Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Bảo tồn văn hóa phi vật thể cấp quốc gia >> Văn hóa - Xã hội

Tục Nhảy lửa của người Dao đỏ, xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái

21/06/2019 10:01:20 Xem cỡ chữ Google
Tục Nhảy lửa của người Dao đỏ ở xã Mỏ Vàng là một nét văn hóa độc đáo, đặc sắc, mang đậm tính nhân văn. Tục Nhảy lửa còn gắn liền với yếu tố tâm linh, cầu bình an cho năm mới, xua đi những đen đủi, không may mắn. Trong quan niệm của người Dao, ngọn lửa mang lại sự may mắn cho họ. Đây là nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa tinh thần hết sức phong phú và độc đáo của đồng bào. Nó mang ý nghĩa giá trị sâu sắc, giáo dục đồng bào lòng can đảm, dám vượt qua khó khăn, thử thách, hướng cộng đồng đến cái thiện và những việc làm tốt.

Những chàng trai người Dao nhảy múa với đôi chân trần của mình trong đống lửa mà không hề có cảm giác bỏng rát hay sợ hãi

I. Khái quát về tộc người Dao ở tỉnh Yên Bái:

Người Dao là một trong 12 tộc người có dân số tương đối đông, sinh sống ở Yên Bái; Hiện nay có khoảng 83.888 người, chiếm 11,32% dân số toàn tỉnh (theo số liệu tổng điều tra ngày 1/4/2009). Địa bàn cư  trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa, nơi tiếp giáp giữa vùng thấp và vùng cao. Đồng bào sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên, chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên.

Người Dao ở Yên Bái có nhiều tên gọi khác nhau như: Người Động, người Xá, người Mán... Người Dao tự gọi mình là “kiềm miền” (tức là người ở rừng).

Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có bốn nhóm chính là: Dao đỏ (còn gọi là Dao sừng, Dao đại bản), Dao quần chẹt (còn gọi là Dao Nga hoàng, Dao sơn đầu), Dao quần trắng và Dao làn tuyển (còn gọi là Dao tuyển). Để phân biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.

Các nhóm Dao cũng có sự khác nhau ít nhiều về tiếng nói, song đều thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao (nằm trong ngữ hệ Nam Á). Hình thái kinh tế chủ yếu của người Dao ở Yên Bái là sản xuất nông nghiệp với hai loại hình chính là trồng lúa nương và lúa nước. Trong đó, lúa nước chiếm tỷ lệ ít hơn. Ngoài ra, đồng bào còn trồng một số loại cây hoa màu như ngô, sắn... rau của người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, các cây họ đậu, khoai, củ từ, dưa gang... Đặc biệt, người Dao ở Yên Bái phát triển mạnh hai loại cây công nghiệp là cây quế và cây chè. Ngoài cây lúa, hoa màu, quế và chè, đồng bào còn có thu nhập thêm từ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà...

Người Dao có các nghề thủ công truyền thống phong phú, đa dạng và phát triển rất sớm; trong đó, nổi bật là làm giấy dó, dệt vải, nhuộm chăn, in và thêu hoa văn trên vải, đan lát các đồ đựng bằng tre, nứa, giang, mây song và nghề rèn. Nghề rèn của đồng bào Dao cũng phát triển, chủ yếu là rèn các nông cụ như dao, cuốc, cào cỏ, lưỡi cày. Nghề làm đồ trang sức bằng bạc và bằng đồng làm thành vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn, xà tích.

Đồng bào Dao thường dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng bản riêng biệt hoặc xen cư với các tộc người khác. Ở người Dao Yên Bái hội tụ đầy đủ ba loại hình nhà ở đó là: nhà sàn của nhóm Dao quần trắng, nhà đất của nhóm Dao đỏ và nhà nửa sàn, nửa đất của nhóm Dao quần chẹt và Dao tuyển. Hiện nay, nhiều gia đình người Dao có cuộc sống khá giả, đã xây nhà theo kiểu mới.

Trang phục truyền thống của người Dao Yên Bái đặc sắc và nổi bật ở nghệ thuật trang trí trên quần áo với mô tuýp hoa văn cây cỏ, động vật, hình người, hình chim, kết chữ Hán và được cách điệu rất sinh động. Trang phục đàn ông thường có hai loại là áo ngắn mặc hàng ngày và áo dài mặc trong lễ hội, lễ cấp sắc hay đám cưới. Trang phục nữ phong phú hơn với những trang trí hoa văn truyền thống, đầu đội khăn. Để phân biệt được các nhóm Dao chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong trang phục của người phụ nữ.

Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản, thức ăn chính của người Dao là cơm tẻ, thực phẩm hàng ngày chủ yếu là các loại rau hái trong rừng, măng, mộc nhĩ và các loại thảo mộc khác. Ngày nay, đồng bào đã trồng nhiều loại rau khác nhau ngay tại vườn nhà để phục vụ nhu cầu hàng ngày khi không vào rừng hái rau được. Các loại gia súc, gia cầm được nuôi chủ yếu để phục vụ nhu cầu sinh hoạt của gia đình cũng như những tín ngưỡng dân gian của đồng bào. Các món ăn của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam.

Các hoạt động sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao ở Yên Bái cũng rất phong phú và đa dạng. Các nhóm Dao đều thờ cúng tổ tiên và thờ Bàn Vương, trong đó, thờ cúng tổ tiên là việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình. Bàn Vương được coi như thủy tổ của các dòng họ nên cũng cúng bái chung với tổ tiên. Cùng với phong tục cúng Bàn Vương thì người Dao còn có nghi thức “cấp sắc”. Đây là một tục lệ phổ biến và bắt buộc đối với tất cả đàn ông người Dao. Một trong những nghi lễ rất quan trọng phải nhắc đến đó là "Tết nhảy” (Nhiàng chầm đao). Nghi lễ này nhằm mục đích cúng Bàn Vương và luyện binh tướng (âm binh) để bảo vệ cuộc sống và sinh hoạt gia đình.

Hôn nhân của người Dao Yên Bái có nhiều nghi thức độc đáo và đặc sắc; nhiều hình thức sinh hoạt truyền thống được thực hiện trong đám cưới, đặc biệt là hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gái. Đây là một nghi thức sinh hoạt truyền thống vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Tục cưới xin của người Dao phải trải qua nhiều nghi lễ khá phức tạp, mỗi nhóm có những nghi lễ riêng. Thường thì hôn lễ của người Dao được tiến hành qua các bước sau: nhà trai đến nhà gái xin so tuổi đôi nam nữ; nhà trai báo cho nhà gái biết kết quả so tuổi của đôi nam nữ; định ngày cưới và dâng lễ; lễ cưới và lại mặt. Người Dao thường có tục ở rể ba năm, sau đó mới được ở riêng hoặc về nhà trai ở hẳn.

