Ngày 09/08/2024, Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 2318/QĐ-BVHTTDL công nhận lễ hội “Gầu Tào” của người Mông các huyện: Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, tỉnh Yên Bái là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lễ hội và Bằng chứng nhận công bố di sản văn hóa phi vật thể quốc gia “Lễ hội Gầu tào” của người Mông tỉnh Yên Bái
I. Tên gọi của Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
1. Tên thường gọi: Lễ hội “Gầu tào” của người Mông
2. Tên gọi tiếng Mông: Tsang hâur tox, nghĩa là: chơi ngoài trời, chơi núi, chơi đồi ngày đầu xuân.
II. Loại hình
Lễ hội “Gầu tào” của người Mông được xếp vào loại hình “Lễ hội truyền thống”.
III. Quyết định công bố Di sản văn hóa phi vật thể
Quyết định số 2318/QĐ-BVHTTDL ngày 09/08/2024 của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch công nhận lễ hội “Gầu Tào” của người Mông thuộc các huyện: Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, tỉnh Yên Bái là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
IV. Địa điểm phân bố Di sản
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia lễ hội “Gầu Tào” của người Mông huyện Trạm Tấu, huyện Mù Cang Chải, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái được phân bố trên cơ sở địa bàn cư trú của người Mông tại các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải và Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
V. Chủ thể văn hóa
Cộng đồng người Mông ở các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
VI. Miêu tả về di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
1. Quá trình ra đời và tồn tại của di sản
Người Mông ở tỉnh Yên Bái có nền văn hoá dân gian phong phú, phản ánh nhận thức về cuộc sống thực tại, gắn với thiên nhiên, những khao khát vươn tới cái đẹp, cái thiện, cái tốt. Vào ngày vui hay trong các lễ nghi truyền thống, họ đều hát dân ca, thổi sáo, múa khèn. Đồng bào còn lưu giữ được một kho tàng truyện cổ về lịch sử, tinh thần thượng võ của cha ông được truyền từ đời này qua đời khác. Trong đời sống, đồng bào còn lưu giữ được nhiều phong tục mang giá trị nhân văn như tục hỏi, cưới, tang ma, lên nhà mới, các nghi lễ cúng họ, ăn thề, giải hạn, cầu may,… đặc biệt "Gầu tào" là một lễ hội truyền thống điển hình, quan trọng trong hệ thống di sản văn hóa của tộc người Mông, được duy trì thường xuyên trong những năm gần đây, mang những giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu, đang được cộng đồng lưu giữ và tiếp tục phát huy.
Tín ngưỡng truyền thống của người Mông là thờ đa thần. Họ thờ cúng tổ tiên là thờ cúng ông, bà, cha mẹ. Đối với đồng bào việc thờ cúng tổ tiên là nghi lễ tín ngưỡng có tính cộng đồng mạnh mẽ. Họ luôn hướng về tổ tiên và coi đó là một biểu hiện quan trọng để bảo tồn giữ gìn văn hoá cội nguồn. Ngày tết được đồng bào Mông chuẩn bị rất chu đáo, họ mổ lợn, thờ cúng theo nhiều lễ nghi truyền thống, tham gia lễ hội “Gầu tào” những ngày đầu xuân với các trò chơi dân gian đặc trưng như: đưa ngựa, bắn nỏ, đánh quay, đẩy gậy, ném pao, thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi xuân, thổi sáo, kèn lá, hát ống, múa khèn, hát giao duyên,…
Theo truyền thuyết dân gian của người Mông kể lại thì trước đây, những cặp vợ chồng nào lấy nhau nhiều năm chưa sinh được con cái, mà muốn sinh được người con như ý muốn, thì người chồng sẽ lên một quả đồi nào đó cầu xin thần đồi, thần núi phù hộ gia đình sinh được người con như ý và hứa sẽ tạ ơn. Khi đã có được người con như mong muốn thì gia đình đó sẽ tổ chức lễ để tạ ơn thần núi, thần đồi như đã hứa và mổ trâu để khao dân bản ngay tại bãi đất bằng của quả đồi, quả núi mà gia đình đó đã cầu con. Sau khi mọi người cùng nhau ăn uống sẽ chơi các trò chơi, hát các bài hát dân ca, múa khèn, múa ô, múa gậy,… vui vẻ để mừng cho gia chủ. Quả đồi diễn ra nghi lễ tạ ơn và các trò chơi của cộng đồng này gọi là “Hấu tào”, lễ hội đó gọi là “Gầu tào”. Lễ hội “Gầu tào” bắt đầu từ đó.
Xét về quá trình lịch sử, việc ra đời của lễ hội “Gầu tào” có thể xuất phát từ nhu cầu về sự phát triển, sinh sôi nảy nở, không chỉ về con cái để duy trì nòi giống mà cả về thành quả lao động để duy trì cuộc sống của chính con người trong điều kiện cư trú, điều kiện sống còn nhiều khó khăn về vật chất, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, con người không đủ sức chống chọi lại được với thiên nhiên, đặc biệt là thiên nhiên vùng cao, địa bàn cư trú chính của đồng bào Mông, người ta tìm đến những vị thần linh với tư cách là những bậc siêu nhiên có thể giúp con người giải tỏa được sự bế tắc trong tâm tưởng, mang đến niềm tin, sức mạnh tinh thần cho con người. Từ môi trường sống, cảnh quan cư trú, lịch sử đấu tranh và bảo vệ địa bàn cư trú của cộng đồng đã hình thành những giá trị văn hóa đặc trưng của tín ngưỡng “đa thần nguyên thủy”, tín ngưỡng đó được đưa vào nghi lễ và được cộng đồng chấp nhận, tự nguyện lưu giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ, dần hình thành, hoàn thiện và tạo nên bản sắc của cộng đồng. Chính điều này đã quy định sự ra đời và tồn tại của di sản. Hoạt động này được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần được nâng lên trong cả ý thức và hành động của mỗi chủ thể thực hành di sản, được mở rộng để đáp ứng nhu cầu của chính cộng đồng, hình thành nên di sản quan trọng của cộng đồng. Di sản văn hóa ấy được truyền từ đời này qua đời khác, duy trì và phát triển, trở thành một trong những giá trị tiêu biểu, mang tính đặc trưng của tộc người, được các cộng đồng khác ghi nhận.
Vì lúc đầu, di sản chỉ đơn thuần là gắn liền với việc “cầu con” của một gia đình và cầu được thì gia đình đó sẽ đứng ra tổ chức lễ hội mời bà con dân bản chung vui. Bởi vậy, không có định kỳ, không có thời gian cố định nhưng mỗi lần có là tổ chức 3 năm liền, mỗi năm mở hội 3 ngày liền.
Sau này, có lẽ do sự phát triển của cộng đồng dân cư, cũng một phần do việc tổ chức lễ hội khá tốn kém nên thay vì một gia đình thì đã có sự hỗ trợ từ các gia đình khác trong dòng họ về vật chất và sự giúp đỡ của cộng đồng bản để cùng tổ chức.
Trong đời sống xã hội của tộc người Mông, khi tổng kết một năm qua đi, ngoài để lại cho dân bản, gia đình và mỗi người nhiều điều may mắn thì cũng có nhiều gia đình gặp không ít những trắc trở, khó khăn trong việc làm ăn, sức khỏe, sinh con đẻ cái như mất mùa, hoạn nạn, ốm đau liên miên, chăn nuôi không phát triển được, hiếm con, khó con,… Theo quan niệm của đồng bào, tất cả những may mắn hay trắc trở, khó khăn này là do thần linh trong vùng như thần đất, thần trời, thần núi, thần suối,… đem đến. Vậy nên, nếu gia đình nào có mong muốn gì, họ thường lên đỉnh đồi, đỉnh núi trong vùng cầu khấn thần linh, mong được toại nguyện. Khi đã có được may mắn, sức khỏe, con cái,… thì vào dịp tết đến xuân về, gia đình đó tìm người có uy tín, kinh nghiệm trong cộng đồng làm chủ lễ, chủ lễ sẽ cùng gia đình chọn một người làm chủ cúng, một đội làm nhiệm vụ bảo vệ lễ hội, một đội phục vụ nấu ăn phục vụ dân bản xa gần về tham dự lễ hội. Gia chủ cùng với sự giúp sức của anh em, dòng họ và các già làng, trưởng bản sẽ đứng ra tổ chức lễ hội “Gầu tào” để tạ ơn thần núi, thần đất, thần trời, thần suối đã che chở, giúp cho họ có được điều tốt lành, đồng thời cũng cầu mong các vị thần linh nói trên phù hộ cho dân bản, cộng đồng, các gia đình, dòng họ một năm mới nhiều may mắn, điều dữ mang đi, điều lành mang đến, làm ăn được mùa, chăn nuôi phát triển, mọi người đều có sức khỏe, gia đình đoàn tụ, bản làng bình yên và mở hội để dân bản cùng được vui chơi, chúc mừng gia chủ đã “cầu được ước thấy”. Người ta thường tổ chức 3 lần vào 3 năm liên tục, mỗi năm tổ chức 3 ngày, năm thứ nhất cúng gà, năm thứ hai cúng lợn, năm thứ ba cúng trâu. Có những gia đình chỉ tổ chức một lần vào một năm thì người ta cúng cả gà, lợn, trâu và mở hội 9 ngày liên tục để khao dân bản và mọi người cùng đến ăn uống, chơi hội vui vẻ để mừng cho gia chủ. Đến lúc này, ngoài việc cầu con, người Mông còn cầu sức khỏe, may mắn; cầu cho mùa màng bội thu, dân bản có cuộc sống ấm no, thịnh vượng.
Lễ hội “Gầu Tào” có truyền thống lâu đời, gắn liền với cộng đồng người Mông cư trú trên địa bàn các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải và một số xã vùng cao của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái với không gian trọng điểm thuộc địa bàn huyện Trạm Tấu, lễ hội xoay quanh tín ngưỡng thờ thần của tộc người Mông. “Thời điểm thiêng” để tổ chức lễ hội là những ngày đầu tiên của một năm mới. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển hơn, mang lại những ảnh hưởng tích cực đến đời sống của con người, con người ít phụ thuộc vào tự nhiên hơn, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, được sự quan tâm của chính quyền địa phương và sự đồng thuận của cộng đồng thì lễ hội “Gầu tào” đã được mở rộng hơn về quy mô, trở thành lễ hội của cộng đồng và được thực hành thường niên vào mỗi dịp đầu năm mới. Lễ hội đã mở rộng từ quy mô gia đình, dòng họ lên cấp xã (từ năm 2005), cấp huyện (từ năm 2020), thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, để tạ ơn các vị thần linh trong vùng và cầu mong cho một năm mới nhiều điều may mắn, bình an, sức khỏe, hạn chế mọi rủi ro đến với mọi người, mọi nhà và toàn thể cộng đồng, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, gia súc đầy chuồng, thóc lúa đầy bồ, nhà nhà no đủ.
Lễ hội “Gầu tào” hiện nay được phục dựng lại trên cơ sở những giá trị sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đã có từ lâu đời trong cộng đồng. Năm 2005, lần đầu tiên, lễ hội được phục dựng lại và tổ chức ở xã Trạm Tấu, huyện Trạm Tấu; xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải; xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn. Ngoài ý nghĩa ban đầu là cầu phúc, cầu mệnh ở phạm vi gia đình, lễ hội đã có sự biến đổi, nâng tầm thành lễ hội của cộng đồng cầu cho mùa màng bội thu, người người khỏe mạnh, nhà nhà có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thời gian tổ chức cũng có sự điều chỉnh, từ việc không có thời gian cố định, lễ hội đã được tổ chức từ 1 đến 3 ngày và được tổ chức hằng năm để bà con trong vùng có điều kiện tham gia chơi hội, vui hội trong những ngày đầu năm mới.
Qua truyền thuyết dân gian, tư liệu lịch sử cho thấy lễ hội “Gầu tào” của người Mông là một thành tố quan trọng của đời sống văn hóa tộc người, ra đời và hoàn thiện cùng với quá trình hình thành bản sắc văn hóa trong lịch sử tộc người. Nó thể hiện ở cả hai phương diện nội dung và hình thức. Người Mông đã sáng tạo ra di sản mang đậm sắc thái tộc người, thể hiện những triết lý sống cao đẹp của cộng đồng, cách ứng xử của cộng đồng với thiên nhiên, con người với con người, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp và nhu cầu về đời sống tinh thần, hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Đây chính là di sản văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống lao động, sản xuất, chiến đấu của tộc người, từ tư duy tín ngưỡng, nghệ thuật của tộc người. Di sản được mạch nguồn của môi trường tự nhiên, môi trường lao động, môi trường xã hội, môi trường văn hóa tộc người ươm mầm và nuôi dưỡng. Di sản là không gian mô phỏng, chuyển tải, lưu giữ, phản ánh những gì là đặc sắc, là cô đọng nhất về thế giới quan, nhân sinh quan, thiên nhiên và cuộc sống của cộng đồng tộc người tiểu biểu cư trú ở vùng rẻo cao phía Bắc này.
2. Hình thức biểu hiện và quy trình thực hành
2.1. Hình thức biểu hiện: “Gầu tào” là lễ hội truyền thống của người Mông ở tỉnh Yên Bái, được tổ chức vào đầu xuân năm mới. Địa điểm tổ chức lễ hội là một quả đồi thấp, đỉnh bằng phẳng tạo nên một bãi rộng, quay theo hướng Đông để cây nêu khi dựng lên đón được ánh nắng mặt trời. Đây là lễ hội quan trọng, lớn nhất trong năm và có quy mô cộng đồng duy nhất, gắn với đời sống tâm linh, tinh thần của cộng đồng người Mông. Lễ hội mở ra nhằm hai mục đích là cầu phúc và cầu mệnh, đây là dịp để tạ ơn thần linh đã ban phúc, ban lộc cho mọi nhà, cầu cho bản làng được mùa màng bội thu, người yên vật thịnh. Bên cạnh đó, theo tập quán, lễ hội “Gầu tào” còn là dịp để các gia đình không có con, ít con cầu phúc, hay có người ốm đau cầu mệnh hoặc làm ăn không tốt… khấn xin thần linh ban cho con cái, cầu xin sức khỏe hay làm ăn thuận lợi. Khi lời cầu khấn trở thành hiện thực, họ sẽ làm lễ “Gầu tào” để tạ ơn.
Lễ hội “Gầu tào” là loại hình lễ hội truyền thống đã có từ lâu đời gắn với đời sống văn hóa tinh thần của người Mông ở vùng cao tỉnh Yên Bái, là văn hóa dân gian tổng hợp được biểu hiện dưới dạng truyền khẩu, thực hành trực tiếp để truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc từ đời trước sang đời sau.Những biểu hiện này bao gồm cử chỉ, ngôn ngữ, âm nhạc, nghệ thuật, tri thức đã được chuẩn bị từ trước và tự phát trong quá trình thực hành các nghi lễ tín ngưỡng, được chắt lọc qua quá trình ra đời, tồn tại, phát triển của lễ hội đã có từ hàng trăm năm để phù hợp với từng thời kỳ lịch sử của đất nước, của dân tộc và của địa phương.
Như vậy, hình thức biểu hiện của di sản này được thể hiện trên các sản phẩm vật chất đặc trưng, rất đa dạng, phong phú và các sản phẩm tinh thần hội tụ trong tâm thức của chủ thể văn hóa, kèm theo tính "mở" trong khuôn khổ truyền thống vốn có của di sản qua óc tư duy và sáng tạo nghệ thuật của mỗi người phản ánh thực tế cuộc sống lao động sản xuất, môi trường cư trú, cảnh quan thiên nhiên với hệ thống động, thực vật đa dạng kèm theo đó là ước vọng, khát khao của cộng đồng về một cuộc sống bình yên, no đủ.
2.2. Quy trình thực hành: Theo tập quán truyền thống của người Mông, lễ hội “Gầu tào” thường do gia đình hoặc do nhân dân trong bản, trong vùng cùng nhau tổ chức để cầu phúc, cầu mệnh cho gia chủ hoặc cho cộng đồng. Lễ hội được tiến hành vào mùa xuân trong ba năm liền, mỗi năm người ta trồng một cây nêu và treo những vật trên cây để lấy phúc, lấy lộc. Hiện nay, lễ hội đang được tổ chức ở quy mô cấp huyện, thu hút sự tham gia của đông đảo cộng đồng người Mông ở các xã, thị trấn và được tổ chức trong 2 ngày (sau tết Nguyên Đán). Trong lý lịch này, chúng tôi mô tả quy trình thực hành di sản theo lễ hội hiện nay, đồng thời có sự liên hệ, bổ sung những thông tin thu thập được về lễ hội trước kia để so sánh, luận giải và có cái nhìn toàn diện, xuyên suốt hơn về di sản.
3. Thời gian và địa điểm
Những năm gần đây, lễ hội “Gầu tào” được tổ chức ở quy mô cấp huyện, trở thành lễ hội của cộng đồng tộc người Mông vào dịp đầu xuân hằng năm (trong khoảng từ mùng 5 đến mùng 10 tháng giêng).
Lễ hội “Gầu tào” trước kia thường được tổ chức trong khoảng từ ngày mùng 1, mùng 2 đến mùng 5 tháng giêng, tùy thuộc vào tuổi của gia chủ hợp với ngày nào. Nếu lễ hội được tổ chức hàng năm thì lễ hội sẽ kéo dài 03 ngày và liên tục trong 3 năm. Nếu tổ chức một lần thì số ngày gộp lại kéo dài tới 9 ngày.
Địa điểm tổ chức lễ hội “Gầu tào” được gọi là “Hấu tào” (tức là đồi hội), là một quả đồi thấp, thuận tiện đi lại, đỉnh bằng phẳng tạo nên một bãi rộng và được bao quanh bởi những ngọn đồi cao hơn, phía trước có một không gian trũng, hẹp. Đồi “Gầu tào” thường quay theo hướng Đông để cây nêu khi dựng lên ngọn từ hướng Đông để đón được ánh nắng mặt trời. Người Mông quan niệm, quả đồi “Gầu tào” tượng trưng cho phúc mệnh của gia chủ, của cộng đồng. Không gian trũng phía trước tượng trưng cho sự đứt gãy, không may mắn; những ngọn đồi phía sau cao hơn tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi nảy nở, con cái hơn cha mẹ, tài lộc ngày càng nhiều.
4. Công tác chuẩn bị lễ hội
Lễ hội tổ chức vào những ngày đầu tháng giêng hằng năm, nhưng việc chuẩn bị được tiến hành từ cuối tháng Chạp, với việc tìm và chọn cây nêu.
Để tổ chức lễ hội “Gầu tào”, cộng đồng (gia chủ trước kia) phải mời chủ lễ (tiếng Mông gọi là “trứ tào") giúp chủ trì lễ hội và một người phụ nữ giúp việc (tiếng Mông gọi là “nẹ tào”). Đây đều là những người có gia cảnh yên ấm, cuộc sống hạnh phúc, con cháu đầy đủ, kinh tế khá giả. Ngoài ra, cộng đồng cũng chọn và mời thêm những gia đình vợ chồng trẻ, khỏe mạnh, có cuộc sống hạnh phúc, có cả con trai, con gái thông minh, giỏi giang hoặc các thanh niên nam, nữ để giúp việc chuẩn bị các lễ vật.
Từ trước tết, để chuẩn bị cho lễ hội “Gầu tào”, đại diện cộng đồng hoặc gia chủ (trang gầu) sẽ thông báo tới bà con dân bản gần, xa, mời những người thân quen, những vị khách quý tới dự lễ hội. Những vị khách được mời này đều đến dự và có quà tặng là những sản vật của gia đình như: gạo tẻ, gạo nếp, gà, rượu, thậm chí giã bánh dày mang đi làm quà biếu để thể hiện tình cảm của khách đối với gia chủ, dòng họ.
Bên cạnh những khách được mời trực tiếp, qua thông báo rộng rãi trong dân bản, khi đã biết có thông tin tổ chức lễ hội sẽ chủ động tới tham dự lễ và các hoạt động vui chơi dân gian trong lễ hội cùng chủ lễ và bà con dân bản.
* Nghi thức chặt cây nêu (trá dề xê)
Vào ngày đi chặt cây nêu (trước kia thường là ngày 30 tết cổ truyền hoặc những ngày cuối tháng chạp), gia chủ bày mâm lễ để chủ lễ và những người giúp việc tiến hành nghi thức cúng trước khi xuất hành. Ngày nay, ngay trước ngày diễn ra lễ hội chính thức, thầy cúng và những người giúp việc làm lễ xin đi chặt cây nêu tại ban thờ của gia đình thầy cúng.
Lễ vật gồm có: rượu, nước, giấy bản, hương. Thầy cúng đọc bài cúng “Thov daab qhuas” với ý xin tổ tiên, ma nhà phù hộ cho đoàn người vào rừng chặt được cây nêu tốt. Nội dung bài cúng như sau:
Sau đó, chủ lễ xòe ô, hát bài “sáy dìn sê” (đi tìm cây nêu) và dẫn đoàn người là con cháu của gia chủ hoặc những thanh niên khỏe mạnh đã được chọn giúp việc (thường gia chủ nhờ anh trai, chị dâu - những người có cả con trai và con gái, nếu gia chủ cầu phúc, cầu con; nếu gia chủ cầu mệnh, mong mọi người trong nhà được khỏe mạnh, xua đuổi hết bệnh tật, ốm đau, làm ăn tấn tới thì sẽ cử hai thanh niên khỏe mạnh trong dòng họ) vào rừng, đến chỗ cây gỗ đã được chọn trước, để chặt cây nêu. Cây được chọn phải là một cây gỗ cao từ 5 - 7m trở lên, sống độc lập một mình ở giữa rừng, không sâu bệnh, không cụt ngọn, ngọn cây hướng về phía mặt trời mọc, mang về trang trí để dựng thành cây nêu cho lễ hội. Theo quan niệm dân gian, đồng bào phải chọn những cây sống một mình vì đó là những cây thiêng, cây tốt có thể dâng cúng cho thần linh, tổ tiên và các ma đồng thời cũng là có thể giao hòa đất, trời, kết nối giữa con người với thần linh, qua đó, thần linh mới đón và nhận được những câu tạ ơn, những lời cầu khấn của gia chủ, cộng đồng.
Khi đi vào rừng chặt cây, chủ lễ mang theo một thẻ hương, một mảnh vải đỏ khoảng 1m (gọi là “phang tau la”), để cuốn vào gốc cây, được coi là biểu tượng, thay cho chiếc cờ, báo hiệu cho người dân biết đây là cây thiêng. Mảnh vải đỏ này cuốn vào thân cây với ý nghĩa lấy lộc cho cây.
Trước khi chặt cây, gia chủ (hoặc chủ lễ) đứng trước gốc cây, hướng về phía mặt trời mọc, thắp 9 nén hương (theo quan niệm của người Mông thì số chín tượng trưng cho chữ “sinh” trong chu kỳ vòng đời của mỗi con người) và khấn bài xin chặt cây nêu, Nội dung bài cúng như sau:
Hôm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, cộng đồng tổ chức “Gầu tào”, xin thần núi, thần rừng, thần sông, thần suối, thần cây có sức mạnh và sự liêng thiêng sẽ phù hộ cho gia đình, dòng họ và mọi người, để năm mới không bệnh tật ốm đau, con cháu học hành giỏi, làm ruộng, làm nương, trồng lúa trồng ngô, chăn nuôi gia súc gia cầm, buôn bán, kinh doanh mọi sự đều thành, đều tốt, làm gì được nấy, con cháu đầy nhà. Có 3 thẻ hương, một sớ giấy, 2 chén rượu để dâng lên và xin chặt cây nêu. Xin hồn cây về giúp cho công việc của gia đình, cộng đồng diễn ta tốt đẹp, thuận lợi, xin thần rừng, thần cây đồng ý chặt cây đẹp, cây thiêng về làm cây nêu (dềnh xê) trong lễ hội nhé.
Kết thúc lời khấn, gia chủ, chủ lễ và đoàn người vái 3 vái trước cây gỗ đã được chọn và chủ lễ chặt ba nhát rìu làm phép sau đó những người giúp việc mới bắt đầu chặt tiếp để hạ cây xuống, khi chặt lựa sao cho cây đổ về phía mặt trời mọc, chặt cây tận gốc và nâng đỡ để cây nêu không chạm đất, các cành nhỏ được chặt lần lượt từ gốc lên ngọn, đến gần ngọn thì để lại 5 hoặc 7 cành lá, phần ngọn giữ nguyên. Sau khi cây được chặt hạ xuống, chủ lễ sẽ tháo mảnh vải đỏ được buộc ở gốc lúc trước treo lên ngọn cây nêu, kể từ lúc này, dải vải được xem như một lá cờ trong lễ hội “Gầu tào” để thông báo tới bà con trong vùng, thanh niên nam nữ, bản trong bản ngoài, từ vùng gần đến vùng xa truyền tai nhau, biết để cùng tới tham dự lễ hội vào dịp đầu năm mới và cùng cầu xin thần linh ban may mắn, hạnh phúc đến cho bản thân, gia đình và cộng đồng mình.
Cây nêu sau khi được chặt hạ, mọi người cùng nhau khiêng về địa điểm chính diễn ra lễ hội hiện nay (nhà gia chủ trước kia), không nghỉ giữa đường, dựa trước cửa chính của ngôi nhà (cửa này gọi là “cửa ma” hay “kháo trùng tằng”). Đây là cửa quan trọng nhất trong ngôi nhà của người Mông, họ quan niệm, cây nêu được chặt về, dựa vào đây sẽ được ma cửa và toàn bộ hệ thống ma nhà, thần linh xung quanh ngôi nhà bảo trợ.
* Lễ cúng báo tổ tiên và hệ thống ma thờ trong đêm 30 tết
Trước kia, khi có gia đình đứng ra tổ chức lễ hội “Gầu tào” thì vào tối ngày 30 tết cổ truyền của người Mông, gia chủ tiến hành các nghi thức cầu cúng truyền thống trong thời khắc của năm mới. Các nghi thức được gia chủ tiến hành lần lượt là: cúng tổ tiên (trừ xử cang), cúng ma nhà (úa tlang), cúng thần cột nhà (bùa đăngz), cúng thần cửa (bùa trùngz), thần bếp lò, bếp nấu ăn, các nghi thức cúng đồ dùng, dụng cụ lao động trong gia đình như: cày, bừa, cuốc, thuổng, dao phát,… tất cả đều được dán giấy đỏ và coi như đó là lời tạ ơn đến các thần đã phù hộ cho gia chủ một năm bình an, may mắn, lao động được mùa, lương thực đầy bổ, con người no đủ.
Sau khi thực hành các nghi thức cúng truyền thống, gia chủ kết hợp cúng thông báo với tổ tiên về việc gia đình có cây nêu để chuẩn bị cho lễ hội “Gầu tào” và xin thần linh cùng các ma nhà phù hộ để cây nêu được “sạch sẽ” trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, đồng thời cúng thần núi bảo vệ cho cây nêu từ khi dựng đến khi hạ cây nêu, kết thúc lễ hội. Bài cúng có nội dung như sau:
“Hôm nay, đêm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tôi có giấy bản để thờ là một mảnh, một rổ gạo, một ngọn đèn thắp sáng bằng mỡ lợn, 12 thẻ hương, rượu 4 chén, giấy 4 sớ, gà trống lông màu đỏ một con để dâng lên cho ma nhà, ma cửa. Cầu mong năm mới các vị phù hộ cho gia đình không bệnh tật ốm đau, con cháu học hành thành đạt, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, giao lưu bạn bè bốn phương được tôn trọng, kính nể, buôn bán, kinh doanh thuận lợi, thu hái được nhiều tiền của đầy chum đầy hũ, con cái không ốm đau, không bệnh tật, không phải cúng bái, thuốc thang. Năm cũ qua đi, năm mới đến, ma nhà, ma cửa của gia chủ luôn mở cửa chờ đón tài lộc: Lộc con cái, lộc tiền tài, lộc mùa màng, lộc gia súc gia cầm đến cho gia chủ.
Đóng cửa lại để xua đi bệnh tật, ốm đau, tai tiếng không tốt, xua đi những vong hồn ma xấu. Bây giờ tôi dâng gà sống, lúc sau tôi làm được thịt chín, cơm chín, rượu ngon tôi mới mời các vị về ăn. Sớm mai trời sáng, mời ma nhà, ma cửa cùng tôi mang cây nêu, cây thiêng đi dựng ở đỉnh cao, đỉnh đồi đẹp để làm lễ tạ ơn thần linh, để thần linh phù hộ cho gia đình, dòng họ, bản làng và mọi người. Xin tổ tiên, các ma và các thần linh đi dự hội cùng và tiếp tục phù hộ cho chúng tôi trong năm tới có sức khỏe, sinh con cái được như ý muốn để con cái đầy nhà, có trai có gái, nuôi trồng được nhiều gia súc, lúa ngô được mùa, gặp nhiều may mắn hơn trong năm mới”.
Các nghi thức này do chủ nhà đứng ra thay mặt gia đình tiến hành lần lượt các nghi lễ để báo cáo với tổ tiên, với các ma và các thần linh trong suốt đêm 30 tết của đồng bào.
Ngày nay, lễ hội được tổ chức ở quy mô cộng đồng nên cây nêu được chuyển về địa điểm tổ chức lễ hội để trang trí và dựng luôn chứ không chuyển về nhà gia chủ nên không có nội dung cúng bảo tổ tiên và các ma nhà như trước đây nữa.
* Trang trí cây nêu và nghi thức dựng cây nêu
Cây nêu là một biểu tượng quan trọng nhất trong lễ hội “Gầu tào” của đồng bào Mông, đây được xem như một biểu tượng “thông quan” giữa con người với thần linh, giữa con người với các thế lực siêu nhiên. Mọi tâm tư nguyện vọng của gia đình cũng như của những người đến dự lễ hội được gửi vào cây nêu. Cây nêu được coi là cây thiêng, thông qua cây nêu chuyển gửi những nguyện vọng của mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ, bản làng tới tổ tiên, các ma và hệ thống thần linh của người Mông. Cây nêu với màu sắc trang trí sặc sỡ được dựng lên trên một khoảng đất thoáng rộng, bà con gần xa đi chợ tết, vui chơi, mua sắm, nam nữ thanh niên gần xa nhìn thấy cây nêu là biết sắp có lễ hội, chuẩn bị váy áo, thời gian tham gia vui tết, đón xuân, dự hội.
* Trang trí cây nêu:
Trước khi cây nêu được dựng, gia chủ, cộng đồng sẽ tiến hành trang trí cây nêu. Giấy bản được cắt thành những sâu tiền, nối thành ba dây dài, treo lên các cành của cây nêu. Các dây vải màu xanh, đỏ, vàng, mỗi dây dài 2m được treo lên ngọn cây nêu. Các hình nhân cắt từ giấy màu xanh, đỏ, vàng được treo lên thân cây nêu. Thân cây nêu được dán từng đoạn giấy các màu xanh, đỏ, vàng đan xen nhau rất nổi bật. Người Mông quan niệm, màu đỏ biểu trưng cho sự may mắn; màu vàng biểu trưng cho mặt trời thể hiện sự ấm áp, hạnh phúc; màu xanh biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Treo hình cắt từ các loại giấy màu này trên cây nêu, đồng bào Mông mong muốn một năm mới mỗi gia đình và toàn thể cộng đồng sẽ gặp nhiều may mắn, hạnh phúc… Sau khi cây nêu đã được trang trí cẩn thận, gia chủ, cộng đồng chọn giờ tốt để tiến hành dựng cây nêu.
* Nghi thức dựng cây nêu:
Trước kia, nghi thức dựng cây nêu thường được tiến hành vào ngày 01 tết cổ truyền của người Mông, bắt đầu lễ hội “Gầu tào”. Ngày nay, nghi thức dựng nêu được tiến hành trước khi diễn ra lễ hội chính thức 01 ngày tại địa điểm mở lễ hội.
Trước khi dựng cây nêu, chủ nhà tiến hành nghi thức cầu khấn xin thần núi, thần đất cho phép gia chủ dựng cây nêu “Gầu tào” tại đây, cây nêu thẳng đứng, được dựng hiên ngang giữa đất trời, tượng trưng cho sức mạnh, sự thanh tao, thắng thắn, trung thực của con người Mông giữa thanh thiên bạch nhật, được đất trời chứng giám. Nội dung bài cúng xin dựng cây nêu như sau:
“Hôm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, cộng đồng tổ chức lễ hội “Gầu tào”, xin thần núi, thần rừng, thần sông, thần suối, thần cây có sức mạnh và sự liêng thiêng cho phép gia đình, dòng họ và mọi người được dựng cây nêu đứng thẳng, dựng cây nêu an toàn trong suốt quá trình diễn ra lễ hội, để cộng đồng gần xa được biết và đến dự hội, cầu cho các gia đình, dòng họ và mọi người một năm mới mạnh khỏe, bình an, sản xuất được mùa, cuộc sống no đủ”.
Kết thúc bài cúng, chủ lễ vái đất trời 3 vái, sau đó cùng mọi người đào đất để dựng cây nêu, vị trí chôn cây nêu của năm sau không trùng với năm trước. Khi cây nêu được khiêng tới địa điểm tổ chức lễ hội, chủ lễ buộc lên ngọn nêu hai dải vải lanh màu đen (thể hiện sự tập hợp lực lượng) và màu đỏ (để mời tổ tiên về dự hội), hiện nay, vải lanh được thay bằng 05 lá cờ đỏ sao vàng, một bầu rượu, ba bông lúa nếp (tượng trưng cho tài lộc) và một túm cây “sưi” (họ dương xỉ, tượng trưng cho sự sinh sôi) rồi mọi người cùng nhau dựng nêu, lấp đất thật chặt sao cho cây nêu thực sự vững chắc, gió không làm đổ được cây, khi dựng cây nêu, ngọn cây được điều chỉnh theo hướng mặt trời mọc để đón được những điều may mắn, tốt đẹp nhất trong năm mới.
Khi thấy cây nêu cao giữa đồi “Hấu tào”, mọi người trong vùng biết năm ấy có lễ hội “Gầu tào”. Không khí hội hè nhộn nhịp, mọi người thông tin cho nhau ở chợ, ở trên đường, bên suối, trong bản… về lễ hội và hẹn nhau cùng đi. Trong các xã, các bản, mọi người cùng tập hợp thành các đội để tham gia các hội thi và chơi các trò chơi dân gian hay tập các bài khèn, các điệu múa để “khoe tài” trong ngày hội. Đây cũng là dịp để nam nữ chuẩn bị quần áo đẹp, vui chơi cùng chúng bạn, gặp gỡ người yêu, tìm kiếm một nửa của mình, bộc bạch tình cảm qua những bài hát, lời thương mà thường ngày họ không thể thổ lộ.
* Lễ cúng chính thức
Sau khi dựng cây nêu xong, dưới gốc cây, người ta đặt một chiếc bàn gỗ nhỏ 4 chân truyền thống để lễ vật dâng cúng. Những người giúp việc treo khèn lên cây nêu, đặt tiền giấy dưới gốc cây, gia chủ, cộng đồng làm một mâm cúng trịnh trọng đặt trên bàn dưới gốc cây nêu. Lễ vật gồm có: giấy bản, 01 bát gạo, 01 bát nước, 01 bầu rượu, 08 chén nứa được chia đều, đặt ở 4 góc bàn lễ và ống nứa dài dùng để dựng rượu, đặc biệt lễ vật không thể thiếu là con gà trống.
Bắt đầu vào lễ chính thức, chủ lễ thắp hương, tay cầm con gà trống còn sống, đi ngược chiều kim đồng hồ quanh cây nêu, cúng báo và mời các vị thần trời, thần đất, thần suối, thần núi ở 4 phương trời, 4 phương đất; mời các vị xuống chứng giám và phù hộ cho mọi gia đình, dòng họ, bản làng một năm mới không bệnh tật ốm đau, chăn nuôi gia súc, gia cầm đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, con cái đủ đầy, nhà nhà no ấm,… Mọi người trong gia chủ (trước kia), đại diện các dòng họ, cộng đồng làng bản (ngày nay) có mặt phía sau chủ lễ, quỳ xuống khấn các vị thần linh, cầu may mắn cho gia đình, dòng họ, cộng đồng. Trong khi làm lễ, mọi người tham gia đều cố gắng sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, thanh cao, những câu nói mĩ miều, ví von (pàng lù), những câu tục ngữ khoa trương (lù txà) với mong muốn đón mọi điều tốt đẹp. Nội dung bài cúng như sau:
“Hôm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tôi đến đây cúng, cầu các vị thần: thần trời, thần đất, thần sông và thần núi ở 4 phương trời, 4 phương đất. Cây thiêng (cây nêu) có một cây được chôn dưới đất ngọn thẳng vút lên tận trời xanh, hương có12 thẻ, giấy có 4 sớ, giấy vàng giấy bạc có 12 cái, rượu có 4 chén, gà trống lông màu đỏ một con. Con gà trống này là gà trống của trời của đất, toàn thân có bộ lông màu đỏ rực giống như rồng bạo chúa, đỉnh đầu đội mũ có 9 cái sừng, đôi chân mang theo một đôi sừng nhọn như sừng trâu, hai cái cánh mang 24 thanh kiếm hai lưỡi màu đỏ. Con gà trống này ăn gạo, ăn chấu, ăn hàng nghìn hàng vạn thứ. Mở miệng gáy một tiếng rung động cả đất trời, gáy một tiếng đánh thức cả mặt trời chiếu sáng muôn nơi, tôi mang con gà trống này về cầu cúng các vị thần, thần trời, thần đất, thần sông và thần núi ở 4 phương trời, 4 phương đất. 4 vị thần cai quản, các vị xuống đây để giúp và phù hộ gia đình, dòng họ, bản làng và tất cả mọi người, năm mới phù hộ cho gia đình gặp nhiều may mắn, con cháu học hành thành đạt, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, giao lưu bạn bè bốn phương được tôn trọng, kính nể; buôn bán, kinh doanh thuận lợi, thu hái được nhiều tiền nhiều của đầy chum đầy hũ; con cái đủ đầy, có trai có gái, không ốm đau, không bệnh tật, không phải cúng bái, thuốc thang.
Thần trời, thần đất, thần sông và thần núi. 4 vị thần ở 4 phương trời, 4 phương đất xuống đây để nhận lễ gồm: Hương có12 thẻ, giấy có 4 sớ, giấy vàng giấy bạc có 12 cái, rượu có 4 chén, gà trống lông màu đỏ một con. Bây giờ các vị thần nhận lễ vật sống, khi làm được thịt chín, cơm chín, rượu ngon thì tôi mời các vị về ăn về uống”.
Sau khi thầy cúng xong, chủ lễ cùng hai thanh niên cắt tiết gà, lấy một phần đổ vào gốc cây nêu để mời tổ tiên về dự và bảo vệ cây nêu trong suốt thời gian diễn ra lễ hội “Gầu tào”, phần tiết còn lại dùng giấy cúng chấm vào rồi hóa để thần linh nhận lễ vật và phù hộ cho cộng đồng. Sau đó, đem gà đi giết thịt, luộc chín để dâng cúng các vị thần linh.
Tiếp đó, thầy cúng mời đội khèn nghi lễ trình diễn một số điệu khèn vui xuân trước ban thờ thần linh, xung quanh cây nêu. Kết thúc phần trình diễn, thầy cúng mời mỗi người 2 chén rượu để cảm ơn.
Các đoàn khách đến tham dự lần lượt lên cúng tế các vị thần linh, cầu mong cho gia đình, cộng đồng mình năm mới bình an, mạnh khỏe, ấm no, đủ đầy. Để cảm ơn, thầy cúng và những người giúp việc thay nhau mời mỗi người 2 chén rượu bằng ống nứa thể hiện sự mến khách và ước hẹn cùng nhau làm những điều tốt lành trước sự chứng giám của trời đất, tổ tiên và các thần linh đồng thời cầu cho mưa thuận gió hòa để cộng đồng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trước kia, gia chủ tổ chức thì khách đến dự, người có ống gạo, người có gùi ngô, người mang hũ rượu, xách đôi gà, mọi người đến đều vào làm lễ cầu chúc cho gia chủ trước tiên, sau đó cầu chúc cho mọi người yên vui, khỏe mạnh, cầu chúc cho mùa màng bội thu, lợn đầy chuồng, gà đầy sân. Chủ nhà nói lời cảm ơn lòng tốt của khách và chúc mừng khách tới dự lễ hội có một năm mới nhiều may mắn, mời lại mỗi vị khách 2 chén rượu để cảm tạ.
Kết thúc lễ cúng chính bên cây nêu, chủ lễ tuyên bố mở hội, các nội dung của phần hội được bắt đầu.
* Phần hội
Trong lễ hội “Gầu tào”, người ta không tách hoàn toàn phần lễ và phần hội. Sau phần lễ chính trịnh trọng, trang nghiêm là phần hội diễn ra rất sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và nhiều hội thi được đông đảo người dân tham gia cũng như cổ vũ nhiệt tình. Người Mông coi việc thực hành các trò chơi, các hoạt động nghệ thuật trình diễn này không chỉ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng hiện tại mà đó còn là những hình thức thể hiện tài năng, biểu diễn nghệ thuật truyền thống để dâng lên các vị thần, để các vị thần chứng giám cuộc sống thực tế của cộng đồng, vui niềm vui chung của cộng đồng.
Nghi thức khai hội được mở đầu bằng những điệu khèn của các chàng trai người Mông khỏe mạnh đến từ các làng bản, các xã trong toàn vùng. Những bài khèn mang tính nghi lễ được thực hành trước, đó là: “kềnh o chu” (khèn hai bước); “kềnh pây chu” (khèn ba bước); “kềnh plâu chu” (khèn bốn bước); “kềnh thâu ca” (khèn quay vòng); “kềnh cho lầu” (khèn tiến, lùi); “kềnh nào pi chầu” (khèn mừng năm mới),...
Sau đó, mọi người dự hội đều có thể vào trình diễn khèn, hát…theo sở thích của mỗi cá nhân, các cây khèn được lấy từ cụm khèn mà cộng đồng chuẩn bị sẵn, treo ở gốc cây nêu, các điệu khèn được mọi người tự do trình diễn, thường là: “kềnh chú đí" (khèn đi chơi buổi sáng xuân đầu tiên); “kềnh nọp pi chầu” (khèn đi chơi tết); “kềnh oxi” (khèn vui ngày xuân); “kềnh nộng rừ” (khèn chơi xuân); “kềnh mông oxi/mông ua” (đi chơi ngày xuân),… Sau khi trình diễn, mọi người đều được chủ lễ hoặc gia chủ (trước kia) mời rượu để cảm ơn.
Các trò chơi dân gian được thực hành trong lễ hội “Gầu tào” rất phong phú, gồm tất cả các trò chơi truyền thống có trong đời sống của đồng bào như: đua ngựa, bắn nỏ, đánh quay, ném pao, đánh cầu lông gà, kéo co, đẩy gậy, thi trình diễn các điệu khèn, thi giã bánh dày, thi dùng sáp ong tạo hoa văn trên vải,… các trò chơi được diễn ra liên tục trong sự cổ vũ, hò reo của đông đảo bà con dân bản.
Bắn nỏ: trò chơi bắn nỏ quy định tiêu điểm chỉ bằng chiếc lá nhỏ hoặc bằng hạt ngô, cách vị trí đứng khoảng 20 đến 25m, từng người đi thi mang theo cây nỏ của mình, lần lượt từng người một vào bắn để phân thắng bại, người thiện xạ nhất sẽ được thưởng một bầu rượu ngon. Trong cuộc sống, người Mông làm cây nỏ để rèn luyện sức khỏe, bắn chim, săn thú. Nỏ được coi là vũ khí lợi hại để bảo vệ bản làng khi có giặc thù. Người bắn giỏi phải tập luyện thường xuyên, tập cho đôi tay khỏe, đôi mắt tinh nhanh. Không chỉ nam giới mà nữ giới người Mông cũng rất mê bắn nỏ, thậm chí có người còn đạt thành tích cao ngang ngửa nam giới. Vì thế, trong nhiều cuộc đua tranh ở bản làng hay tại ngày hội thể thao lớn trong vùng đều có đông đảo nam nữ tham gia.
Đánh quay (tầu tù lu): trò đánh quay thu hút đông đảo thanh, thiếu niên tham gia, quay to, quay nhỏ đủ cỡ được tung ra, thu hút sự cổ vũ nhiệt tình của nhiều người dân trong bản, trong vùng. Đánh quay là trò chơi dành cho con trai, giúp người chơi rèn luyện sức khỏe, độ khéo léo, tinh nhanh, phán đoán tốt và được đồng bào Mông ở Yên Bái rất ưa chuộng trong ngày tết. Thi chọi quay bao giờ cũng thu hút được nhiều người chơi, nhiều khán giả hâm mộ. Tù lu (con quay) được làm từ sừng súc vật hoặc từ những loại gỗ cứng như: sồi, lim, nghiến hay gốc sơn tra... có đường kính từ 7 - 10 cm. Nếu đẽo bằng gỗ không tốt, khi đi chọi sẽ bị vỡ toác ra. Thân con quay được chế tác theo hai hình dạng chính: hình quả chuông và hình nón cụt, có hai đầu, đầu nhọn có tác dụng là điểm chạm của con quay, đầu kia gọt bằng, khi chơi là điểm đánh của những người chơi khác. Để làm được một con quay đạt yêu cầu phải mất từ 40 - 60 phút. Dây đánh quay được se bằng lanh, được gọi là “cua”, được nối với một đoạn “pảng” - gọi là gậy làm bằng một đoạn trúc rừng nhỏ cỡ ngón tay cái. Chiều dài và kích thước của dây phù hợp với sải tay của người chơi cũng như kích thước con quay. Để chơi quay, người chơi thường chọn những bãi đất rộng, phía đối diện có ta luy cao nhằm tránh cho con quay khi chơi văng xuống núi và đảm bảo không gây thương tích cho người chơi. Để bắt đầu cuộc chơi, một người thả quay ra khoảng trống trước mặt để làm mồi. Khi con quay mồi đang nhảy nhót, quay vù vù thì một người khác vung tay lên bổ xuống một con quay khác giáng mạnh vào con quay mồi. Có con quay mồi bị giáng mạnh còn vỡ toác ra. Tiếng xuýt xoa khen ngợi nổi lên. Nếu chọi không trúng, thì con quay chọi lại phải thay thế con mồi. Cứ thế đến lúc tìm ra được con quay khỏe nhất, tít nhất và người chủ quay chơi điêu luyện nhất. Đánh quay có 2 hình thức chủ yếu: thi quay tít và chọi quay. Đầu tiên các bạn trẻ thường thi quay tít. Một vòng tròn được vạch trên đất bằng cách vạch người đứng thi từ 5 -7m, mọi người đứng dàn hàng ngang ở vạch thi đấu, khoảng cách vừa phải để khi vung tay khỏi va chạm vào nhau. Thường người chơi quấn quay theo chiều tay thuận của mình. Khi có tiếng hô “tầu lâu” (đánh đi) của chủ trò thì lần lượt từng người chơi xuống quay để so tài. Những con quay lao vút vào vòng quay phát ra những tiếng kêu vo vo, vù vù quay tít, con quay nào quay lâu nhất sẽ được mọi người trầm trồ khen ngợi. Con nào nhảy chồm chồm vượt ra khỏi vòng tròn rồi đổ lăn ra là chưa đạt. Có nơi người chủ quay còn dùng dây quất vào cạnh tròn của con quay, tạo ra một lực tiếp tuyến để nuôi quay quay tít được lâu hơn. Loại quay tròn có núm, người ta có thể hất lên cho quay trong lòng bàn tay. Cuối cùng, ai có quay sống lâu hơn thì được quyền chơi tiếp, người kia xuống quay để những người còn lại đánh vào con quay của mình. Kỹ thuật chủ yếu của trò đánh quay gọi là bổ, cách thực hiện khá đơn giản, chỉ cần quấn chặt dây quay vào con quay bắt đầu từ điểm mấu quấn dây tiếp xúc với thân quay theo vòng rộng dần. Người chơi hơi cúi xuống và khuỵu chân, để con quay ở khoảng ngang bụng, giữ chặt đầu dây còn lại (hoặc quấn vào ngón tay) để bổ con quay, nghĩa là lăng cho con quay văng ra và thường kết hợp với lực giật đầu dây đang giữ để con quay quay được nhiều vòng hơn. Còn có cách bổ quay khác là người chơi đứng thẳng, tay cầm quay cao ngang gáy rồi ném quay xuống theo phương thẳng đứng, tay giật dây di chuyển từ dưới lên trên, gọi là bổ thượng hoặc theo đường chéo gọi là bổ vát.
Đua ngựa: Nếu trò bắn nỏ thể hiện sự nhanh nhẹn, dẻo dai thì đua ngựa lại cần phải có một bản lĩnh tốt, cứng rắn để có thể điều khiển được những con ngựa trên đường đua. Từ bao đời nay, ngựa là con vật đã gắn bó với người Mông như một “chiếc xe không cần động cơ”, ngựa chính là “người bạn” khuôn vác hàng hóa trên những chặng đường đồi núi gập ghềnh, giúp họ trong cuộc sống hàng ngày, đồng thời ngựa còn là người bạn trung thành của người Mông. Trò đua ngựa thể hiện tinh thần phóng khoáng, dũng cảm, sự tự tin mãnh liệt. Trong lao động sản xuất, người ta cũng có thể đua ngựa để kiểm tra xem ngựa có tốt không, người điều khiển có tài không. Đua ngựa thường tổ chức vào các dịp vui xuân đón tết, trong hội chính thức được cả làng, bản chứng kiến cổ vũ rất náo nhiệt. Khi có người già khởi xướng đua ngựa, nhà nhà hưởng ứng chuẩn bị cuộc đua. Những chàng trai cũng chọn cho mình một con ngựa tốt, móng đẹp, răng khỏe, chạy êm để chăm sóc đưa đi tỉ thí. Người chơi đề cao tính trung thực và lòng dũng cảm, chiến thắng bằng sức khỏe của chú ngựa và sự khéo léo, dẻo dai của người cầm cương. Quà tặng cho người thắng cuộc không nhiều, có thể chỉ là vài chén rượu, nhưng những lời khen, sự kính nể là điều mà chàng trai Mông thắng cuộc cảm thấy tự hào nhất.
Ném pao (lảy pao): “Lảy pao” được xem là trò chơi dân gian truyền thống, đặc sắc của tộc người Mông ở Tây Bắc nói chung và ở Yên Bái nói riêng trong ngày tết. Quả “pao” là sản phẩm thể hiện sự cần cù, chăm chỉ và khéo léo của phụ nữ Mông. Quả “pao” được các cô gái Mông tự tay khâu rất cẩn thận và tỉ mỉ từ các mảnh vải lanh thành trái tròn to bằng quả cam. Bên trong quả “pao” được nhồi hạt lanh tượng trưng cho sự sinh sôi và phát triển.Trò chơi ném “pao” thường được diễn ra ở những khu đất rộng tương đối bằng phẳng, người chơi được chia làm hai bên nam - nữ hoặc nữ - nữ. Hai bên đứng cách nhau khoảng 5 - 7 m. Những người con gái Mông váy áo sặc sỡ, khoe tài và sự duyên dáng của mình qua những quả “pao” được ném qua ném lại. Con gái Mông học ném “pao” từ khi còn bé và rất thuần thục với trò chơi này, thậm chí còn khéo léo đỡ “pao” hơn cả con trai. Từ việc ném qua ném lại quả “pao”, nhiều chàng trai, cô gái đã hiểu ý nhau, họ chơi cả ngày không biết chán, để rồi tìm hiểu, yêu thương, nên vợ nên chồng.
Đẩy gậy: Đây cũng là một trong những môn thể thao truyền thống, không thể thiếu trong những ngày hội của đồng bào Mông, thể hiện tinh thần thượng võ, đề cao sức mạnh, sự dẻo dai, cả con trai và con gái đều có thể tham gia. Để tổ chức thi đấu môn đẩy gậy chỉ cần có gậy thi đấu làm bằng tre già thẳng hay những thanh gỗ tốt có chiều dài 2m, đường kính từ 4 - 5cm, được sơn 2 màu đỏ và trắng hoặc đỏ và xanh; đầu và thân gậy phải được bào nhẵn và có đường kính bằng nhau. Vẽ một vòng tròn có đường kính 5m trên một khoảng đất rộng. Sau khi các cặp đôi thi đấu đã chuẩn bị xong, một người được giao nhiệm vụ làm trọng tài phát lệnh cho trận đấu bắt đầu. Hai bên tay ghì phần gậy của mình, dùng sức đẩy đối phương. Theo quy định, bên nào chân chạm vào vạch hoặc bị đẩy ra khỏi vòng tròn trước là thua cuộc.
Kéo co: Đây là trò chơi dân gian phổ biến đối với nhiều cộng đồng tộc người ở Việt Nam. Để thực hành trò chơi, người ta phải chuẩn bị dây kéo, thường là dây được kết từ song mây (gần đây có cả dây thừng), kẻ một vạch ở giữa ngăn cách hai đội. Ở giữa sợi dây kéo, ban tổ chức buộc một dải vải đỏ với ý nghĩa làm mốc đánh dấu khi thi đấu, ngoài ra dây vải đỏ còn mang ý nghĩa tượng trưng cho mọi việc được may mắn, thuận lợi, lúc nào cũng rực rỡ, thành công. Hai đội chơi chọn số lượng người gần như tương đương nhau về thể trọng, lần lượt nắm tay vào sợi dây, dùng sức kéo về phần của đội mình, hai đội cứ kéo giằng co, mọi người ở ngoài hò reo rộn rã. Hai đội kéo cho đến khi nào một đội kéo được đội kia vượt qua vạch ngăn cách, sang sân của đội mình thì sẽ giành phần thắng.
Đánh cầu lông gà: đây là trò chơi diễn ra nhộn nhịp ở nơi khuất gió. Hai bên đứng cách nhau khoảng 5 đến 7m, đánh quả cầu lông gà qua lại bằng những tấm gỗ cứng, bên này đánh lên, bên kia đỡ lấy và chuyền lại, cứ thế hạn chế cho quả cầu rơi xuống đất.
Các chàng trai khỏe khoắn của các bản thi với nhau các trò chơi thể hiện tinh thần thượng võ, đoàn kết, đề cao tinh thần cố kết cộng đồng.
Bên cạnh các trò chơi của nam thanh niên thì các cô gái cũng thể hiện tài năng của mình bên hội hát “Gầu plềnh”, cùng các chàng trai hát đối đáp, giao duyên, thổi kèn lá, đàn môi hay tham gia hội múa gậy “sênh tiền”. Khách gần, khách xa, người già, người trẻ khi đến tham gia hội, ai thích trò chơi gì thì đến sân chơi ấy để tham dự. Đám hội nào cũng nườm nượp người.
Đám hát “Gầu plềnh” (hát tình ca, đối đáp, giao duyên, hát vui hội hè): Đông vui, thu hút không chỉ các cặp trai thanh gái tú mà cả những người yêu cũ gặp nhau cũng tham gia hát thăm hỏi nhau với những câu ca đậm đà, tình cảm mà theo phong tục cổ truyền là được phép và cấm kỵ vợ hoặc chồng không được ghen tuông, ích kỷ. Những bài hát có thể ứng tác tức thì (gọi là “gầu chứ zỉ”) để giao duyên song cũng có thể thổ lộ tình cảm qua âm thanh của một nhạc cụ nào đó như: kèn lá, đàn môi, khèn, chơi nhị, thổi sáo hay những chiếc ống hát (là những ống mai nối hai đầu bằng sợi lanh, cách nhau khoảng 100-200m, nhìn thấy người bên này hát, người bên kia áp tai vào lắng nghe, giọng hát truyền nguyên vẹn qua sợi dây):
“Trời đã sang xuân, cái gì gọi xuân về
Chim “dì li” vẫy đuôi kêu ríu rít gọi xuân về
Nó bay chập chờn trên tít đỉnh núi
Mình chẳng có lòng thì thôi
Có lòng, mình tiễn ta đi thêm một quãng”.
Hội thi khèn: Ngày tết đến xuân về, những người đàn ông Mông đều mang theo khèn và biểu diễn những điệu múa khèn mạnh mẽ thể hiện sự khỏe mạnh, dẻo dai, khéo léo của mình bằng những động tác lăn, lộn, nhảy nhiều vòng mà tiếng khèn vẫn liền mạch không dứt. Trong khi đó, những người con gái Mông mặc trang phục truyền thống sặc sỡ sắc màu, đeo gùi, mang ô, sự mềm mại, khéo léo, uyển chuyển sẽ được thể hiện qua điệu múa của họ. Có thể nói, ngày tết, người Mông không chỉ vui xuân mà còn là dịp để các đôi trai gái tự tìm thấy nhau qua tiếng khèn, điệu múa, qua lời ca câu hát để tìm và gọi bạn tình của mình.
Hội thi giã bánh dày: Bánh dày là món ẩm thực không thể thiếu của người Mông trong những ngày lễ tết, phần thi giã bánh dày cần nhiều người tham gia trong một đội để có thể thay nhau giã liên tục. Các đội đến tham dự đều chuẩn bị máng gỗ, chày giã, gạo nếp đã đồ chín. Trong một khoảng thời gian nhất định, các chàng trai khỏe mạnh thay nhau giã, khi được, các cô gái khéo léo làm thành những chiếc bánh dày tròn, mịn, đặt trên những lớp lá dong tươi đem đi thi. Đội nào làm bánh đẹp, mịn, ngon miệng sẽ dành giải thưởng. Nhưng dù có giải thưởng hay không thì mọi người đều cùng nhau vui vẻ tham dự, chia sẻ, hòa mình vào niềm vui của ngày hội.
Hội thi vẽ hoa văn bằng sáp ong trên vải: Hội thi này thu hút đông đảo những người con gái Mông khéo tay, tỉ mỉ, cần mẫn. Mỗi người tự mang theo sáp ong, vải vẽ, bút vẽ của mình, tới hội thi, họ tự đun sáp ong nóng chảy, đến khoản 60 - 65 độ là có thể chấm bút, tạo tác các hình hoa văn trên tấm vải của mình. Ai là người vẽ đẹp nhất trong thời gian nhanh nhất sẽ giành chiến thắng.
Những cô gái chiến thắng trong cuộc thi vẽ hoa văn này rất thu hút sự chú ý của các chàng trai Mông.
Mỗi sân chơi đều có người chủ sự (gọi là “quán xử”). Gia chủ (trước kia) và chủ hội (ngày nay) sẽ là người có quyền nhất đối với toàn hội, bên cạnh đó sẽ có 2 đến 3 vị trung niên hay cao niên thạo đường ăn nói, cùng với gia chủ hay chủ hội quán xuyến mọi việc diễn ra trong ngày lễ hội. Ngoài ra, trước kia còn có người quản lý, chăm lo việc ăn uống (gọi là “xử quan”), giúp việc cho “xử quan” có người lo việc củi đuốc (gọi là “hẩu pâu tờ”), lo việc xay giã giần sàng (gọi là “hoan pâu zê”).
Lễ hội “Gầu tào” thu hút toàn thể cộng đồng người Mông trong vùng tham dự, từ các em bé với các trò chơi đơn giản tới các bạn thiếu niên, thanh niên nam nữ, các bậc trung niên đã định nơi chốn và cả các cụ bà cũng kéo nhau tới hội móm mém gặp nhau kể chuyện trước kia hay chăm chú lời ăn tiếng nói, dáng đi, nếp váy cho con cháu mình, cũng có thể cùng với các ông rạng rỡ mặt mày bên những mâm rượu, chăm cho các ông cho đến khi về tới nhà an toàn. Các cụ ông có thể miệt mài với việc chủ trì cho các buổi lễ, các cuộc chơi, các cuộc thi rồi cùng nhau quây quần bên những mâm rượu nói cười vui vẻ. Qua các trò chơi, qua những lời hát, từng đôi thanh niên nam nữ hiểu ý nhau, họ dần tách khỏi đám đông, ngồi tâm tình bên nhau, giao duyên, trao gửi yêu thương, tìm hạnh phúc lứa đôi để rồi nên vợ nên chồng. Lễ hội chính là cuộc vui của cả cộng đồng, mọi lứa tuổi đều tìm được cho mình những trò chơi, những thú vui mà ai cũng “mãi chẳng muốn về”.
Lễ hội “Gầu tào” là không gian văn hóa hội tụ đầy đủ nhất các trò chơi và nghệ thuật trình diễn dân gian truyền thống của tộc người Mông. Đồng bào quan niệm, đám hội càng đông vui thì lễ hội càng thành công, việc trả ơn các vị thần linh càng có kết quả tốt đẹp, đem lại phúc lành cho gia đình, sự yên vui cho cộng đồng. Ngoài nội dung của các nghi lễ thì phần hội chiếm đa số thời gian của lễ hội, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân, thể hiện niềm vui ngày hội, tinh thần cố kết cộng đồng cũng như sức mạnh và sự kiên cường của tộc người trong điều kiện cư trú và đời sống vật chất còn nhiều khó khăn.
* Nghi thức hạ cây nêu và kết thúc lễ hội
Sau khi kết thúc các trò chơi dân gian truyền thống, cũng là lúc chiều muộn của ngày kết thúc lễ hội, trước khi hạ cây nêu, chủ lễ cúng hạ cây nêu. Nội dung bài cúng như sau:
“Bây giờ là giờ tốt, giờ lành, thần trời, thần đất, thần sông và thần núi; 4 vị thần ở 4 phương trời, 4 phương đất các vị đã phù hộ độ trì và chứng kiến dựng cây thiêng. Chúng tôi đã làm được thịt chín, cơm chín, rượu ngon, tôi dâng lễ vật tạ ơn mời các vị thần về ăn về uống rồi ban tài ban lộc, phù hộ cho gia đình, dòng họ, bản làng và tất cả mọi người, phù hộ cho gia đình không bệnh tật ốm đau, con cháu học hành thành đạt, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, giao lưu bạn bè bốn phương được tôn trọng, kính nể; buôn bán, kinh doanh thuận lợi, thu hái được nhiều tiền của đầy chum đầy hũ; con cái không ốm đau, không bệnh tật. Các vị đã phù hộ độ trì và chứng kiến dựng cây thiêng, bây giờ là giờ tốt, giờ lành lại mời các vị chứng kiến lễ hạ cây thiêng.
Hạ để ngọn cây thiêng ngả về hướng xườn đồi để phù hộ cho bản làng và mọi người con đường làm ăn phát đạt.
Hạ để ngọn cây thiêng ngả về hướng xườn núi để phù hộ cho bản làng và mọi người mùa màng bội thu.
Hạ cây thiêng, hạ để ngọn cây ngả về hướng vách đá để phù hộ cho bản làng và mọi người tránh được tất cả mọi điều xấu.
Hạ cây thiêng, hạ để ngọn cây ngả về tận chân trời để phù hộ cho bản làng và mọi người tránh được tất cả mọi tai ương.
Hạ cây thiêng, hạ để ngọn cây ngả về tận nơi mặt trời mọc để phù hộ cho bản làng mọi sự bình yên”.
Cũng như nghi thức lúc dựng cây nêu, khi hạ nêu, người ta phải cho cây ngả xuống theo hướng mặt trời mọc, thân cây không chạm đất, rồi vác cây nêu về nhà gia chủ (trước kia) hoặc chủ lễ theo hướng gốc vào trước ngọn vào sau.
Sau lễ cúng toàn bộ giấy bản, hình nhân (nếu có) được đốt để hóa cho các vị thần linh, tổ tiên. Nếu là gia đình tổ chức lễ hội, vào lúc hạ cây nêu, kết thúc lễ hội, chủ lễ mang theo một con gà, một con lợn hoặc dắt một con trâu còn sống tới buộc vào cây nêu và tiến hành nghi thức cúng các thần để tạ ơn thần linh đã ban cho gia đình trong những năm qua được nhiều may mắn, mạnh khỏe và thuận lợi trong trồng cấy, chăn nuôi và xin các thần tiếp tục phù hộ cho gia đình trong năm mới.
Dưới sự hướng dẫn của chủ lễ, anh em con cháu của gia chủ có mặt dưới gốc cây nêu, cùng chủ lễ, đứng trước con gà, con lợn hoặc con trâu, quay mặt về hướng mặt trời mọc để thầy cúng tiến hành cúng bài xin hạ cây nêu, giao con gà, con lợn hoặc con trâu cho tổ tiên, thần núi và các thần linh. Chủ lễ vừa đọc lời bài cúng vừa dẫn gia chủ cùng con cháu đi vòng quanh gốc cây nêu theo chiều ngược kim đồng hồ.
Kết thúc lễ cúng, con gà, con lợn, con trâu đó được giao cho anh em con cháu trong gia đình gia chủ mang đi làm thịt. Gia chủ cắt lấy phần đầu trâu, bày lên một mâm gỗ cùng với 01 bát cơm, 02 chén rượu, 01 bát thóc, 01 bát ngô để tiến hành lễ cúng “phỉ nhu”, tức là cúng thịt trâu cho thần linh. Kết thúc lễ hội “Gầu tào”.
Toàn bộ thịt trâu được chế biến thành các món ăn, chia thành các mâm cỗ cho toàn thể bà con trong vùng tới dự lễ hội cùng ăn uống chúc mừng gia chủ ngay tại gốc cây nêu, trước sự chứng kiến của thần linh. Theo quan niệm dân gian, những người tới dự được ăn thịt trâu cúng tế cho các thần linh trong lễ hội “Gầu tào” này được xem như đã được hưởng phúc mà thần linh, tổ tiên mang lại, có được sự may mắn, khỏe mạnh, gia đình ấm no, hạnh phúc. Chính vì vậy, ai tới dự lễ hội cũng cố gắng ăn dù ít dù nhiều miếng thịt trâu sau khi đã cúng tế thần linh để mong những điều may mắn sẽ đến với mình.
Thân cây nêu được gia chủ mang về làm giát giường nhà mình với mong muốn có nhiều con cái và tin tưởng rằng thần linh sẽ luôn mang lại sức khỏe cho những người nằm trên chiếc giường đó. Các chum rượu được chủ lễ hất tung ra tứ phía cầu mong cho một năm mới nhiều tài lộc, vạn vật tốt tươi. Các dải vải được gia chủ mang về treo trong nhà, cầu mong hồng phúc của thần linh sẽ tràn ngập trong ngôi nhà của gia chủ và dùng để may quần áo cho đứa trẻ được sinh ra nhờ cầu xin trên đồi “Gầu tào” hoặc cho người khỏi bệnh nhờ khấn xin trong lễ hội “Gầu tào”.
Tan hội, mọi người lưu luyến chia tay nhau, hẹn mùa xuân năm sau sẽ gặp lại.
5. Không gian văn hóa liên quan, các sản phẩm vật chất và tinh thần tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của di sản văn hóa phi vật thể
Lễ hội “Gầu tào” được coi là lễ hội tiêu biểu, thể hiện nét văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của người Mông trong dịp đầu năm mới. Đây là dịp để cúng tạ trời đất, thần linh phù hộ, ban cho mọi người sức khỏe, mùa màng bội thu, thóc lúa đầy bồ, gia súc đầy chuồng. Có thể nói, di sản là điểm hội tụ và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người Mông, là nơi thực hành và trao truyền trực tiếp vốn văn hóa của cộng đồng.
Lễ hội “Gầu tào” được thực hành rất chu đáo từ khâu chuẩn bị đến quá trình diễn ra nghi lễ. Trong tiến trình thực hành di sản này, không gian văn hóa có liên quan khá rộng và đa dạng, thuộc môi trường sinh hoạt và cảnh quan sinh sống đặc trưng của đồng bào Mông, từ ngôi nhà truyền thống đến cánh rừng, ngọn đồi, bãi đất trống, ...
Gắn với lễ hội, có rất nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của di sản. Những giá trị vật chất điển hình có thể kể đến chính là các sản phẩm được sử dụng để thực hành di sản và những sản phẩm được tạo ra trong quá trình thực hành di sản ấy như trang y phục của thầy cúng, của người giúp việc, của nam nữ, trẻ em tham gia lễ hội; khèn và các loại nhạc cụ khác được sử dụng trong lễ hội như: sáo, kèn lá, ống hát; các lễ vật điển hình được sử dụng trong phần lễ; các sản phẩm vật chất đặc trưng được sử dụng trong các nội dung của phần hội, ....
Những sản phẩm tinh thần gắn với di sản rất phong phú, đa dạng. Có thể nói, với vai trò là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất của tộc người Mông, là nơi thực hành và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người, lễ hội “Gầu tào” gắn với nhiều sản phẩm tinh thần được tạo ra trong quá trình thực hành di sản, từ tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian đến nghệ thuật trình diễn, tập quán xã hội và tín ngưỡng, các nghề thủ công truyền thống và hệ thống tri thức dân gian được thể hiện xuyên suốt quá trình chuẩn bị và thực hành lễ hội. Thậm chí những giá trị tinh thần được tạo ra từ lễ hội còn đọng lại sau khi lễ hội đã kết thúc, từ năm này qua năm khác, từ đời này qua đời khác, nó được tích tụ, bồi đắp, tự bảo vệ, tự trao truyền với niềm tự hào về những giá trị mang tính bản sắc của cộng đồng.
Có thể nói, với vai trò là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất của tộc người Mông, là nơi thực hành và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người, lễ hội có không gian văn hóa đa dạng, gắn với môi trường cảnh quan cư trú điển hình của cư dân nông nghiệp rẻo cao, nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần cũng được tạo ra trong quá trình thực hành di sản, gắn liền với di sản rất đặc trưng. Không gian văn hóa và những sản phẩm được tạo ra trong quá trình ra đời và tồn tại của di sản gắn với không gian văn hóa đặc trưng này là kết tinh phản ánh quá trình lịch sử tộc người, văn hóa tộc người, trình độ tư duy, thẩm mỹ, óc sáng tạo cũng như thế giới quan, nhân sinh quan tộc người rất rõ nét.
VII. Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể
1. Giá trị lịch sử
Lễ hội “Gầu tào” của người Mông là một di sản văn hóa phi vật thể rất độc đáo, có lịch sử lâu đời trong xã hội cộng đồng tộc người, nó phản ánh quá trình lịch sử của tộc người rất rõ nét qua từng hình thái văn hóa thể hiện trong quá trình thực hành di sản.
Từ những hình thức biểu hiện và quy trình thực hành di sản thể hiện qua những sản phẩm vật chất và tinh thần gắn với di sản, không gian văn hóa của di sản, mỗi nghi lễ được thực hành, mỗi bài cúng, mỗi trò chơi dân gian, mỗi loại hình nghệ thuật được trình diễn tại lễ hội đều mang những ý nghĩa riêng của nó, phản ánh những giá trị văn hóa đặc trưng gắn với lịch sử di cư, lịch sử cư trú, môi trường cảnh quan, lịch sử xã hội, lịch sử kinh tế, văn hóa của tộc người. Như thế, nghiên cứu tổng thể về quy trình diễn ra lễ hội cũng như cách thức thể hiện và ý nghĩa của nó đều cho ta thấy được phần nào bức tranh nhiều màu sắc của lịch sử xã hội tộc người Mông.
Nghiên cứu quá trình ra đời và tồn tại của di sản, cách tư duy và ứng xử của cộng đồng thể hiện trong lễ hội cho ta thấy quá trình lịch sử nói chung của tộc người rất rõ nét, các đặc điểm tự nhiên, môi trường cư trú đã quy định cách ứng xử sao cho phù hợp với môi trường ấy để có được cuộc sống tốt đẹp nhất. Từ những biểu hiện của di sản, bằng những nhận định khoa học, đi ngược về quá khứ, các giá trị lịch sử đã dần hiện ra. Đồng bào sinh sống ở vùng rẻo cao, địa hình chủ yếu là núi cao, rừng rậm, vực sâu; họ canh tác cũng trên những khu vực địa hình hiểm trở như thế, mọi sinh hoạt trong đời sống cũng diễn ra trong không gian ấy thì các nhân tố kiến tạo nên không gian ấy như rừng, núi, đồi, cây cổ thụ, ... sẽ trở nên vô cùng quan trọng với họ. Với “tín ngưỡng đa thần nguyên thủy” thì mỗi nhân tố này đều gắn với một thế lực siêu nhiên cai quản, đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển thì các thế lực này càng trở nên linh thiêng, thậm chí quyết định sự sống còn của cộng đồng. Việc họ tôn sùng các vị thần linh trong không gian cư trú của mình, để rồi hình thành nên lễ nghi gắn với không gian cư trú ấy đã cho ta thấy nhiều vấn đề của quá trình lịch sử tộc người, trong đó, những giá trị lịch sử văn hóa cũng dần được hình thành và hoàn thiện trong tiến trình lịch sử chung ấy.
Cũng từ cách thức thực hành lễ hội đã khẳng định tính cách, lối tư duy, cách ứng xử của con người với con người, con người với tự nhiên nơi rẻo cao. Đồng bào đề cao những trò chơi mang tinh thần thượng võ, thể hiện sự rắn rỏi, mạnh mẽ của những con người sinh sống ở nơi đầu non ngọn núi này. Đây là một tộc người có tính cố kết cộng đồng rất cao, đặc biệt là sợi dây liên kết của dòng họ. Đồng bào quan niệm cùng họ, cùng cách cúng ma là anh em một nhà, họ coi nhau như ruột thịt, thậm chí có thể sinh đẻ và chết trong nhà của nhau. Nghiên cứu lễ hội này cũng đã góp phần phản ánh một phần về lịch sử xã hội, lịch sử tư duy của cộng đồng như vậy.
2. Giá trị văn hóa
Toàn bộ tiến trình thực hành lễ hội từ khâu chuẩn bị cho đến khi kết thúc đều thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người, là sản phẩm của yếu tố văn hóa và tư duy tâm linh tộc người, của trình độ nghệ thuật, tín ngưỡng, tâm tư, tình cảm, nó phản ánh cách cảm nhận, cách suy nghĩ của từng cá nhân và của cả cộng đồng trong một môi trường văn hóa chung, cùng hướng tới một cuộc sống bình yên, ấm no, đủ đầy.
Đây là di sản văn hóa phi vật thể có tính đại diện, hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, là sản phẩm sở hữu chung của đồng bào, mang những giá trị rất riêng của văn hóa Mông. Mỗi bước thực hành di sản đều thể hiện những quan niệm của cộng đồng về thế giới quan, nhân sinh quan, thể hiện những cách ứng xử đẹp của con người với con người, con người với thiên nhiên, với cuộc sống, với lịch sử, với thế giới tâm linh. Thông qua lễ hội, niềm tin và nhu cầu về tâm linh, tinh thần của mỗi cá nhân, của cả cộng đồng được thỏa mãn đã góp phần vào sự tồn tại bền vững của di sản.
Lễ hội “Gầu tào” là tổng hòa các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần tiêu biểu của tộc người Mông, từ ẩm thực, trang y phục đến các di sản văn hóa phi vật thể có liên quan về tập quán xã hội và tín ngưỡng, ngữ văn dân gian, tiếng nói, chữ viết, nghệ thuật trình diễn, nghề thủ công truyền thống và các tri thức dân gian độc đáo. Tất cả đều được tạo nên từ môi trường sống đặc trưng của tộc người cũng như tư duy tâm linh, tín ngưỡng truyền thống.
Sự tồn tại và phát triển, lan tỏa của lễ hội “Gầu tào” là minh chứng sống động cho vai trò nuôi dưỡng và phát triển nhu cầu văn hóa tâm linh của cộng đồng, phần nào thể hiện thái độ ứng xử hòa hợp với thiên nhiên, mong muốn được thiên nhiên ưu đãi, che chở và đón nhận. Thông qua lễ hội, cộng đồng cư dân thường gửi gắm trọn niềm tin vào thần linh để cùng hướng đến một cuộc sống bình an, khỏe mạnh và sung túc. Đó là ước vọng muôn đời gắn với cư dân Việt nói chung và người Mông nói riêng mà chúng ta cần đặc biệt chú ý trong các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị lễ hội truyền thống.
Trong xu thế phát triển chung của xã hội hiện nay, lễ hội “Gầu tào” còn góp phần đáng kể vào sự phát triển du lịch văn hóa tộc người, kết hợp cùng các hoạt động trải nghiệm, khám phá, nghỉ dưỡng ở các huyện vùng cao tỉnh Yên Bái, phục vụ nhu cầu tinh thần của cộng đồng chủ thể và du khách thập phương. Theo đó, nếu được nghiên cứu bài bản, có kế hoạch bảo vệ, phát huy, khai thác tốt và hợp lý, chắc chắn giá trị của lễ hội này không chỉ nổi trội ở phương diện văn hóa tinh thần mà sẽ đem lại nguồn thu đáng kể thông qua phát triển du lịch văn hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, khu vực và quốc gia.
Về mặt xã hội: lễ hội là không gian văn hóa mang lại sức cố kết cộng đồng mạnh mẽ, mọi người cùng nhau cầu khấn cho cả bản làng, cộng đồng an vui, mạnh khỏe, no đủ rồi cùng nhau hòa mình vào các trò chơi, các hội thi với tinh thần vui vẻ, đoàn kết, quên đi mọi lo toan, vất vả của cuộc sống thường nhật, mọi người thêm gần nhau hơn trong tình yêu thương, sẻ chia, đặc biệt lễ hội là nơi để thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu, yêu đương, dựng xây hạnh phúc lứa đôi.
Với tư cách là sản phẩm sáng tạo của cộng đồng, được cộng đồng cùng duy trì, thực hành, lễ hội “Gầu tào” mang lại cho môi trường văn hóa xã hội mà nó đang tồn tại những tác động tích cực. Theo đó, sự gắn kết cộng đồng là một nhân tố quan trọng quyết định ý nghĩa và sự thành công của lễ hội, bởi cộng đồng được hình thành, tồn tại và gắn kết với nhau dựa trên các yếu tố chung về mặt địa lý, lịch sử, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần… Lễ hội “Gầu tào” dù được tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ, các yếu tố truyền thống vẫn luôn được bảo tồn, duy trì, dù được thể hiện ở dưới hình thức nào cũng không thể thiếu sự tôn vinh các giá trị văn hóa và sức mạnh cố kết cộng đồng. Những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong lễ hội đã thực sự trở thành một chất keo, tạo nên sự gắn kết cộng đồng, giúp mỗi cá nhân hòa mình vào cộng đồng, hướng đến cội nguồn và nuôi dưỡng ý thức gắn kết cộng đồng, quê hương, quốc gia - dân tộc.
Sự tồn tại và phát triển xuyên suốt của di sản trong lịch sử tộc người, được truyền qua nhiều thế hệ, được cộng đồng tự bảo lưu, tự trao truyền và thực hành trong đời sống, hưởng ứng và đồng thuận cao trong quá trình phục dựng đã thể hiện sức sống bền vững của một di sản văn hóa độc đáo, lâu đời.
3. Giá trị khoa học
Qua nghiên cứu tổng thể quy trình thực hành lễ hội “Gầu tào” cũng như cách thể hiện, ý nghĩa của từng nghi lễ và không gian văn hóa liên quan của di sản giúp các nhà nghiên cứu có thêm tri thức khoa học xã hội và nhân văn về đời sống vật chất, tinh thần, các hoạt động kinh tế và quá trình lịch sử của cộng đồng tộc người Mông nói chung. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa - xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tri thức dân gian, kinh tế truyền thống của đồng bào Mông ở tỉnh Yên Bái nói riêng cũng như người Mông ở Việt Nam, trong khu vực và thế giới nói chung.
Di sản chứa đựng tư duy sáng tạo mang tính đặc trưng của tộc người, là không gian văn hóa hội tụ những giá trị vật chất và tinh thần riêng có của cộng đồng, nó mang tính độc đáo, riêng biệt nhưng không làm mất đi cái chung, nét truyền thống của di sản, phản ánh sự đa dạng văn hóa trong cái chung, cái thống nhất của tộc người và cái riêng, cái sáng tạo của cộng đồng.
Nghiên cứu lễ hội “Gầu tào” của cộng đồng người Mông giúp củng cố thêm nguồn tư liệu khoa học về lịch sử văn hóa trong đời sống tín ngưỡng của một tộc người điển hình cho những cư dân cư trú ở vùng rẻo cao Việt Nam, đồng thời thấy được cái riêng biệt, cái đặc trưng mang tính vùng miền, mang tính tộc người hiện hữu và được cộng đồng tự nguyện trao truyền, thực hành lâu đời. Đây là nguồn tư liệu quý giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa nói chung, văn hóa tín ngưỡng nói riêng của cộng đồng các tộc người thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam nói chung, miền Tây Bắc và tỉnh Yên Bái nói chung.
Từ những nguồn tư liệu khoa học có giá trị này sẽ giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào người Mông nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung hiệu quả và bền vững hơn.
4. Vai trò của di sản trong đời sống của người Mông
Trong cộng đồng của người Mông ở tỉnh Yên Bái hiện nay, lễ hội “Gầu tào” vẫn được duy trì và thực hành thường xuyên trong cộng đồng ở các mức độ khác nhau vào dịp đầu năm mới với mục đích cầu cho các gia đình, cộng đồng một bình an, sức khỏe, mùa màng bội thu, con cháu đầy nhà. Ngoài mục đích cầu mệnh, cầu phúc, lễ hội còn là nơi diễn ra các trò chơi dân gian và các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống mà cộng đồng luôn háo hức thể hiện. Bởi thế, lễ hội được coi là món ăn tinh thần, hiện diện thường xuyên và liên tục trong đời sống tộc người, được cộng đồng đón nhận và tự nguyện trao truyền qua nhiều đời. Chính điều này đã khẳng định vai trò không thể thiếu của di sản trong lịch sử cũng như đời sống đương đại của cộng đồng.
Chính trong quá trình ra đời và tồn tại của di sản đã tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan độc đáo, quan trọng trong đời sống của cộng đồng. Trước hết là những sản phẩm vật chất, tinh thần được sản sinh ra để phục vụ cho chính quá trình diễn ra lễ hội, tiếp đến là những giá trị tinh thần được tạo ra trước, trong và sau lễ hội đối với mỗi cá nhân, đối với cả cộng đồng khi tham gia lễ hội. Vì lễ hội xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng, được cộng đồng sáng tạo ra và hoàn chỉnh trong quá trình lịch sử, phù hợp với văn hóa của cộng đồng, được cộng đồng đồng thuận chấp nhận và tự bảo lưu, tự trao truyền nên di sản có sức sống mãnh liệt, tồn tại bền vững, khẳng định vai trò không thể vắng bóng trong đời sống cộng đồng.
Có thể nói, đây là di sản văn hóa phi vật thể điển hình, quan trọng, nó đáp ứng nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần của tộc người. Bởi vậy, nó có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần thỏa mãn nhu cầu của đời sống thực tại và tâm linh tộc người. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi lễ hội nói chung trở thành nhu cầu tinh thần đối với nhiều người, đặc biệt đối với cộng đồng người Mông - một tộc người không có nhiều lễ hội thì “Gầu tào” ngày càng càng trở nên quan trọng và ý nghĩa hơn bao giờ hết. Đây cũng là một tiền đề quan trọng để Yên Bái cũng như các tỉnh Tây Bắc, từng bước triển khai các hoạt động bảo vệ, phát huy, khai thác giá trị di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này để phục vụ du lịch văn hóa, trải nghiệm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các cộng đồng, dân tộc trong khu vực và cả nước.
VIII. Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể
“Gầu tào” là lễ hội lớn nhất và có quy mô cộng đồng duy nhất, gắn với đời sống tâm linh, tinh thần của cộng đồng người Mông ở tỉnh Yên Bái. Di sản luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống cộng đồng tộc người ở địa phương và có sức lan tỏa mạnh mẽ với các cộng đồng lân cận. Niềm tin và nhu cầu về tâm linh, văn hóa tinh thần của mỗi cá nhân, của cả cộng đồng được thỏa mãn là một nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ và duy trì lễ hội. Hơn thế nữa, lễ hội “Gầu tào” là không gian di sản bảo lưu được những nét đặc trưng về lịch sử - văn hóa của tộc người Mông ở tỉnh Yên Bái nói riêng cũng như Việt Nam và thế giới nói chung, được thể hiện qua các nghi lễ, các trò chơi và nhiều nghệ thuật diễn xướng dân gian khác nên nó có sức sống khá bền vững trong cộng đồng.
(Bài viết sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái cung cấp)
281 lượt xem
Ban Biên tập
Ngày 09/08/2024, Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch đã ban hành Quyết định số 2318/QĐ-BVHTTDL công nhận lễ hội “Gầu Tào” của người Mông các huyện: Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, tỉnh Yên Bái là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.I. Tên gọi của Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
1. Tên thường gọi: Lễ hội “Gầu tào” của người Mông
2. Tên gọi tiếng Mông: Tsang hâur tox, nghĩa là: chơi ngoài trời, chơi núi, chơi đồi ngày đầu xuân.
II. Loại hình
Lễ hội “Gầu tào” của người Mông được xếp vào loại hình “Lễ hội truyền thống”.
III. Quyết định công bố Di sản văn hóa phi vật thể
Quyết định số 2318/QĐ-BVHTTDL ngày 09/08/2024 của Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch công nhận lễ hội “Gầu Tào” của người Mông thuộc các huyện: Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, tỉnh Yên Bái là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
IV. Địa điểm phân bố Di sản
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia lễ hội “Gầu Tào” của người Mông huyện Trạm Tấu, huyện Mù Cang Chải, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái được phân bố trên cơ sở địa bàn cư trú của người Mông tại các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải và Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
V. Chủ thể văn hóa
Cộng đồng người Mông ở các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
VI. Miêu tả về di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
1. Quá trình ra đời và tồn tại của di sản
Người Mông ở tỉnh Yên Bái có nền văn hoá dân gian phong phú, phản ánh nhận thức về cuộc sống thực tại, gắn với thiên nhiên, những khao khát vươn tới cái đẹp, cái thiện, cái tốt. Vào ngày vui hay trong các lễ nghi truyền thống, họ đều hát dân ca, thổi sáo, múa khèn. Đồng bào còn lưu giữ được một kho tàng truyện cổ về lịch sử, tinh thần thượng võ của cha ông được truyền từ đời này qua đời khác. Trong đời sống, đồng bào còn lưu giữ được nhiều phong tục mang giá trị nhân văn như tục hỏi, cưới, tang ma, lên nhà mới, các nghi lễ cúng họ, ăn thề, giải hạn, cầu may,… đặc biệt "Gầu tào" là một lễ hội truyền thống điển hình, quan trọng trong hệ thống di sản văn hóa của tộc người Mông, được duy trì thường xuyên trong những năm gần đây, mang những giá trị văn hóa đặc trưng, tiêu biểu, đang được cộng đồng lưu giữ và tiếp tục phát huy.
Tín ngưỡng truyền thống của người Mông là thờ đa thần. Họ thờ cúng tổ tiên là thờ cúng ông, bà, cha mẹ. Đối với đồng bào việc thờ cúng tổ tiên là nghi lễ tín ngưỡng có tính cộng đồng mạnh mẽ. Họ luôn hướng về tổ tiên và coi đó là một biểu hiện quan trọng để bảo tồn giữ gìn văn hoá cội nguồn. Ngày tết được đồng bào Mông chuẩn bị rất chu đáo, họ mổ lợn, thờ cúng theo nhiều lễ nghi truyền thống, tham gia lễ hội “Gầu tào” những ngày đầu xuân với các trò chơi dân gian đặc trưng như: đưa ngựa, bắn nỏ, đánh quay, đẩy gậy, ném pao, thanh niên nam nữ rủ nhau đi chơi xuân, thổi sáo, kèn lá, hát ống, múa khèn, hát giao duyên,…
Theo truyền thuyết dân gian của người Mông kể lại thì trước đây, những cặp vợ chồng nào lấy nhau nhiều năm chưa sinh được con cái, mà muốn sinh được người con như ý muốn, thì người chồng sẽ lên một quả đồi nào đó cầu xin thần đồi, thần núi phù hộ gia đình sinh được người con như ý và hứa sẽ tạ ơn. Khi đã có được người con như mong muốn thì gia đình đó sẽ tổ chức lễ để tạ ơn thần núi, thần đồi như đã hứa và mổ trâu để khao dân bản ngay tại bãi đất bằng của quả đồi, quả núi mà gia đình đó đã cầu con. Sau khi mọi người cùng nhau ăn uống sẽ chơi các trò chơi, hát các bài hát dân ca, múa khèn, múa ô, múa gậy,… vui vẻ để mừng cho gia chủ. Quả đồi diễn ra nghi lễ tạ ơn và các trò chơi của cộng đồng này gọi là “Hấu tào”, lễ hội đó gọi là “Gầu tào”. Lễ hội “Gầu tào” bắt đầu từ đó.
Xét về quá trình lịch sử, việc ra đời của lễ hội “Gầu tào” có thể xuất phát từ nhu cầu về sự phát triển, sinh sôi nảy nở, không chỉ về con cái để duy trì nòi giống mà cả về thành quả lao động để duy trì cuộc sống của chính con người trong điều kiện cư trú, điều kiện sống còn nhiều khó khăn về vật chất, khoa học kỹ thuật chưa phát triển, con người không đủ sức chống chọi lại được với thiên nhiên, đặc biệt là thiên nhiên vùng cao, địa bàn cư trú chính của đồng bào Mông, người ta tìm đến những vị thần linh với tư cách là những bậc siêu nhiên có thể giúp con người giải tỏa được sự bế tắc trong tâm tưởng, mang đến niềm tin, sức mạnh tinh thần cho con người. Từ môi trường sống, cảnh quan cư trú, lịch sử đấu tranh và bảo vệ địa bàn cư trú của cộng đồng đã hình thành những giá trị văn hóa đặc trưng của tín ngưỡng “đa thần nguyên thủy”, tín ngưỡng đó được đưa vào nghi lễ và được cộng đồng chấp nhận, tự nguyện lưu giữ, trao truyền qua nhiều thế hệ, dần hình thành, hoàn thiện và tạo nên bản sắc của cộng đồng. Chính điều này đã quy định sự ra đời và tồn tại của di sản. Hoạt động này được lặp đi lặp lại nhiều lần, dần dần được nâng lên trong cả ý thức và hành động của mỗi chủ thể thực hành di sản, được mở rộng để đáp ứng nhu cầu của chính cộng đồng, hình thành nên di sản quan trọng của cộng đồng. Di sản văn hóa ấy được truyền từ đời này qua đời khác, duy trì và phát triển, trở thành một trong những giá trị tiêu biểu, mang tính đặc trưng của tộc người, được các cộng đồng khác ghi nhận.
Vì lúc đầu, di sản chỉ đơn thuần là gắn liền với việc “cầu con” của một gia đình và cầu được thì gia đình đó sẽ đứng ra tổ chức lễ hội mời bà con dân bản chung vui. Bởi vậy, không có định kỳ, không có thời gian cố định nhưng mỗi lần có là tổ chức 3 năm liền, mỗi năm mở hội 3 ngày liền.
Sau này, có lẽ do sự phát triển của cộng đồng dân cư, cũng một phần do việc tổ chức lễ hội khá tốn kém nên thay vì một gia đình thì đã có sự hỗ trợ từ các gia đình khác trong dòng họ về vật chất và sự giúp đỡ của cộng đồng bản để cùng tổ chức.
Trong đời sống xã hội của tộc người Mông, khi tổng kết một năm qua đi, ngoài để lại cho dân bản, gia đình và mỗi người nhiều điều may mắn thì cũng có nhiều gia đình gặp không ít những trắc trở, khó khăn trong việc làm ăn, sức khỏe, sinh con đẻ cái như mất mùa, hoạn nạn, ốm đau liên miên, chăn nuôi không phát triển được, hiếm con, khó con,… Theo quan niệm của đồng bào, tất cả những may mắn hay trắc trở, khó khăn này là do thần linh trong vùng như thần đất, thần trời, thần núi, thần suối,… đem đến. Vậy nên, nếu gia đình nào có mong muốn gì, họ thường lên đỉnh đồi, đỉnh núi trong vùng cầu khấn thần linh, mong được toại nguyện. Khi đã có được may mắn, sức khỏe, con cái,… thì vào dịp tết đến xuân về, gia đình đó tìm người có uy tín, kinh nghiệm trong cộng đồng làm chủ lễ, chủ lễ sẽ cùng gia đình chọn một người làm chủ cúng, một đội làm nhiệm vụ bảo vệ lễ hội, một đội phục vụ nấu ăn phục vụ dân bản xa gần về tham dự lễ hội. Gia chủ cùng với sự giúp sức của anh em, dòng họ và các già làng, trưởng bản sẽ đứng ra tổ chức lễ hội “Gầu tào” để tạ ơn thần núi, thần đất, thần trời, thần suối đã che chở, giúp cho họ có được điều tốt lành, đồng thời cũng cầu mong các vị thần linh nói trên phù hộ cho dân bản, cộng đồng, các gia đình, dòng họ một năm mới nhiều may mắn, điều dữ mang đi, điều lành mang đến, làm ăn được mùa, chăn nuôi phát triển, mọi người đều có sức khỏe, gia đình đoàn tụ, bản làng bình yên và mở hội để dân bản cùng được vui chơi, chúc mừng gia chủ đã “cầu được ước thấy”. Người ta thường tổ chức 3 lần vào 3 năm liên tục, mỗi năm tổ chức 3 ngày, năm thứ nhất cúng gà, năm thứ hai cúng lợn, năm thứ ba cúng trâu. Có những gia đình chỉ tổ chức một lần vào một năm thì người ta cúng cả gà, lợn, trâu và mở hội 9 ngày liên tục để khao dân bản và mọi người cùng đến ăn uống, chơi hội vui vẻ để mừng cho gia chủ. Đến lúc này, ngoài việc cầu con, người Mông còn cầu sức khỏe, may mắn; cầu cho mùa màng bội thu, dân bản có cuộc sống ấm no, thịnh vượng.
Lễ hội “Gầu Tào” có truyền thống lâu đời, gắn liền với cộng đồng người Mông cư trú trên địa bàn các huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải và một số xã vùng cao của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái với không gian trọng điểm thuộc địa bàn huyện Trạm Tấu, lễ hội xoay quanh tín ngưỡng thờ thần của tộc người Mông. “Thời điểm thiêng” để tổ chức lễ hội là những ngày đầu tiên của một năm mới. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển hơn, mang lại những ảnh hưởng tích cực đến đời sống của con người, con người ít phụ thuộc vào tự nhiên hơn, đời sống vật chất và tinh thần được nâng cao, được sự quan tâm của chính quyền địa phương và sự đồng thuận của cộng đồng thì lễ hội “Gầu tào” đã được mở rộng hơn về quy mô, trở thành lễ hội của cộng đồng và được thực hành thường niên vào mỗi dịp đầu năm mới. Lễ hội đã mở rộng từ quy mô gia đình, dòng họ lên cấp xã (từ năm 2005), cấp huyện (từ năm 2020), thu hút sự tham gia của cả cộng đồng, để tạ ơn các vị thần linh trong vùng và cầu mong cho một năm mới nhiều điều may mắn, bình an, sức khỏe, hạn chế mọi rủi ro đến với mọi người, mọi nhà và toàn thể cộng đồng, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, gia súc đầy chuồng, thóc lúa đầy bồ, nhà nhà no đủ.
Lễ hội “Gầu tào” hiện nay được phục dựng lại trên cơ sở những giá trị sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đã có từ lâu đời trong cộng đồng. Năm 2005, lần đầu tiên, lễ hội được phục dựng lại và tổ chức ở xã Trạm Tấu, huyện Trạm Tấu; xã La Pán Tẩn, huyện Mù Cang Chải; xã Suối Giàng, huyện Văn Chấn. Ngoài ý nghĩa ban đầu là cầu phúc, cầu mệnh ở phạm vi gia đình, lễ hội đã có sự biến đổi, nâng tầm thành lễ hội của cộng đồng cầu cho mùa màng bội thu, người người khỏe mạnh, nhà nhà có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thời gian tổ chức cũng có sự điều chỉnh, từ việc không có thời gian cố định, lễ hội đã được tổ chức từ 1 đến 3 ngày và được tổ chức hằng năm để bà con trong vùng có điều kiện tham gia chơi hội, vui hội trong những ngày đầu năm mới.
Qua truyền thuyết dân gian, tư liệu lịch sử cho thấy lễ hội “Gầu tào” của người Mông là một thành tố quan trọng của đời sống văn hóa tộc người, ra đời và hoàn thiện cùng với quá trình hình thành bản sắc văn hóa trong lịch sử tộc người. Nó thể hiện ở cả hai phương diện nội dung và hình thức. Người Mông đã sáng tạo ra di sản mang đậm sắc thái tộc người, thể hiện những triết lý sống cao đẹp của cộng đồng, cách ứng xử của cộng đồng với thiên nhiên, con người với con người, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp và nhu cầu về đời sống tinh thần, hướng tới cái chân, thiện, mỹ. Đây chính là di sản văn hóa bắt nguồn từ cuộc sống lao động, sản xuất, chiến đấu của tộc người, từ tư duy tín ngưỡng, nghệ thuật của tộc người. Di sản được mạch nguồn của môi trường tự nhiên, môi trường lao động, môi trường xã hội, môi trường văn hóa tộc người ươm mầm và nuôi dưỡng. Di sản là không gian mô phỏng, chuyển tải, lưu giữ, phản ánh những gì là đặc sắc, là cô đọng nhất về thế giới quan, nhân sinh quan, thiên nhiên và cuộc sống của cộng đồng tộc người tiểu biểu cư trú ở vùng rẻo cao phía Bắc này.
2. Hình thức biểu hiện và quy trình thực hành
2.1. Hình thức biểu hiện: “Gầu tào” là lễ hội truyền thống của người Mông ở tỉnh Yên Bái, được tổ chức vào đầu xuân năm mới. Địa điểm tổ chức lễ hội là một quả đồi thấp, đỉnh bằng phẳng tạo nên một bãi rộng, quay theo hướng Đông để cây nêu khi dựng lên đón được ánh nắng mặt trời. Đây là lễ hội quan trọng, lớn nhất trong năm và có quy mô cộng đồng duy nhất, gắn với đời sống tâm linh, tinh thần của cộng đồng người Mông. Lễ hội mở ra nhằm hai mục đích là cầu phúc và cầu mệnh, đây là dịp để tạ ơn thần linh đã ban phúc, ban lộc cho mọi nhà, cầu cho bản làng được mùa màng bội thu, người yên vật thịnh. Bên cạnh đó, theo tập quán, lễ hội “Gầu tào” còn là dịp để các gia đình không có con, ít con cầu phúc, hay có người ốm đau cầu mệnh hoặc làm ăn không tốt… khấn xin thần linh ban cho con cái, cầu xin sức khỏe hay làm ăn thuận lợi. Khi lời cầu khấn trở thành hiện thực, họ sẽ làm lễ “Gầu tào” để tạ ơn.
Lễ hội “Gầu tào” là loại hình lễ hội truyền thống đã có từ lâu đời gắn với đời sống văn hóa tinh thần của người Mông ở vùng cao tỉnh Yên Bái, là văn hóa dân gian tổng hợp được biểu hiện dưới dạng truyền khẩu, thực hành trực tiếp để truyền đạt suy nghĩ và cảm xúc từ đời trước sang đời sau.Những biểu hiện này bao gồm cử chỉ, ngôn ngữ, âm nhạc, nghệ thuật, tri thức đã được chuẩn bị từ trước và tự phát trong quá trình thực hành các nghi lễ tín ngưỡng, được chắt lọc qua quá trình ra đời, tồn tại, phát triển của lễ hội đã có từ hàng trăm năm để phù hợp với từng thời kỳ lịch sử của đất nước, của dân tộc và của địa phương.
Như vậy, hình thức biểu hiện của di sản này được thể hiện trên các sản phẩm vật chất đặc trưng, rất đa dạng, phong phú và các sản phẩm tinh thần hội tụ trong tâm thức của chủ thể văn hóa, kèm theo tính "mở" trong khuôn khổ truyền thống vốn có của di sản qua óc tư duy và sáng tạo nghệ thuật của mỗi người phản ánh thực tế cuộc sống lao động sản xuất, môi trường cư trú, cảnh quan thiên nhiên với hệ thống động, thực vật đa dạng kèm theo đó là ước vọng, khát khao của cộng đồng về một cuộc sống bình yên, no đủ.
2.2. Quy trình thực hành: Theo tập quán truyền thống của người Mông, lễ hội “Gầu tào” thường do gia đình hoặc do nhân dân trong bản, trong vùng cùng nhau tổ chức để cầu phúc, cầu mệnh cho gia chủ hoặc cho cộng đồng. Lễ hội được tiến hành vào mùa xuân trong ba năm liền, mỗi năm người ta trồng một cây nêu và treo những vật trên cây để lấy phúc, lấy lộc. Hiện nay, lễ hội đang được tổ chức ở quy mô cấp huyện, thu hút sự tham gia của đông đảo cộng đồng người Mông ở các xã, thị trấn và được tổ chức trong 2 ngày (sau tết Nguyên Đán). Trong lý lịch này, chúng tôi mô tả quy trình thực hành di sản theo lễ hội hiện nay, đồng thời có sự liên hệ, bổ sung những thông tin thu thập được về lễ hội trước kia để so sánh, luận giải và có cái nhìn toàn diện, xuyên suốt hơn về di sản.
3. Thời gian và địa điểm
Những năm gần đây, lễ hội “Gầu tào” được tổ chức ở quy mô cấp huyện, trở thành lễ hội của cộng đồng tộc người Mông vào dịp đầu xuân hằng năm (trong khoảng từ mùng 5 đến mùng 10 tháng giêng).
Lễ hội “Gầu tào” trước kia thường được tổ chức trong khoảng từ ngày mùng 1, mùng 2 đến mùng 5 tháng giêng, tùy thuộc vào tuổi của gia chủ hợp với ngày nào. Nếu lễ hội được tổ chức hàng năm thì lễ hội sẽ kéo dài 03 ngày và liên tục trong 3 năm. Nếu tổ chức một lần thì số ngày gộp lại kéo dài tới 9 ngày.
Địa điểm tổ chức lễ hội “Gầu tào” được gọi là “Hấu tào” (tức là đồi hội), là một quả đồi thấp, thuận tiện đi lại, đỉnh bằng phẳng tạo nên một bãi rộng và được bao quanh bởi những ngọn đồi cao hơn, phía trước có một không gian trũng, hẹp. Đồi “Gầu tào” thường quay theo hướng Đông để cây nêu khi dựng lên ngọn từ hướng Đông để đón được ánh nắng mặt trời. Người Mông quan niệm, quả đồi “Gầu tào” tượng trưng cho phúc mệnh của gia chủ, của cộng đồng. Không gian trũng phía trước tượng trưng cho sự đứt gãy, không may mắn; những ngọn đồi phía sau cao hơn tượng trưng cho sự phát triển, sinh sôi nảy nở, con cái hơn cha mẹ, tài lộc ngày càng nhiều.
4. Công tác chuẩn bị lễ hội
Lễ hội tổ chức vào những ngày đầu tháng giêng hằng năm, nhưng việc chuẩn bị được tiến hành từ cuối tháng Chạp, với việc tìm và chọn cây nêu.
Để tổ chức lễ hội “Gầu tào”, cộng đồng (gia chủ trước kia) phải mời chủ lễ (tiếng Mông gọi là “trứ tào") giúp chủ trì lễ hội và một người phụ nữ giúp việc (tiếng Mông gọi là “nẹ tào”). Đây đều là những người có gia cảnh yên ấm, cuộc sống hạnh phúc, con cháu đầy đủ, kinh tế khá giả. Ngoài ra, cộng đồng cũng chọn và mời thêm những gia đình vợ chồng trẻ, khỏe mạnh, có cuộc sống hạnh phúc, có cả con trai, con gái thông minh, giỏi giang hoặc các thanh niên nam, nữ để giúp việc chuẩn bị các lễ vật.
Từ trước tết, để chuẩn bị cho lễ hội “Gầu tào”, đại diện cộng đồng hoặc gia chủ (trang gầu) sẽ thông báo tới bà con dân bản gần, xa, mời những người thân quen, những vị khách quý tới dự lễ hội. Những vị khách được mời này đều đến dự và có quà tặng là những sản vật của gia đình như: gạo tẻ, gạo nếp, gà, rượu, thậm chí giã bánh dày mang đi làm quà biếu để thể hiện tình cảm của khách đối với gia chủ, dòng họ.
Bên cạnh những khách được mời trực tiếp, qua thông báo rộng rãi trong dân bản, khi đã biết có thông tin tổ chức lễ hội sẽ chủ động tới tham dự lễ và các hoạt động vui chơi dân gian trong lễ hội cùng chủ lễ và bà con dân bản.
* Nghi thức chặt cây nêu (trá dề xê)
Vào ngày đi chặt cây nêu (trước kia thường là ngày 30 tết cổ truyền hoặc những ngày cuối tháng chạp), gia chủ bày mâm lễ để chủ lễ và những người giúp việc tiến hành nghi thức cúng trước khi xuất hành. Ngày nay, ngay trước ngày diễn ra lễ hội chính thức, thầy cúng và những người giúp việc làm lễ xin đi chặt cây nêu tại ban thờ của gia đình thầy cúng.
Lễ vật gồm có: rượu, nước, giấy bản, hương. Thầy cúng đọc bài cúng “Thov daab qhuas” với ý xin tổ tiên, ma nhà phù hộ cho đoàn người vào rừng chặt được cây nêu tốt. Nội dung bài cúng như sau:
Sau đó, chủ lễ xòe ô, hát bài “sáy dìn sê” (đi tìm cây nêu) và dẫn đoàn người là con cháu của gia chủ hoặc những thanh niên khỏe mạnh đã được chọn giúp việc (thường gia chủ nhờ anh trai, chị dâu - những người có cả con trai và con gái, nếu gia chủ cầu phúc, cầu con; nếu gia chủ cầu mệnh, mong mọi người trong nhà được khỏe mạnh, xua đuổi hết bệnh tật, ốm đau, làm ăn tấn tới thì sẽ cử hai thanh niên khỏe mạnh trong dòng họ) vào rừng, đến chỗ cây gỗ đã được chọn trước, để chặt cây nêu. Cây được chọn phải là một cây gỗ cao từ 5 - 7m trở lên, sống độc lập một mình ở giữa rừng, không sâu bệnh, không cụt ngọn, ngọn cây hướng về phía mặt trời mọc, mang về trang trí để dựng thành cây nêu cho lễ hội. Theo quan niệm dân gian, đồng bào phải chọn những cây sống một mình vì đó là những cây thiêng, cây tốt có thể dâng cúng cho thần linh, tổ tiên và các ma đồng thời cũng là có thể giao hòa đất, trời, kết nối giữa con người với thần linh, qua đó, thần linh mới đón và nhận được những câu tạ ơn, những lời cầu khấn của gia chủ, cộng đồng.
Khi đi vào rừng chặt cây, chủ lễ mang theo một thẻ hương, một mảnh vải đỏ khoảng 1m (gọi là “phang tau la”), để cuốn vào gốc cây, được coi là biểu tượng, thay cho chiếc cờ, báo hiệu cho người dân biết đây là cây thiêng. Mảnh vải đỏ này cuốn vào thân cây với ý nghĩa lấy lộc cho cây.
Trước khi chặt cây, gia chủ (hoặc chủ lễ) đứng trước gốc cây, hướng về phía mặt trời mọc, thắp 9 nén hương (theo quan niệm của người Mông thì số chín tượng trưng cho chữ “sinh” trong chu kỳ vòng đời của mỗi con người) và khấn bài xin chặt cây nêu, Nội dung bài cúng như sau:
Hôm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, cộng đồng tổ chức “Gầu tào”, xin thần núi, thần rừng, thần sông, thần suối, thần cây có sức mạnh và sự liêng thiêng sẽ phù hộ cho gia đình, dòng họ và mọi người, để năm mới không bệnh tật ốm đau, con cháu học hành giỏi, làm ruộng, làm nương, trồng lúa trồng ngô, chăn nuôi gia súc gia cầm, buôn bán, kinh doanh mọi sự đều thành, đều tốt, làm gì được nấy, con cháu đầy nhà. Có 3 thẻ hương, một sớ giấy, 2 chén rượu để dâng lên và xin chặt cây nêu. Xin hồn cây về giúp cho công việc của gia đình, cộng đồng diễn ta tốt đẹp, thuận lợi, xin thần rừng, thần cây đồng ý chặt cây đẹp, cây thiêng về làm cây nêu (dềnh xê) trong lễ hội nhé.
Kết thúc lời khấn, gia chủ, chủ lễ và đoàn người vái 3 vái trước cây gỗ đã được chọn và chủ lễ chặt ba nhát rìu làm phép sau đó những người giúp việc mới bắt đầu chặt tiếp để hạ cây xuống, khi chặt lựa sao cho cây đổ về phía mặt trời mọc, chặt cây tận gốc và nâng đỡ để cây nêu không chạm đất, các cành nhỏ được chặt lần lượt từ gốc lên ngọn, đến gần ngọn thì để lại 5 hoặc 7 cành lá, phần ngọn giữ nguyên. Sau khi cây được chặt hạ xuống, chủ lễ sẽ tháo mảnh vải đỏ được buộc ở gốc lúc trước treo lên ngọn cây nêu, kể từ lúc này, dải vải được xem như một lá cờ trong lễ hội “Gầu tào” để thông báo tới bà con trong vùng, thanh niên nam nữ, bản trong bản ngoài, từ vùng gần đến vùng xa truyền tai nhau, biết để cùng tới tham dự lễ hội vào dịp đầu năm mới và cùng cầu xin thần linh ban may mắn, hạnh phúc đến cho bản thân, gia đình và cộng đồng mình.
Cây nêu sau khi được chặt hạ, mọi người cùng nhau khiêng về địa điểm chính diễn ra lễ hội hiện nay (nhà gia chủ trước kia), không nghỉ giữa đường, dựa trước cửa chính của ngôi nhà (cửa này gọi là “cửa ma” hay “kháo trùng tằng”). Đây là cửa quan trọng nhất trong ngôi nhà của người Mông, họ quan niệm, cây nêu được chặt về, dựa vào đây sẽ được ma cửa và toàn bộ hệ thống ma nhà, thần linh xung quanh ngôi nhà bảo trợ.
* Lễ cúng báo tổ tiên và hệ thống ma thờ trong đêm 30 tết
Trước kia, khi có gia đình đứng ra tổ chức lễ hội “Gầu tào” thì vào tối ngày 30 tết cổ truyền của người Mông, gia chủ tiến hành các nghi thức cầu cúng truyền thống trong thời khắc của năm mới. Các nghi thức được gia chủ tiến hành lần lượt là: cúng tổ tiên (trừ xử cang), cúng ma nhà (úa tlang), cúng thần cột nhà (bùa đăngz), cúng thần cửa (bùa trùngz), thần bếp lò, bếp nấu ăn, các nghi thức cúng đồ dùng, dụng cụ lao động trong gia đình như: cày, bừa, cuốc, thuổng, dao phát,… tất cả đều được dán giấy đỏ và coi như đó là lời tạ ơn đến các thần đã phù hộ cho gia chủ một năm bình an, may mắn, lao động được mùa, lương thực đầy bổ, con người no đủ.
Sau khi thực hành các nghi thức cúng truyền thống, gia chủ kết hợp cúng thông báo với tổ tiên về việc gia đình có cây nêu để chuẩn bị cho lễ hội “Gầu tào” và xin thần linh cùng các ma nhà phù hộ để cây nêu được “sạch sẽ” trong suốt thời gian diễn ra lễ hội, đồng thời cúng thần núi bảo vệ cho cây nêu từ khi dựng đến khi hạ cây nêu, kết thúc lễ hội. Bài cúng có nội dung như sau:
“Hôm nay, đêm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tôi có giấy bản để thờ là một mảnh, một rổ gạo, một ngọn đèn thắp sáng bằng mỡ lợn, 12 thẻ hương, rượu 4 chén, giấy 4 sớ, gà trống lông màu đỏ một con để dâng lên cho ma nhà, ma cửa. Cầu mong năm mới các vị phù hộ cho gia đình không bệnh tật ốm đau, con cháu học hành thành đạt, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, giao lưu bạn bè bốn phương được tôn trọng, kính nể, buôn bán, kinh doanh thuận lợi, thu hái được nhiều tiền của đầy chum đầy hũ, con cái không ốm đau, không bệnh tật, không phải cúng bái, thuốc thang. Năm cũ qua đi, năm mới đến, ma nhà, ma cửa của gia chủ luôn mở cửa chờ đón tài lộc: Lộc con cái, lộc tiền tài, lộc mùa màng, lộc gia súc gia cầm đến cho gia chủ.
Đóng cửa lại để xua đi bệnh tật, ốm đau, tai tiếng không tốt, xua đi những vong hồn ma xấu. Bây giờ tôi dâng gà sống, lúc sau tôi làm được thịt chín, cơm chín, rượu ngon tôi mới mời các vị về ăn. Sớm mai trời sáng, mời ma nhà, ma cửa cùng tôi mang cây nêu, cây thiêng đi dựng ở đỉnh cao, đỉnh đồi đẹp để làm lễ tạ ơn thần linh, để thần linh phù hộ cho gia đình, dòng họ, bản làng và mọi người. Xin tổ tiên, các ma và các thần linh đi dự hội cùng và tiếp tục phù hộ cho chúng tôi trong năm tới có sức khỏe, sinh con cái được như ý muốn để con cái đầy nhà, có trai có gái, nuôi trồng được nhiều gia súc, lúa ngô được mùa, gặp nhiều may mắn hơn trong năm mới”.
Các nghi thức này do chủ nhà đứng ra thay mặt gia đình tiến hành lần lượt các nghi lễ để báo cáo với tổ tiên, với các ma và các thần linh trong suốt đêm 30 tết của đồng bào.
Ngày nay, lễ hội được tổ chức ở quy mô cộng đồng nên cây nêu được chuyển về địa điểm tổ chức lễ hội để trang trí và dựng luôn chứ không chuyển về nhà gia chủ nên không có nội dung cúng bảo tổ tiên và các ma nhà như trước đây nữa.
* Trang trí cây nêu và nghi thức dựng cây nêu
Cây nêu là một biểu tượng quan trọng nhất trong lễ hội “Gầu tào” của đồng bào Mông, đây được xem như một biểu tượng “thông quan” giữa con người với thần linh, giữa con người với các thế lực siêu nhiên. Mọi tâm tư nguyện vọng của gia đình cũng như của những người đến dự lễ hội được gửi vào cây nêu. Cây nêu được coi là cây thiêng, thông qua cây nêu chuyển gửi những nguyện vọng của mỗi cá nhân, gia đình, dòng họ, bản làng tới tổ tiên, các ma và hệ thống thần linh của người Mông. Cây nêu với màu sắc trang trí sặc sỡ được dựng lên trên một khoảng đất thoáng rộng, bà con gần xa đi chợ tết, vui chơi, mua sắm, nam nữ thanh niên gần xa nhìn thấy cây nêu là biết sắp có lễ hội, chuẩn bị váy áo, thời gian tham gia vui tết, đón xuân, dự hội.
* Trang trí cây nêu:
Trước khi cây nêu được dựng, gia chủ, cộng đồng sẽ tiến hành trang trí cây nêu. Giấy bản được cắt thành những sâu tiền, nối thành ba dây dài, treo lên các cành của cây nêu. Các dây vải màu xanh, đỏ, vàng, mỗi dây dài 2m được treo lên ngọn cây nêu. Các hình nhân cắt từ giấy màu xanh, đỏ, vàng được treo lên thân cây nêu. Thân cây nêu được dán từng đoạn giấy các màu xanh, đỏ, vàng đan xen nhau rất nổi bật. Người Mông quan niệm, màu đỏ biểu trưng cho sự may mắn; màu vàng biểu trưng cho mặt trời thể hiện sự ấm áp, hạnh phúc; màu xanh biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở. