàn mà nghề chế tác nhạc cụ dân tộc không còn bó hẹp, nó đã phát triển rộng với nhiều nhạc cụ khác chứ không riêng gì hai loại nhạc truyền thống. Nhiều người dân ở nơi khác di cư đến đây cùng sinh sống và mang theo vốn văn hóa của họ để rồi hợp thành bản sắc văn hóa chung cho một cộng đồng rộng lớn. Trong đó, không thể không nói đến nghề chế tác nhạc cụ với nhiều loại nhạc cụ khác nhau như đã kể ở trên. Ngày nay, do nhiều yếu tố ngoại cảnh tác động nên nghề chế tác nhạc cụ đang dần bị mai một; hơn nữa, nguyên liệu để sản xuất ra nó cũng không còn được phong phú như trước kia, có khi không còn giống cây, quả để làm nên những nhạc cụ dân tộc.

Hiện nay, nhờ sự quan tâm của các cấp chính quyền, hội văn học dân gian đã mở lớp và mời nghệ nhân truyền dạy cho thế hệ trẻ trong cộng đồng về cách chế tác và cách sử dụng cây sáo mũi. Tính đến năm 2013, thì lớp đã có trên 30 người theo học và họ có thể chế tác và sử dụng thành thạo loại nhạc cụ này. 

Danh sách các nghệ nhân có thể sử dụng được các loại nhạc cụ của tộc người Phù Lá Xá Phó ở Châu Quế Thượng:

  1. Đặng Thị Thanh, thôn Nhầy, xã Châu Quế Thượng.
  2. Đặng Thị Lan, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.
  3. Phùng Văn Ló, thôn Nhầy, xã Châu Quế Thượng.
  4. Mà Văn Đô, thôn Nhầy, xã Châu Quế Thượng.
  5. Đặng Văn Hiệp, thôn Nhầy, xã Châu Quế Thượng.
  6. Phùng Văn Chiến, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.
  7. Lương Văn Sa, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.
  8. Lương Văn Chín, thôn Nhầy, xã Châu Quế Thượng.
  9. Mà Văn Sai, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.

10. Nông Thị Mà, thôn Lẫu, xã Châu Quế Thượng.

* Cách chọn nguyên liệu, chế tác  và bảo quản nhạc cụ:

Trước đây, những người dân trong làng phải đi vào tận rừng sâu mới kiếm được những ống kẹ (nứa) già và tốt. Có khi họ phải đi qua hàng chục bụi nứa mới tìm ra được một cây kẹ tốt để làm ra nhạc cụ. Cây nứa đó phải là cây già, thân to hơn ngón tay cái một chút. Một nguyên tắc bất di bất dịch trong việc đi tìm nguyên liệu làm nhạc cụ này là, người đi lấy ống kẹ phải tuyệt đối giữ bí mật, không được để cho ai biết; ai gọi cũng không được trả lời, vì theo quan niệm, nếu chẳng may bị phát hiện thì người đi tìm kẹ sẽ không được may mắn mà có khi còn gặp bất trắc hoặc là có tìm được cây kẹ ưng ý về làm sáo thì hồn sáo cũng bay đi mất và sáo có làm ra thì cũng chẳng thổi được.

Cây kẹ lấy về không thể làm được ngay mà người ta phải phơi nắng ít nhất là nửa tháng cho kẹ thật khô, thật già thì âm thanh của sáo sẽ không bị biến dạng. Trước kia, khi đi nương làm rẫy, đốt nương, người Phù Lá thường để ý đến những gốc nứa bị cháy, còn trơ lại một vài gốc nứa già chưa cháy hết, họ cắt về và làm sáo, vì khi gốc nứa đã bị đốt như vậy thì họ sẽ làm sáo được ngay mà không cần phải phơi nắng.

Cũng giống với việc lấy nguyên liệu làm sáo, nguyên liệu làm khèn bầu là những cây sậy già và quả bầu già. Những cây sậy được họ lựa chọn rất kỹ từ những bụi sậy mọc ở ven sông, suối hoặc cũng có thể làm bằng các ống nứa già. Khi đã được lựa chọn kỹ lưỡng, họ chặt về phơi khô, sau đó vót nhẵn bề mặt ngoài của ống sậy, cắt thành những ống với kích thước khác nhau. Còn đối với quả bầu, họ chọn hai quả bầu một quả bầu to và một quả bầu bé hơn một chút, đem phơi khô, sau đó khoét rỗng ruột của hai quả bầu để nối vào hai đầu của ống sậy, để tạo ra tiếng khi ta thổi hơi vào đó.

Ngày nay, việc đi lấy nguyên liệu chế tác nhạc cụ rất vất vả, họ phải đi rất xa địa bàn cư trú mới tìm được những nguyên liệu tốt. Xung quanh bản làng giờ đây đều là đất canh tác nông lâm nghiệp nên nguồn nguyên liệu bị chặt phá gần như không còn nhiều mà thay vào đó là những loại cây công nghiệp dài ngày; vì thế, muốn tìm được nguyên liệu tốt để làm ra những cây sáo tốt thì họ phải đi rất xa mới kiếm được. Đó là nguyên liệu để làm ra cây sáo mũi, còn nguyên liệu để làm khèn "ma nhí" hiện nay không còn giống quả bầu đắng quý hiếm trước kia nữa. Vì vậy, hiện nay chỉ có duy nhất sáo mũi là có thế chế tác được vì nguồn nguyên liệu để làm ra nó vẫn rất phong phú. Đối với chiếc khèn bầu, để làm ra nó người ta cần ít nhất hai quả bầu mà giống bầu này chỉ to hơn cái chén uống nước; theo như lời nghệ nhân Đặng Thị Thanh, giống bầu để làm khèn này là giống bầu đắng đã mất giống từ lâu, hiện nay trong bản làng không có nhà nào là còn lưu giữ được giống cây này.

Do điều kiện tự nhiên ở địa bàn mà tộc người Phù Lá cư trú nên việc bảo quản sáo và khèn cần phải có kỹ thuật từ khâu chọn nguyên liệu đến việc xử lý nguyên liệu trước khi chế tác. Người ta thường chọn những cây nứa, cây sậy thật già, phơi nắng đạt đến độ khô nhất định, sau đó mới đi vào công đoạn chế tác. Với kỹ thuật đó thì nhạc cụ sẽ đảm bảo được độ bền, không bị mối mọt hoặc teo lại hay nứt nẻ khi bảo quản ở nhiệt độ thất thường của thời tiết.

* Kỹ thuật chế tác nhạc cụ của người Phù Lá (Xá Phó):

Việc chế tác nhạc cụ cần phải có kỹ thuật và kinh nghiệm không chỉ riêng đối với nhạc cụ của dân tộc Phù Lá mà đối với tất cả các loại nhạc cụ dân tộc khác. Đơn giản với việc chọn nguyên liệu chế tác cũng phải là người có kinh nghiệm dày dặn và kỹ thuật điêu luyện đã nhiều năm gắn bó với nhạc cụ. Chế tác nhạc cụ đòi hỏi kỹ thuật cao, để khi hoàn thành sẽ cho ra được những loại nhạc cụ có âm thanh réo rắt.

Đối với người Phù Lá cũng vậy, nhạc cụ dân tộc luôn là thứ gắn bó với đời sống tinh thần của họ, nó là thứ làm gắn kết tình dân tộc. Nhìn vào bề ngoài của các nhạc cụ nói chung và nhạc cụ dân tộc của người Phù Lá nói riêng, ta thấy cách chế tác rất đơn giản nhưng để có được một nhạc cụ nghe hay thì không thể dựa vào vẻ bề ngoài của nó mà phải chế tác nó bằng cách thẩm âm. Như đối với cây sáo mũi, chỉ có ba lỗ được khoét trên thân ống nứa là một lỗ thổi và hai lỗ bấm, nhưng chế tác ra nó thì lại là cả một quá trình, có khi họ phải làm đến vài ba cái mới có được một cái có âm thanh ưng ý.

Từ một thân cây nứa nhỏ, già, thân nứa mỏng, người nghệ nhân chế tác dùng một con dao mỏng, cắt ngang cây nứa gần với mắt nứa. Cứ gọt từng lớp, từng lớp mỏng cho đến khi chạm vào lớp màng mỏng nhưng không được lẹm quá sâu. Đây chính là lớp màng tạo nên âm thanh riêng biệt cho cây sáo mũi. Không chỉ dừng lại ở việc cắt gọt, khâu quan trọng nhất vẫn là khâu thử âm thanh của sáo. Khi sáo không đạt được âm thanh như ý, họ sẽ kiểm tra các lỗ khoét xem lý do tại sao cây sáo lại có âm thanh như vậy; nếu không được họ sẽ bỏ và làm sang một cây nứa mới cho đến khi nào cây sáo có được âm thanh đạt chuẩn thì lúc đó cây sáo mũi mới được hoàn thành.

Kỹ thuật chế tác khèn bầu ma nhí cũng khá công phu, đòi hỏi nghệ nhân phải là người có kinh nghiệm và giỏi nghề mới làm ra được. Trước tiên, phải chọn năm ống sậy rỗng và hai quả bầu thuộc giống bầu đắng đã được phơi khô, sau đó, các nghệ nhân gọt giũa, đặt các lam đồng theo từng âm sắc riêng và được gắn bằng sáp ong ruồi, vì nó ít giãn nở khi gặp điều kiện thời tiết thất thường. Ngoài ra, các ống sậy được gắn kết với nhau bằng các quả bông nhiều màu sắc nhưng chủ yếu là các màu xanh, đỏ và vàng. Trên hai quả bầu được khoét lỗ để luồn ống sậy. Việc khoét lỗ trên quả bầu đòi hỏi sự khéo léo, nhẹ nhàng để không làm cho quả bầu bị vỡ, vì lúc này quả bầu đã được phơi khô, không còn độ dẻo dai. Khi kiểm tra âm sắc cuả khèn bầu ở công đoạn cuối cùng, các nghệ nhân phải kiểm tra âm thanh phát ra từ hai quả bầu, một quả là hợp âm và một quả là bè trầm, nếu như nghe âm thanh không thấy hay, các nghệ nhân sẽ sửa lại.

Nhìn chung, kỹ thuật chế tác nhạc cụ của người Phù Lá rất cầu kỳ và công phu, đặc biệt là công đoạn kiểm tra âm thanh của nhạc cụ. Với những người không có kinh nghiệm thì việc chế tác ra nhạc cụ là rất khó, vì vậy cần phối kết hợp với những người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề để có thể tạo ra được những loại nhạc cụ đúng với bản sắc dân tộc của mình.

* Sản phẩm của nghề chế tác nhạc cụ:

- Sáo mũi (cúc kẹ): Được làm từ một ống nứa già, to hơn ngón tay cái. Những ống nứa này không được to quá hoặc nhỏ quá; nếu ống to quá thì khoảng không trong cây sáo sẽ bị rỗng và mất rất nhiều hơi ở mũi để thổi, nếu không hơi sẽ không thể lên được; còn nếu nhỏ quá thì mũi cũng sẽ không đủ hơi thể tạo ra âm thanh.

Hai đầu ống được bịt kín lại, sau đó, họ dùng một con dao nhỏ thật sắc và nhọn để cạo vào thân ống kẹ; cạo cho đến khi ống kẹ xuất hiện màng đó gọi là màng hơi, là nơi phát ra âm thanh trên cây sáo (nếu làm mạnh tay chúng ta sẽ làm mất đi màng hơi đó). Khi cạo không nên để màng hơi dày quá, vì như vậy, sáo sẽ không thể tạo ra âm thanh được. Lúc màng hơi xuất hiện cũng là lúc việc chế tác sáo được hoàn thành.  

Ngoài ra, họ còn tạo thêm hai lỗ nhỏ ở gần cuối của cây sáo, đây là hai lỗ làm thay đổi âm thanh của sáo mỗi khi thổi.

Trong khi làm sáo, người ta cũng phải làm giấu không cho ai biết là mình đang làm; vì theo quan niệm của đồng bào, nếu muốn làm sáo mà để cho người khác biết thì sẽ hồi hộp, mất tập trung không thể làm được, mà có cố làm thì tiếng sáo khi thổi lên cũng sẽ không hay. Theo như lời nghệ nhân Đặng Thị Thanh (người duy nhất biết chế tác sáo mũi) thì người làm sáo thường lặng lẽ mang nguyên liệu đến một gốc cây ở chỗ vắng, ít người qua lại và tập trung cho việc làm sáo, vì như vậy sẽ không có ai biết và cây sáo làm ra cũng sẽ có được âm thanh như ý.

- Khèn bầu (ma nhí): Là loại khèn được chế tác từ hai quả bầu thuộc giống bầu đắng quý hiếm rất khó sưu tầm, năm ống sậy hay còn gọi là sặt rỗng, khi làm phải lựa chọn ống rất kỹ lưỡng. Sau đó được các nghệ nhân gọt giũa, đặt các lam đồng theo âm sắc riêng rồi gắn với sáp ong muỗi. Tiếp đó là các quả bông làm đai gắn kết các ống sậy; những quả bông ngũ sắc này được trang trí gắn kết thành bè tam hợp (xanh, đỏ, vàng). Quả bầu hợp âm thường được làm bé hơn quả bầu bè trầm. Khèn ma nhí có chiều dài khoảng 43 cm, cao 23 cm, đường kính quả bầu to là 7 cm, quả bầu nhỏ là 5 cm.

Để làm ra khèn bầu ma nhí đòi hỏi phải có sự khéo léo, tinh tế và sáng tạo của các nghệ nhân, vì ở đó, họ còn gửi vào những tâm tư, tình cảm của con người với thiên nhiên, con người với con người để khi ngân lên với những điệu múa, nghi lễ, lễ tạ…, chúng hòa quyện vào nhau, tạo nên một dòng chảy văn hóa tuyệt vời.

* Giá trị của nghề chế tác nhạc cụ: Nghề chế tác nhạc cụ truyền thống là nghề thể hiện rõ nét bản sắc văn hóa nghệ thuật của tộc người Phù Lá. Qua đó, chúng ta có thể hiểu hơn về đời sống văn hóa, sinh hoạt cộng đồng của họ. Nghề chế tác nhạc cụ còn chứa đựng nhiều giá trị:

1. Giá trị lịch sử: Nhạc cụ truyền thống của người Phù Lá được chế tác từ rất lâu và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, vì vậy nó thể hiện rõ nét về quá trình phát triển lịch sử của tộc người.

2. Giá trị văn hóa: Thông qua cách thức chế tác và sử dụng nhạc cụ, chúng ta có thể nhận thấy sự tinh tế về chế tác, sự độc đáo về âm thanh của những loại nhạc cụ dân tộc. Một phần văn hóa của tộc người cũng được thể hiện qua những giai điệu cất lên từ cây sáo mũi hay khèn bầu ma nhí.

3. Giá trị nghệ thuật: Cách thức chế tác và thổi sáo bằng mũi có một không hai đã tạo nên một nét văn hóa đặc sắc riêng biệt mà không phải dân tộc nào cũng có được. Ngoài ra, khèn bầu ma nhí cũng không kém phần độc đáo với hai quả bầu khô được nối với những ống sậy khô tạo ra những âm than. Qua đây, chúng ta thấy được tính nghệ thuật đặc sắc của nhạc cụ đối với văn hóa truyền thống của tộc người.

* Phương hướng bảo tồn và phát huy nghề chế tác nhạc cụ:

Để bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa của nghề chế tác nhạc cụ truyền thống, việc cần thiết và cơ bản chính là đưa nghề này trở lại với cộng đồng sinh hoạt văn hóa, bằng cách khơi dậy tình yêu, lòng tự hào đối với truyền thống của dân tộc trong mỗi người dân tới toàn cộng đồng.

Thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học về nghề chế tác nhạc cụ truyền thống tại địa phương một cách khoa học và có hệ thống thông qua việc tư liệu hóa, vật thể hóa hệ thống nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của nghề trong cộng đồng; trên cơ sở đó, đề xuất phương án bảo tồn, phát huy một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động nghề; gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền, đoàn thể và người dân nhằm thực hiện xã hội hóa công tác bảo tồn và phát huy nghề; tăng cường tuyên truyền về bảo tồn văn hóa phi vật thể cho người dân nâng cao nhận thức về truyền thống văn hóa của dân tộc để từ đó mỗi cá nhân có ý thức bảo vệ di sản.

Kết luận:

Tộc người Phù Lá nói chung cũng như nhóm Phù Lá (Xá Phó) nói riêng có đời sống văn hóa tinh thần khá phong phú và đa dạng. Mặc dù ngày nay, đời sống của đồng bào còn gặp nhiều khó khăn nhưng các giá trị văn hóa dân gian truyền thống vẫn được bảo lưu, giữ gìn và phát huy. Trong số rất nhiều những yếu tố văn hóa độc đáo đó, nghề thủ công truyền thống là một loại hình không thể thiếu, làm nên những yếu tố đặc sắc trong văn hóa của tộc người.

Nghiên cứu các nghề thủ công truyền thống của tộc người chính là góp phần tìm hiểu, khám phá tinh hoa của cộng đồng với các yếu tố về truyền thống kỹ thuật - công nghệ, tài hoa sáng tạo của bản thân tộc người về các giá trị nghệ thuật, thẩm mỹ; đồng thời thông qua đó, góp phần nghiên cứu cách thức tư duy cũng như đặc trưng của tộc người. Những sản phẩm này là nơi hội tụ trình độ kỹ thuật, thẩm mỹ, óc sáng tạo của tộc người cũng là nơi lưu giữ và thể hiện những nét văn hóa tinh thần đặc sắc của cộng đồng, là cái kết tinh tinh hoa văn hóa của dân tộc Phù Lá.

Với những giá trị vật chất và tinh thần to lớn của hoạt động thủ công nghiệp này trong đời sống đồng bào nơi đây, các nghề thủ công truyền thống xứng đáng được lưu giữ, bảo tồn, phát huy giá trị tốt đẹp của nó trong dòng chảy văn hóa của dân tộc.

Để bảo tồn và lưu giữ giá trị văn hóa đặc sắc này lâu dài trong cộng đồng, chính quyền địa phương cần tiếp tục tập hợp các nghệ nhân cao tuổi, am hiểu văn hóa tộc người và sự đồng thuận của nhân dân trong vùng; lên kế hoạch trao truyền cho thế hệ trẻ nhằm bảo lưu một cách đầy đủ và hiệu quả nhất giá trị văn hóa này. Đồng thời, các cấp, các ngành và địa phương cần đầu tư kinh phí để thực hiện các dự án quay phim bảo tồn, khôi phục và phát triển từng nghề thủ công truyền thống trên của cộng đồng tộc người trong thời gian gần nhất.

(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)

5586 lượt xem
Ban Biên tập

15oC

Thấp nhất 13°C, cao nhất 17°C. Trời nhiều mây, . Áp suất không khí hPa.
Độ ẩm trung bình %. Tốc độ gió km/h