Tang ma là một trong những nghi lễ rất quan trọng của vòng đời người Dao, phản ánh nhiều tục lệ từ xa xưa. Đồng bào Dao quan niệm rằng, con người có phần hồn và phần xác. Một đám tang của người Dao thường có các các nghi lễ sau: lễ khâm niệm, lễ xôi gà và lập bàn thờ (lễ cấp thủy và dâng rượu, gia súc), lễ làm chay, lễ nhập quan yểm bùa, lễ đưa đám, lễ hạ huyệt và lễ cúng cơm. Hầu hết các nhóm người Dao ở Yên Bái không có tục cải táng người chết. Nếu là người đã qua lễ cấp sắc đều được gọi hồn về nhà lớn để thường xuyên thờ cúng. Người Dao có tục lệ ăn sinh nhật, cúng sinh nhật cho cha mẹ khi còn sinh sống, không tổ chức cúng giỗ khi đã chết. Đồng bào rất kiêng kỵ việc dựng vợ, gả chồng cho con hay làm nhà mới, trồng cấy, gieo hạt giống trùng với ngày mất của người thân. Lễ làm chay cho người chết diễn ra sau nhiều năm, thường được kết hợp với lễ cấp sắc cho một người đàn ông nào đó đang sống trong gia đình.

Người Dao Yên Bái đều có vốn thơ ca dân gian rất phong phú, họ hát "Páo dung" (Pá dung, Pả dung) gợi nhớ lịch sử, xã hội tộc người, ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, thế giới động vật, ca ngợi sản xuất dưới nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và còn gắn vào những bài hát giáo lý, xã hội, gia đình. Người Dao có rất nhiều truyện cổ tích kể về mọi hiện tượng xảy ra trong xã hội, thiên nhiên. Các câu chuyện đều mang tính giáo dục sâu sắc, anh em phải sống hòa thuận, yêu thương nhau.         

Ngày nay, truyền thống văn hóa dân gian luôn được bảo tồn, khai thác, phát huy trong sản xuất và phát triển kinh tế xã hội, cùng với các dân tộc khác trong tỉnh, tộc người Dao cũng đang góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc và phát triển quê hương Yên Bái ngày càng giàu đẹp hơn.

II. Khái quát về người Dao ở huyện Văn Yên:

1. Khái quát chung về huyện Văn Yên:

Văn Yên là một huyện vùng núi nằm về phía Bắc của tỉnh Yên Bái, được thành lập từ tháng 3 năm 1965. Huyện Văn Yên nằm trong tọa độ địa lý 104º23' đến 104º23' độ kinh Đông và từ 21º50'30 đến 22º12' vĩ độ Bắc, phía Đông giáp huyện Lục Yên và Yên Bình, phía Tây giáp huyện Văn Chấn, phía Nam giáp huyện Trấn Yên, phía Bắc giáp huyện Văn Bàn và huyện Bảo Yên (tỉnh Lao Cai). Theo số liệu thống kê năm 2009, tổng diện tích đất tự nhiên của huyện là 1.391,54 km­­2, cách trung tâm tỉnh lỵ Yên Bái 40 km về phía Bắc. Toàn huyện có 26 xã và 1 thị trấn, bao gồm: thị trấn Mậu A; các xã: An Thịnh, Lang Thíp, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, Lâm Giang, An Bình, Quang Minh, Đông An, Phong Dụ Hạ, Phong Dụ Thượng, Xuân Tầm, Tân Hợp, Đông Cuông, Mậu Đông, Ngòi A, Yên Thái, Yên Hưng, Yên Hợp, Xuân Ái, Hoàng Thắng, Viễn Sơn, Mỏ Vàng, Nà Hẩu, Đại Sơn, Đại Phác, Yên Phú. Huyện có 8 xã đặc biệt khó khăn vào diện đầu tư Chương trình 135.

Dân số trung bình đến năm 2009 là 116.000 người, mật độ dân số trung bình 83 người/km2. Trong đó, người Kinh: 65.117 người (56,33%); người Tày: 17.573 người (15,2%); người Dao: 26.487 người (22,91%); người Mông: 4.480 người (3,87%); các tộc người khác: 1.957 người (1,69%). Địa hình huyện Văn Yên tương đối đa dạng và phức tạp, đồi núi liên tiếp và cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc, thuộc thung lũng sông Hồng kẹp giữa hai dãy núi cao là Con Voi và Púng Luông. Hệ thống sông ngòi dày đặc với các kiểu địa hình khác nhau như vùng núi cao hiểm trở, vùng đồi bát úp lượn sang nhấp nhô xen kẽ với các thung lũng và những cánh đồng phù sa nhỏ hẹp ven sông. Sự chênh lệch địa hình giữa các vùng trong huyện rất lớn; đỉnh cao nhất là Pú Luông (cao 2985 mét), nơi thấp nhất là 20 mét so với mực nước biển. Do đặc điểm địa hình như trên, Văn Yên là huyện có nhiều tiềm năng về rừng. Rừng ở Văn Yên chủ yếu là loại rừng á nhiệt đới và nhiệt đới núi cao với các loại cây gỗ quý như pơ mu, thông, nghiến, táu, lát hoa, chò chỉ,...

Huyện Văn Yên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa nóng ẩm. Nhưng khí hậu Văn Yên tương đối ổn định, ít đột biến, phù hợp với trồng trọt và chăn nuôi; chủ yếu là trồng các loại cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp dài ngày như chè, quế. Quế Văn Yên được cho là giống quế tốt nhất Việt Nam, có hàm lượng tinh dầu cao thứ hai ở Việt Nam (sau quế Trà My), đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý. Diện tích trồng quế ở Văn Yên lên tới 16 nghìn hecta. Ngoài ra còn có các loại cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày như sắn, lạc, đậu đỗ các loại. Những nơi có khí hậu mát ở vùng cao còn cho phép trồng nhiều dược liệu quý và chăn nuôi gia súc có sừng như bò, dê, hươu, nai...

Các tài nguyên thiên nhiên khá phong phú và đa dạng, ngoài tài nguyên rừng còn tài nguyên khoáng sản. Khoáng sản của Văn Yên tương đối đa dạng và phong phú với các kim loại quý hiếm như vàng, sắt, đồng, graphit,... Đây là những tài nguyên có trữ lượng lớn, hứa hẹn cho ngành công nghiệp khai khoáng ở Văn Yên có cơ hội phát triển.

Sản xuất nông - lâm nghiệp là thế mạnh của Văn Yên. Đây là một huyện được xác định có tiềm năng về kinh tế nông - lâm nghiệp với các đặc thù và thế mạnh riêng. Những năm qua, địa phương đã từng bước hình thành cơ cấu kinh tế nông - lâm - công nghiệp - dịch vụ và sản xuất. Đặc biệt, kinh tế trang trại ở Văn Yên khá phát triển, đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế; nông nghiệp độc canh đã chuyển sang chuyên canh gắn liền với kinh doanh tổng hợp theo hướng sản xuất hàng hóa.

2. Người Dao ở huyện Văn Yên:

Tính đến năm 2009, tổng số người Dao ở huyện Văn Yên là 26.487 người, chiếm 22,91% dân số toàn huyện. Huyện Văn Yên hiện có 4 nhóm chính là: Dao đỏ (còn gọi là Dao sừng, Dao đại bản), Dao quần chẹt (còn gọi là Dao Nga hoàng, Dao sơn đầu), Dao quần trắng và Dao làn tuyển (còn gọi là Dao tuyển. Phần lớn người Dao ở đây sống tập trung ở các xã Xuân Tầm, Mỏ Vàng, Viễn Sơn, Đại Sơn, Châu Quế Thượng, Lang Thíp. Họ cư trú thành các bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Có hai loại hình cư trú phân tán và tập trung, tương ứng với nhóm du canh hoặc định canh, sống xen kẽ với các dân tộc khác. Nguồn sống chính của họ là lúa nước và lúa nương, chăn nuôi, trồng cây ăn quả, cây đặc sản. Nhìn chung, đời sống của người Dao còn nhiều khó khăn; riêng ở xã Mỏ Vàng, nhờ có thu nhập từ cây quế nên đời sống kính tế khá giả hơn. Người Dao ở đây còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc truyền thống như lễ nhảy lửa, cấp sắc, đám cưới, tang ma...

III. Khái quát về người Dao ở xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên:

1. Khái quát về xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên:

Xã Mỏ Vàng là một trong tám xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng 135 của huyện Văn Yên, được thành lập từ năm 1973. Xã nằm ở tọa độ địa lý là 21º44'7"B đến 104º38'40"Đ, phía Bắc giáp xã Nà Hẩu, phía Đông Bắc giáp xã Đại Sơn, phía Nam giáp xã Hồng Ca (huyện Trấn Yên), phía Tây giáp xã Sùng Đô, An Lương. Từ Thành phố Yên Bái theo tỉnh lộ 151 lên thị trấn Mậu A (40 km), qua cầu Mậu A đi về hướng Tây Nam khoảng 30 km là đến xã Mỏ Vàng. Toàn xã có tất cả 11 thôn: Thôn Gốc Sấu, thôn Giàn Dầu 1, thôn Giàn Dầu 2, thôn Khe Ngõa, thôn Thác Cá, thôn Cánh Tiên 1, thôn Cánh Tiên 2, thôn Khe Hóp, Thôn Khe Đâm, thôn Khe Loóng, thôn Khe Loóng 3. Theo số liệu thống kê, xã Mỏ Vàng có diện tích 9955,08 hecta. Địa hình xã Mỏ Vàng tương đối phức tạp, đồi núi liên tiếp và cao dần từ Đông Nam lên Tây Bắc.

Về dân số: Theo số liệu thống kê năm 2014, dân số toàn xã là 4.160 người với 872 hộ; mật độ trung bình là 37,9 người/km2. Cư dân ở đây bao gồm các dân tộc anh em chung sống từ lâu đời, trong đó dân tộc Dao chiếm đa số với 2.498 người, dân tộc Kinh có 46 người, dân tộc Tày có 328 người, dân tộc Mông có 1.213 người.

Khí hậu: xã Mỏ Vàng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm, ít biến đổi, có lượng mưa bình quân khoảng 1.800 mm/năm. Độ ẩm thường xuyên từ 81- 86%, nhiệt độ trung bình từ 23 - 24ºC. Các đặc điểm khí hậu này rất thuận lợi cho xã Mỏ Vàng phát triển trồng các loại cây công nghiệp dài ngày, đặc biệt là cây quế với trữ lượng tinh dầu cao. Cũng với điều kiện tự nhiên và khí hậu thuận lợi như vậy nên rừng nhiệt đới ở Mỏ Vàng phát triển mạnh với nhiều loại cây lá rộng và nhiều tầng. Trước đây trong các khu rừng, các đỉnh núi trên địa bàn xã có nhiều loại cây lá kim, lá rộng và các loại gỗ quý hiếm như sến, táu, dổi,… và các loại động vật quý như cầy hương, lợn rừng, gấu, khỉ… Ngoài ra, nhiều khu đồi rừng còn cho các đặc sản như cọ, quế, chè, sa nhân…

Sản xuất nông - lâm nghiệp cũng là thế mạnh của xã Mỏ Vàng. Đồng bào ở đây thường trồng các loại cây lương thực như lúa, ngô, khoai, sắn và các loại cây công nghiệp mang lại giá trị kinh tế cao như keo, bồ đề mỡ. Đặc biệt vùng đất Mỏ Vàng nổi tiếng với việc trồng quế và chính cây quế đã đem lại cho đồng bào cuộc sống no đủ. Nhân dân các dân tộc Mỏ Vàng với tinh thần đoàn kết, lao động cần cù, sáng tạo và truyền thống yêu nước nồng nàn đã lập lên nhiều chiến công vẻ vang, góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của dân tộc và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước giàu đẹp.

2. Một số đặc điểm kinh tế, văn hóa - xã hội của người Dao xã Mỏ Vàng:

- Lịch sử di cư của người Dao ở Mỏ Vàng, huyện Văn Yên: Theo khảo sát ở những địa phương có người Dao sinh sống, người Dao có nguồn gốc xa xưa ở đảo Hải Nam (Trung Quốc). Họ bắt đầu di cư sang Việt Nam vào thời Lê (vào khoảng cuối thế kỷ XVII), với hai hướng chính là đường bộ và đường biển. Người Dao di cư vào Việt Nam theo nhiều đợt, nhưng sớm nhất từ thế kỷ XIII. Các nhóm Dao ở tỉnh Yên Bái chủ yếu di cư từ các tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Giang, Tuyên Quang và Cao Bằng sang.

Xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên chỉ có nhóm Dao đỏ chiếm hơn 84%. Họ thường sống thành bản riêng biệt, khoảng cách thưa thớt. Nguồn sống chính của người Dao ở Mỏ Vàng là trồng lúa nước, lúa nương. Những năm gần đây, người Dao đỏ ở xã Mỏ Vàng rất phát triển chăn nuôi bò, lợn, gà... Ngoài ra, họ còn trồng cây ăn quả, các loại cây đặc sản như cây chè, cây quế. Ở đây còn có các nghề thủ công như đan lát, rèn đúc, nghề dệt nhưng những nghề này chỉ chủ yếu đáp ứng nhu cầu tự cung tự cấp của các gia đình.

- Một số đặc điểm về văn hóa vật chất của người Dao ở Mỏ Vàng: Mỏ Vàng là địa bàn sinh sống chủ yếu của nhóm Dao đỏ; nhà đất là loại hình nhà ở phổ biến của đồng bào. Đó là loại nhà hình chữ nhật, thường có hai mái, trong nhà thường có từ ba đến năm gian, bộ sườn nhà được chế tạo khá đơn giản. Nguyên vật liệu làm nhà thường kiếm ngay tại chỗ, chủ yếu là cây rừng. Phần gian nhà bên phải dành đặt giường ngủ của khách, buồng ngủ của chủ nhà đặt ở phía bên phải bàn thờ, giường ngủ của con trai thường đặt sau giường của khách, còn phòng ngủ của con gái thường đặt phía trong gần bếp. Bàn thờ được đặt ở gian giữa; nhà thường có hai bếp (một bếp ở gian ngoài để sưởi ấm vào mùa đông, dành cho đàn ông và khi có khách đến). Nhà của người Dao thường được bố trí theo mô hình: bếp là nơi tập trung của cả gia đình vào mùa đông, là nơi rộng nhất trong nhà. Nhà ở của họ có ít cửa ra vào, đặc biệt là ít của sổ; đa số chỉ có một cửa sổ đặt ở giường nằm ngủ. Đây là loại nhà tổng hợp bếp, chuồng gia súc, các công cụ sản xuất và sinh hoạt đều thuộc phạm vi nhà ở. 

- Trang phục của người Dao đỏ: Trong các nhóm Dao thì trang phục của người Dao đỏ thường được làm cầu kỳ và sử dụng nhiều màu sắc hơn cả. Trang phục của nam giới không có gì khác biệt lắm so với trang phục nam giới trong các ngành Dao. Đàn ông Dao đỏ thường đội mũ nồi hoặc vấn khăn dài; áo chàm được may theo lối cổ khoanh bí, thân áo dài gần trùm mông, vạt áo may thẳng có cài khuy lộn dọc từ ngực xuống bụng, sau lưng áo có miếng vải hoa văn hình bùa chú. Quần của đàn ông là quần thụng vải đen, may kiểu chân què bổ đũng, dài gần chạm cổ chân và cạp quần luồn dây rút bằng sợi vải hoặc sợi gai. Trang phục của nữ giới Dao đỏ được tạo điểm nhấn bằng những gam màu đỏ của vải hoặc sợi trên nền vải đen và thường được may công phu hơn, gồm có các bộ phận: khăn, áo, thắt lưng, quần, xà cạp cùng đồ trang sức bằng bạc như vòng cổ, vòng tay… Để  tạo thành bộ y phục đẹp phải có vải đen làm nền để thêu hoa văn; chỉ thêu gồm năm màu cơ bản là đỏ, trắng, đen, xanh, vàng, nhưng chủ yếu là màu đỏ. Người Dao đỏ thích dùng màu đỏ tươi rực rỡ để trang trí: khăn đỏ, ngực áo, cổ áo đỏ, khăn đỏ có tua đỏ, yếm đỏ, nẹp ngực áo đỏ, yếm lưng đỏ...

Văn hoá ẩm thực của người Dao đơn giản. Thức ăn chính của người Dao là lúa nước và lúa nương, thực phẩm hàng ngày của họ là các loại rau hái trong rừng như măng, mộc nhĩ; các loại rau trồng trong vườn nhà và các loại thảo mộc khác; các thức ăn từ gia súc, gia cầm. Các món ăn chủ yếu của người Dao trong ngày thường được chế biến theo kiểu luộc và xào, thỉnh thoảng cũng nướng và lam. Người Dao rất thích ăn ớt, gừng, riềng, lá sả, hạt dổi, lá chanh, các thứ rau thơm và các thứ nước chua. Nước uống hàng ngày của họ là nước chè, nước vối, nước từ các loại cây thuốc... Người Dao cũng uống các loại rượu cất từ gạo, ngô, khoai, sắn và các loại cây có bột như cây báng, cây móc. Men rượu đều chế biến bằng các thứ lá và rễ cây rừng.

- Một số đặc điểm về văn hóa tinh thần của người Dao ở Mỏ Vàng:

+ Tiếng nói - chữ viết: Tiếng Dao nói chung và Dao đỏ nói riêng thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao, nằm trong ngữ hệ Nam Á. Chữ viết của người Dao còn trong một số tài liệu lưu giữ được là chữ Hán và chữ Nôm Dao.

- Một số nghi lễ truyền thống:

+ Lễ cấp sắc: Đây là một nghi lễ truyền thống độc đáo có tính lịch sử lâu đời trong đời sống sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao, nhằm công nhận sự trưởng thành cả về vật chất lẫn tinh thần của người đàn ông. Theo quan niệm của người Dao, cấp sắc là để được thánh thần công nhận và có thể làm nghề cúng bái. Nghi lễ của lễ cấp sắc rất mở; có thể là một hay nhiều cá nhân của một gia đình, dòng họ hay cả một tập thể của nhiều gia đình, nhiều dòng họ, nhiều bàn làng khác nhau cùng tổ chức. Lễ cấp sắc có rất nhiều bậc. Bậc đầu tiên họ được cấp ba đèn và ba mươi sáu binh mã, bậc hai được cấp bảy đèn và bảy mươi hai binh mã, bậc ba được cấp mười hai đèn và một trăm hai mươi binh mã. Lễ cấp sắc ba đèn và bảy đèn được tổ chức thường xuyên trong cộng đồng tùy thuộc vào nhu cầu và điều kiện của các gia đình, dòng họ. Riêng nghi lễ cấp sắc mười hai đèn đèn có quy mô lớn hơn hai nghi lễ trên nên phải hai, ba mươi năm mới có một lần. Nội dung chính của lễ cấp sắc tiến hành theo trình tự: lễ lên đèn, lễ ban mũ thầy cúng, lễ trình diện Ngọc hoàng, lễ cấp tinh, lễ hạ đèn và giao quân, lễ qua cầu, lễ đặt tên. Các nghi thức trong lễ cấp sắc đều nhằm mục đích hướng thiện, giúp con người trưởng thành hơn, đạo đức hơn, sống tốt hơn và quan trọng là những lời giáo huấn này được thực hiện bằng những lời thề trước sự giám sát của tổ tiên và nhiều quan binh nên càng làm tăng tính giáo dục. Đây là một nghi lễ giao tiếp có tính kế thừa, kết nối các giá trị văn hóa giữa các thế hệ, chứa đựng nhiều thành tố quan trọng của bản sắc văn hóa Dao. Đồng thời, lễ cấp sắc cũng là dịp để cộng đồng cùng thưởng thức các hoạt động văn hóa văn nghệ, nhảy múa hết sức hấp dẫn. Các điệu múa trong lễ cấp sắc rất đặc sắc. Ở đây, các điệu múa có sự đan xen, hòa quyện giữa yếu tố lao động trần thế và tôn giáo, thể hiện sự giao hòa giữa hai thế giới. Điệu múa đặc trưng, đặc sắc, vui nhộn nhất là múa rùa. Múa rùa diễn ra trong không khí vui tươi; những động tác múa nhịp nhàng, khỏe khoắn của các chàng trai miêu tả, tái hiện việc đuổi rùa, tìm rùa, bắt rùa, giết rùa. Múa rùa là một nét đẹp, thể hiện tính phồn thực và mối giao hòa trong cộng đồng dân tộc.

+ Tết nhảy: Đây là tết riêng của mỗi gia đình, cũng mang tính dòng họ. Tết này nhằm mục đích luyện âm binh cho bộ tranh Đại đường để thờ phụng các thần linh, bảo vệ cuộc sống gia đình. Vì vậy, Tết nhảy mang màu sắc tín ngưỡng tôn giáo rất rõ rệt. Tết nhảy được tiến hành vào tháng Chạp; năm nào cũng tổ chức nghi lễ này, cứ ba năm làm thành một chu kỳ. Và nét đặc biệt là, chỉ có gia đình nào có bàn thờ tổ và đã sắm tranh Đại đường thì mới có Tết nhảy. Tết này đòi hỏi một quá trình chuẩn bị khá công phu, phải nấu rượu, nuôi lợn; thanh niên phải luyện tập các điệu múa, chuẩn bị dao, gươm bằng gỗ.

Quá trình của Tết nhảy trải qua các bước: lập đàn tẩy uế, làm lễ khấn các thần thánh. Nội dung chính của nghi lễ là nhảy múa và khấn tụng được tổ chức liên tục trong suốt những ngày đêm làm tết. Mỗi người trong đội múa, tay đều cầm cờ, trống chiêng, sập sèng... và phải múa theo điệu quay vòng. Tiếp sau đó là nhiều điệu múa truyền thống được trình diễn như: múa kiếm, múa dạo (lạp miên a dạo), múa nhảy rùa (Pẻo tộ)... Tất cả những động tác của các điệu múa này đều được thực hiện một cách liên tục với sự khéo léo và tinh tế của người trình diễn. Những điệu múa, lời hát trong Tết nhảy thường hướng đến những điều tốt lành, hạnh phúc. Lễ "nhìang chầm đao" chủ yếu phục vụ cho tôn giáo, tín ngưỡng, nhưng ít nhiều có màu sắc văn nghệ, toát lên ý nghĩa văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Dao sống đoàn kết, thủy chung, tình nghĩa.

- Một số lễ tết khác của tộc người trong năm:

+ Tết Nguyên đán: Khác với dân miền xuôi, người miền núi lại có phong tục đón tết rất đặc trưng, mang đậm nét văn hóa của dân tộc mình. Với người Dao cũng vậy, họ cũng có cách đón năm mới rất riêng của mình. Đồng bào Dao đón tết đơn giản nhưng lễ nghi lại cầu kỳ và độc đáo. Tết Nguyên đán là mở đầu cho một năm mới, cho nên từ 27 - 28 tháng Chạp, người người đã bận rộn chuẩn bị mọi thứ cho việc đón tết như: gạo, bột, lá gai, củi, rau, bò, lợn; trang trí nhà cửa và đặc biệt là chuẩn bị quần áo mới.

Ngày 30 Tết, nhà nào cũng phải nấu một nồi nước thơm thật to để ai cũng phải tắm gội. Theo quan niệm của người Dao, tất cả mọi người phải tắm rửa sạch sẽ để rũ bỏ mọi xấu xa, bẩn thỉu của năm cũ, bước vào năm mới sạch sẽ, trong lành. Đến chiều 30 Tết, nhà nào cũng lập đàn cúng để mời gia tiên và các thần linh về ăn tết với con cháu. Bao giờ cũng vậy, tối 30 Tết, mọi người trong gia đình quây quần bên nồi bánh chưng để trò truyện về năm đã qua. Các thứ bánh được người Dao cúng trong ngày Tết, ngoài bánh chưng còn có các thứ bánh khác như bánh giầy, bánh gai, bánh bột nếp... Cũng giống như người Kinh, trên bàn thờ của mỗi gia đình người Dao có thêm cành đào; trong chén lúc nào cũng có rượu và nước; hương được đốt liên tục. Người Dao còn có quan niệm là kiêng không mở hòm trong ba ngày Tết nên phải lấy sẵn quần áo và đồ dùng trước giao thừa. Trong ba ngày Tết cũng không được san sẻ hay cho ai bất cứ thứ gì. Đêm giao thừa, người Dao có tục thay nước đầu năm mới trên bàn thờ. Từ đêm giao thừa đến mùng một, họ kiêng không ăn rau, chỉ ăn cơm, các loại bánh và thịt động vật. Sau khi cúng giao thừa xong, mọi người trong gia đình quây quần vui vẻ, ăn uống, ca hát và chúc tụng nhau những lời chúc tốt lành cho năm mới. Sáng mùng một, sau khi xong xuôi mọi thủ tục ở gia đình, mỗi nhà một người nam giới, mặc trang phục truyền thống, làm thành một đoàn đi chúc Tết tất cả các nhà. Tết cũng là dịp trai, gái trong bản rủ nhau đi chơi hội ngày xuân.

+ Tết cùng năm: Đây là tết của gia đình, dòng họ. Dòng họ nào cũng tổ chức tết này vào tháng 12 âm lịch, nhưng tập trung nhất vào các ngày 15 đến 25 thàng Chạp. Các gia đình luân phiên nhau tổ chức tết, luân phiên mời nhau. Mục đích của Tết này trước là để lập đàn cúng tạ ơn gia tiên, các thần linh đã phù hộ cho gia chủ, dòng tộc một năm may mắn thành công; sau là ngày sum họp của anh em ruột thịt, họ tộc, bạn bè thân thiết để trò chuyện, thông báo cho nhau về một năm qua. Lễ vật chuẩn bị cho Tết năm cùng khá đầy đủ với thịt lợn, gà, bánh giầy. Bánh dày là một trong những lễ vật không thể thiếu được trong Tết năm cùng.

+ Tết cơm mới: Đây là một trong những lễ cúng quan trọng của mỗi gia đình Dao được tổ chức tại nhà. Cúng cơm mới là để tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tốt tươi, lúa ngô có thể thu hoạch được. Khi lúa sắp được thu hoạch, người ta chọn ngày tốt, gặt lấy ít thóc đầu mùa đem phơi khô, lấy gạo nấu cơm cúng. Nếu lúa chưa chín, họ lấy gạo cũ về thổi cơm, ngắt lấy vài bông bỏ vào nồi cơm để có hương vị cơm mới và coi đó là cơm mới. Đàn cúng gồm có năm bát cơm, năm chén rượu, một chén nước, một con gà luộc, một ít tiền ma, một bát hương. Chủ nhà đứng trang nghiêm trước bà thờ, kể công ơn cử tổ tiên và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ mãi mãi về sau để công việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Sau lễ này, đồng bào chuẩn bị những dụng cụ cần thiết để thu hoạch lúa mới.

- Các tập quán xã hội và tín ngưỡng: Các tập quán theo chu kỳ đời người.

+ Sinh đẻ: Người Dao đẻ ngồi và đẻ ngay trong buồng ngủ, không được đẻ ở nơi khác; do mẹ chồng, mẹ đẻ hoặc chồng đỡ cho. Khi đứa trẻ lọt lòng mẹ, người ta chờ khi nào nó khóc mới bế lên, tắm rửa bằng nước nóng. Người ta cắt rốn bằng dao nứa. Ngay từ khi đẻ xong, sản phụ được ăn các thức ăn nấu với gừng và rượu. Trẻ sinh được ba ngày thì gia đình lập giàn cúng mụ gọi là làm lễ "nam khan". Sau khi sinh khoảng từ ba đến bảy ngày, họ chọn ngày tốt để làm lễ đặt tên cho đứa trẻ. Tên của bé cũng được chọn rất kỹ, không được trùng với tên của gia tiên, ông bà, chú bác, anh em nội ngoại gần xa. Người Dao đỏ thường đặt tên con đầu là Cấu, San, Lộ... Con trai út lại thường đặt tên là Lai, Lĩu...

+ Cưới hỏi: Lễ cưới của người Dao đỏ có nhiều nét độc đáo. Trước ngày cưới khoảng một năm, bên nhà trai phải trao các khoản thách cưới (tính bằng tiền) để cô dâu chuẩn bị cho ngày cưới. Suốt thời gian một năm ấy, cô gái phải dành thời gian để thêu thùa, sắm sửa trang phục, chuẩn bị của hồi môn. Đến ngày cưới, nhà trai cử người đến đón dâu; tùy theo giờ tốt, người ta đưa cô dâu vào nhà chồng theo các hướng như đã quy định. Khi ăn cỗ, họ nhà trai ngồi riêng, nhà gái ngồi riêng. Người Dao đỏ còn có tục là bất kỳ ai trong họ nhà trai cũng như nhà gái đến dự đám cưới đều có phần thịt, bánh mang về.

+ Tang ma: Ngay sau khi người chết tắt thở, người ta bắn ba phát súng, nếu là người trưởng tộc hoặc được cấp sắc bảy đèn trở lên thì chọc thủng nóc nhà bắn chỉ thiên báo cho Ngọc Hoàng và báo cho dân làng biết. Đám ma cử người Dao đỏ cũng tiến hành tất cả các thủ tục như các nhóm Dao khác. Mồ mả của người chết được chôn vĩnh viễn. Đồng bào quan niệm đám ma chỉ là bước đem người chết đi cất giấu để không cho ma xấu bắt hồn và làm nhục thể xác.

+ Làm nhà mới: Việc làm nhà mới với người Dao đỏ là rất quan trọng, trong đó, việc chọn địa điểm làm nhà là quan trọng hơn cả. Đồng bào thường làm ở nơi khuất gió, cao ráo, gần khe suối, gần ruộng nương, thuận tiện cho việc lấy củi, hái rau. Nghi lễ chọn đất cũng rất được coi trọng, họ quan niệm nếu gặp được điềm lành khi chọn đất làm nhà thì sẽ gặp nhiều may mắn, làm ăn gặp nhiều thuận lợi. Sau khi dựng nhà xong, theo giờ tốt đã chọn, người Dao đỏ sẽ làm lễ vào nhà mới như sau: một cụ già cầm đuốc đi trước, theo sau là chủ nhà và những người trong gia đình đem theo bàn thờ tổ tiên và một số đồ vật tượng trưng. Sau đó, họ làm cơm để kính báo và mời tổ tiên về nhà mới cùng con cháu.

- Một số tín ngưỡng thờ cúng dân gian

+ Thờ cúng tổ tiên: Cũng như người Kinh, thờ cúng tổ tiên là một việc rất quan trọng trong gia đình đồng bào Dao, nhằm giáo dục, nhắc nhở con cháu luôn hướng về tổ tiên, cội nguồn, giữ gìn truyền thống gia tộc, dòng họ. Theo quan niệm của người Dao, tổ tiên là loại ma lành phù hộ con cháu; tuy nhiên, nếu không thờ cúng cẩn thận, tổ tiên cũng có thể bắt tội, làm con cháu ốm đau, bệnh tật. Người Dao thường thờ tổ tiên chín đời. Điều này thể hiện rõ trong các nghi lễ lớn như cấp sắc, tảo mộ hoặc trong các dịp tết của gia đình.

Việc lập bàn thờ tổ phải tuân thủ theo quy định rất nghiêm ngặt. Bởi vậy, nó thể hiện bề dày truyền thống gia đình và cũng là niềm tự hào của truyền thống gia đình. Bàn thờ tổ luôn được đặt ở gian giữa, nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đằng trước hay bên cạnh bàn thờ, người ta treo một cái trống bằng dây thừng hay da thú; dây này buộc lên thượng lương của nhà. Ngay trên vách cạnh bàn thờ, người ta treo hai ống nứa hoặc hai túi vải đựng hai bộ tranh "Tam thanh lớn" và "Tam thanh nhỏ". Vì bàn thờ tổ là nơi tôn nghiêm nên phụ nữ, nhất là các cô dâu ít được gần nhà thờ, đặc biệt là không bao giờ họ được thắp hương hoặc bê lễ vật lên bàn thờ cúng. Ngay từ việc quét nhà, người ta cũng luôn chú ý quay mặt về phía bàn thờ mà quét quay lui trở ra, còn nếu quay lưng về phía bàn thờ sẽ bị coi như là một thái độ thiếu tôn kính đối với tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên thường là do chủ gia đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Nếu nhà không có đàn ông thì đến ngày lễ tết, cúng lễ cũng phải nhờ đàn ông khác trong họ đến cúng.

+ Thờ cúng Bàn Vương "Chẩu đàng": Thờ cúng Bàn Vương là một tục lệ khá điển hình trong sinh hoạt của người Dao. Bàn Vương được tộc Dao coi là thủy tổ của dòng họ nên việc thờ cúng Bàn Vương được người Dao coi như một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả dân tộc. Thường ngày, Bàn Vương được thờ cúng chung với tổ tiên của từng gia đình, từng họ. Trong các nghi lễ lớn như lễ cấp sắc, Tết nhảy..., người ta đều phải cúng Bàn Vương. Ngoài việc cúng Bàn Vương hàng ngày còn có những lễ cúng Bàn Vương riêng với các nghi lễ chính sau: lễ khuất, lễ cúng Bàn Vương, lễ tiễn đưa. Việc thờ cúng Bàn Vương không phải chỉ thể hiện sự chung thủy "Uống nước nhớ nguồn", nhớ công ơn của tổ tiên mà còn là yếu tố văn hóa quan trọng được lưu truyền qua nhiều thế hệ của người Dao.

- Văn học dân gian: Dân tộc Dao vốn có lịch sử và một nền văn hóa lâu đời, với những tri thức dân gian rất phong phú, phản ánh cuộc đấu tranh dũng cảm và bền bỉ của người Dao. Trong các sáng tác dân gian của dân tộc Dao, văn học dân gian (truyện cổ, thơ ca, câu đố, hát, múa, tục ngữ, vẽ...) chiếm phần lớn. Dân tộc Dao không có văn tự riêng nhưng họ sử dụng chữ Hán đã Dao hóa. Cùng với các tác phẩm truyền miệng còn có các tác phẩm khuyết danh bằng chữ Nôm - Dao. Các sáng tác bằng truyền miệng được diễn đạt bằng ngôn ngữ bình dân nên phong phú và khá phổ biến. Nội dung của văn học dân gian chủ yếu đề cập đến nguồn gốc của dân tộc Dao, ca ngợi thiên nhiên, tình yêu trai gái, đề cao lao động, kinh nghiệm cuộc sống.

- Tri thức dân gian:

+ Cách tính thời gian dân gian: Đối với người Dao, việc tính toán thời gian rất quan trọng và phải tiến hành thường xuyên để biết thời vụ sản xuất; biết ngày tốt, ngày xấu, ngày cho phép khởi điểm các công việc có tính chất đặt nền móng; biết được những ngày kiêng kỵ không đi làm nương. Song đồng bào không có hệ thống lịch riêng mà chỉ dựa hoàn toàn theo cách tính lịch của Trung Quốc. Cách tính tháng hoặc năm, người ta dựa vào chu kỳ mặt trăng như cách tính thời gian theo lịch âm của người Việt, cũng theo lục giáp (mười can, mười hai chi) và gọi tên theo tên mười hai con vật.

+ Cách phán đoán thời tiết, khí hậu: Đồng bào Dao có một số kinh nghiệm phán đoán thời tiết, khí hậu để sản xuất cho kịp thời vụ. Những kinh nghiệm đó đã được đúc kết, tích lũy từ lâu đời trên cơ sở nhận xét sự thay đổi của các hiện tượng tự nhiên như: khi thấy "xâu kỉa piáo" (kiến dọn tổ) thì báo hiệu trời sắp mưa, nếu kiến ở bờ suối dọn tổ thì sắp có nước lũ. Hoa "xấu dòng phăng" (rau muống rừng) nở đỏ rực, báo hiệu không lo rét trở lại, cấy lúa sớm...

+ Y học dân gian: Dân tộc Dao đã tích lũy được nhiều vốn y học cổ truyền quý giá. Các vị thuốc chủ yếu hái lượm ở rừng, ít khi trồng sẵn. Có loại lấy rễ, có loại lấy lá hoặc vỏ, cũng có loại lấy quả hoặc hoa... Có vị thuốc sắc uống để chữa bệnh đường ruột, đau xương...; có vị giã nhỏ để rịt hoặc bó như chữa gẫy xương, vết thương nhỏ...; có vị đem đun lấy nước tắm gội, rửa như các bệnh ngứa, lở loét, phù thũng... Nhìn chung, có thể chia làm ba loại thuốc chính: thuốc bổ, thuốc trị bệnh và thuốc độc giết hại thú rừng.

IV. Tục Nhảy Lửa của người Dao đỏ, xã Mỏ Vàng huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái

+ Nguồn gốc của tục Nhảy lửa:

Tục nhảy lửa của người Dao đỏ (gọi theo tiếng Dao là Tích tâẩu) ra đời từ khi tộc Dao xuất hiện. Truyện kể lại rằng, khi người Dao sống trong rừng thì loài hổ (beo) thường đến phá phách làng bản và ăn thịt dân làng. Cứ mỗi khi loài vật này xuất hiện lại đem đến chết chóc, đen đủi cho đồng bào. Người Dao đỏ đã tìm mọi cách để tiêu diệt loài vật phá hoại đó nhưng không thành công. Cuối cùng, những người đàn ông trong làng đã họp nhau lại, chọn một ngày đầu năm trong lịch can chi là ngày Dần; cùng nhau tập trung đốt lửa và nhảy múa qua đống lửa, bốc than tung lên người để nhằm xua đi những điều đen đủi, không may mắn và cầu tài, cầu lộc, cầu may mắn cho gia đình, buôn làng trong năm mới. Một trong những quy định trong ngày Dần này là không một ai trong làng được nhắc đến từ "beo", vì họ cho rằng như vậy sẽ đem lại sự không may mắn cho gia đình. Từ đó, tục lệ Nhảy lửa đã ra đời, lưu truyền và trở thành tục lệ truyền thống, không thể thiếu trong đầu năm mới của đồng bào Dao đỏ.

+ Giá trị của tục Nhảy lửa:

Có thể nói, tục Nhảy lửa là một món ăn tinh thần không thể thiếu của cộng đồng người Dao đỏ nói chung cũng như người Dao đỏ Yên Bái nói riêng. Với vai trò và ý nghĩa như vậy, tục Nhảy lửa mang những giá trị bền vững không thể phủ nhận. Đây là nét sinh hoạt văn hóa tinh thần hết sức phong phú và độc đáo của đồng bào. Tục Nhảy lửa của người Dao đỏ gắn liền với yếu tố tâm linh, cầu phúc, cầu may mắn đầu năm mới, xua đi những điều không may mắn, đón nhận sự ấm áp, an lành trong suốt cả năm. Cùng với đó, tục Nhảy lửa con mang ý nghĩa giáo dục lòng can đảm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách của con người, chứa đựng niềm tin sâu sắc, hướng cộng đồng tới cái thiện và việc làm tốt.

Đến nay ở xã Mỏ Vàng, tục Nhảy lửa của người Dao đỏ vẫn tồn tại trong đời sống của đồng bào một cách phổ biến. Tuy nhiên, để tục Nhảy lửa của đồng bào ở đây được phát huy giá trị hơn nữa thì việc bảo tồn văn hóa phi vật thể độc đáo này là rất cần thiết trong điều kiện hội nhập và phát triển hiện nay.

+ Tiến trình của tục Nhảy lửa.

1. Thời gian và địa điểm:

* Thời gian: Tục Nhảy lửa diễn ra vào ngày Dần của tháng đầu tiên trong năm.

* Địa điểm: Tại nhà chủ miếu Đặng Nguyên Học (sinh năm 1962 - năm Nhâm Dần), thôn Giàn Dầu 1, xã Mỏ Vàng, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái.

2. Công tác chuẩn bị.

* Bàn thờ: Bàn thờ của tục Nhảy lửa gồm có bàn thờ chính và bàn thờ phụ. Bàn thờ chính: Đây chính là bàn thờ tổ tiên của nhà ông Đặng Nguyên Học. Bàn thờ này kết hợp là bàn thờ miếu trong ngày Nhảy lửa, gồm có ba tầng:

+ Tầng trên cùng kín bốn mặt, mặt cửa cúng chỉ hở một hình bán nguyệt là nơi thờ cúng. Ở đây có một bát hương được đốt bằng vỏ cây thơm, một chén rót nước, để cạnh bát hương là năm chén đựng rượu được xếp hàng ngay cửa bàn thờ. Ngoài ra còn dán mấy bức tranh Bàn cổ cỡ nhỏ và một số dụng cụ quan trọng của việc thờ cúng như kèn, chuông…

+ Tầng thứ 2: Kín ba mặt, tầng này dùng để các đồ dùng phục vụ cho cúng lễ gồm vỏ cây thơm, ấm chén, đồ làm tiền ma, chũm chọe…

+ Tầng thứ 3: Tất cả các mặt đều để trống, được nối liền với chân.

- Bàn thờ phụ: Là một chiếc bàn dài, gồm có một bát hương làm bằng ống tre, năm bát gạo và năm chén rượu, tiền vàng làm bằng giấy bản.

- Những vật chuẩn bị trong tục Nhảy lửa: Nhà chủ miếu sẽ chuẩn bị đủ củi đốt, nhưng mỗi người đến tham gia nhảy đều mang một thanh củi với mục đích góp phần của mình để chuẩn bị cùng nhau vui chơi ngày xuân, nhảy lửa xua đuổi đen đủi, cầu may mắn cho cả năm.

- Thẻ âm dương: Được làm bằng một gióng vầu hoặc tre đã được chẻ làm đôi.

- Trống.

3. Tiến trình.

- Đi thắp hương miếu làng (síp mỉu miến): Sau khi chọn xong ngày Dần đầu tiên của năm thì chủ miếu thông báo với bà con trong bản cùng nhau chuẩn bị. Đúng 7h sáng, tất cả người Dao đỏ trong bản theo chủ miếu để vào miếu thắp hương. Miếu thờ vị thần có công khai thiên, lập địa ra bản người Dao đỏ, một người có công lớn đối với đồng bào Dao đỏ ở thôn Giàn Dầu 1.

Khi đi cúng thì tất cả dân làng phải đóng góp lễ vật mang ra miếu; mỗi người mang theo một con gà trống của gia đình nuôi với hàm ý, mỗi một gia đình đều mang lễ vật do chính nhà mình làm ra để đến tạ ơn thần miếu đã khai sinh ra bản và bảo vệ, phù hộ cho dân làng trong suốt một năm. Cùng với lễ vật là một con gà trống, họ còn mang một mảnh giấy bản dùng để cắt tiền âm và một chút tiền lẻ là tiền dương. Đoàn đi đến miếu do vị chủ miếu dẫn đầu, tay trái cầm con gà trống của gia đình mình, tay phải cầm gậy sừng trâu. Miếu được dựng trong một khu rừng cấm, cột bằng gỗ, mái lợp gianh, trong đó có đàn cúng bày ba bát hương. Bát hương ở giữa cúng thần hộ mệnh cho từng thành viên trong làng gọi là canh man, bát bên cạnh phía trái cúng thần hộ mệnh gia súc, gia cầm gọi là tạy man, còn bát hương bên phải cúng ma trời phù hộ thần lúa gạo và hoa màu gọi là cong man. Khi đến nơi, chủ miếu bắt đầu cúng thỉnh thần linh và vị thần miếu về chứng giám cho lòng thành của dân làng. Trên tay chủ miếu cầm thanh âm dương, rồi ông vừa khấn, vừa xin quẻ; nếu một thanh úp, một thanh ngửa là được, còn nếu cả hai cùng úp hoặc cùng ngửa thì phải xin lại đến khi nào được mới thôi. Tiếp sau đó, mọi người cùng nhảy múa. Họ nhảy lò cò theo vòng tròn, tay đưa con gà vòng lên trên đầu, xuống dưới rồi sau đó đưa sang hai bên. Cuối cùng, tất cả cùng cắt tiết gà vào bát rượu đã để sẵn, rồi dâng lên chủ miếu và uống một ngụm để mong thần miếu chứng giám lòng thành và phù hộ sức khỏe cho mọi người trong làng, phù hộ cho công việc chăn nuôi và làm ăn, sinh sống gặp nhiều may mắn trong năm mới. Sau đó, chủ miếu khấn thỉnh, mời thần linh ở miếu về gia đình mình để dự lễ Nhảy lửa, xua đuổi mọi đen đủi, cầu may mắn cho dân làng.

- Nghi lễ  Nhảy lửa: Sau khi mọi người làm đầy đủ các thủ tục ở miếu thì chủ miếu dẫn đầu đoàn đi thẳng về nhà mình để thực hiện lễ Nhảy lửa, một phong tục có từ lâu đời của đồng bào Dao. Vị chủ miếu phải là người có tuổi và có uy tín trong làng, được dân làng bầu lên. Nếu khi vị chủ miếu già cả hay ốm đau, bệnh tật thì dân làng lại bầu người khác làm chủ miếu để phụ trách việc cúng tế và thực hiện lễ Nhảy lửa vào ngày Dần tháng đầu tiên của năm mới. Lễ vật được bày ra trên chiếc bàn dài, gồm có bát hương, tiền vàng làm bằng giấy bản, gạo, rượu và một túi vải màu trắng buộc nơ đỏ, bên trong có hai hào bạc trắng và một nắm gạo. Đây là một lễ vật quan trọng không thể thiếu trong nghi lễ này, vì theo quan niệm của người Dao đỏ, không có lễ vật này thì sẽ không xin phép được thần cho tổ chức và mời về dự lễ Nhảy lửa.

Vào đúng 15h chiều, đây là giờ được ông chủ miếu coi là giờ tốt để cử hành lễ. Ông Đặng Nguyên Học là chủ miếu, đồng thời cũng được coi là thầy mo của buổi lễ, thay mặt dân làng làm lễ xin phép tổ tiên, xin phép thần lửa, thần nước phù hộ cho mọi người; nhờ thần linh bảo vệ cho những người nhảy lửa không bị ngọn lửa thiêu cháy. Đồng thời, thầy mo cũng mời các thần linh về dự vui cùng dân làng. Sau một hồi làm lễ, chủ miếu gieo quẻ xin âm dương nếu mặt úp mặt ngửa tức là thần linh chưa đồng ý phải kiên trì gieo cho đến khi cả hai mặt cùng úp hoặc cùng ngửa mới thôi. Cùng lúc đó, tất cả những người tham gia buổi lễ lấy củi chất thành đống lớn ở giữa nhà chủ miếu. Tiếp sau đó, chủ miếu xuống gian bếp chính châm lửa từ bếp của nhà mình. Bếp lửa của nhà chủ miếu đã được vợ của chủ miếu đốt từ trước bằng củi thơm. Củi được đốt trong nhà chủ yếu là củi quế và những loại củi thơm trong rừng.

Những người tham gia nhảy lửa phải là đàn ông từ mười hai tuổi trở lên, thân thể phải sạch sẽ, không có một tí mỡ hay những gì ô uế dính vào người và phải đi chân đất. Những người phụ nữ Dao đỏ không được phép tham gia vào tục này. Khi đống lửa cháy to và bắt đầu có than thì vị chủ miếu sẽ khấn để nhập đồng và người này sẽ là người đầu tiên nhảy vào đống than; lúc đầu nhảy một chân vòng quanh đống than lửa chín vòng, mỗi vòng ứng với bốn kiểu. Theo quan niệm của người Dao đỏ, ba mươi sáu kiểu tương ứng với ba mươi sáu binh mã bảo về thần linh; sau đó, dùng hai tay bốc than ở đống lửa đang cháy phủ lên người. Song song với làm lễ, một nhóm thanh niên trong bản chọn những cây củi to, chắc chụm lại một đống để đốt lấy than phục vụ cho việc nhảy. Sau khi chủ miếu nhảy lửa xong, tất cả những người đàn ông trong bản tham gia lễ lần lượt ngồi vào chiếc ghế dài chuẩn bị hầu lễ. Ông chủ miếu khấn liên hồi, tay trái vãi gạo vào các chàng trai đang ngồi hầu lễ, tay phải gõ hai quẻ vào nhau, tạo nên âm thanh càng lúc càng gấp gáp, thôi thúc các chàng trai. Khi các thầy, bậc trên về ủng hộ nhập đồng vào những người tham gia nhảy lửa thì người họ lắc lư càng lúc càng mạnh; họ thấy trong người càng ngày càng lạnh run lên và những hơi ấm của đống lửa thôi thúc họ bật lên. Thời điểm này báo hiệu họ sắp có sức mạnh và sự dũng cảm để nhảy vào than hồng đang ở độ rực nhất, nóng nhất. Họ bắt đầu bật lên, cúi người nhảy lò cò quanh đống lửa khoảng hai vòng và hô to để làm thủ tục. Tiếp đó, từng người một, đi chân trần nhảy vào đống than hồng đang cháy rực; khi nhảy xong phải lộn một vòng và bốc than phủ lên người. Làm xong những động tác đó thì người ấy quay về chỗ làm lễ. Mỗi lần chỉ được nhảy một người, khi người này nhảy lửa xong thì mới đến người tiếp theo, chứ không nhảy lẫn lộn. Người nọ nối tiếp người kia đến khi than hồng tắt lịm dưới những đôi chân trần mới thôi. Có một điều kỳ lạ là, tất cả mọi người tham gia nhảy lửa đều không bị bỏng chân tay, cháy quần áo và mắt ai cũng lờ đờ.

Cuối buổi lễ Nhảy lửa, ông chủ miếu lại làm lễ tạ ơn các vị thần linh đã về dự chung vui cùng dân làng và hóa vàng để đưa các vị thần linh trở về thiên đường. Đến khi than tắt lịm thì tất cả mọi người ra về. Những người tham gia vào nhảy lửa đều tin tưởng là đã xua đuổi được mọi đen đủi, không may mắn của năm cũ; cầu được may mắn tài lộc, cuộc sống bình yên, hạnh phúc, mưa thuận, gió hòa, mùa màng bội thu ở năm mới cho gia đình và cả buôn làng; cầu mong thần lửa phù hộ, che chở cho dân làng.

Đối với cộng đồng Dao đỏ nơi đây, từ đời này qua đời khác, tục Nhảy lửa đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống tín ngưỡng của đồng bào. Tục lệ này tuy còn mang màu sắc tâm linh, huyền bí nhưng nó là một minh chứng cho sức mạnh, cho quá trình lao động, cho ý thức chế ngự thiên nhiên để sinh tồn và phát triển của con người. Đây không chỉ là ngày vui của bản làng, không chỉ mang ý nghĩa gắn kết cộng đồng mà còn bảo lưu được rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống qua nhiều thế hệ. Đây là một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của cộng đồng người Dao rất cần được nghiên cứu và bảo tồn.

(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)

5315 lượt xem
Ban Biên tập

15oC

Thấp nhất 13°C, cao nhất 17°C. Trời nhiều mây, . Áp suất không khí hPa.
Độ ẩm trung bình %. Tốc độ gió km/h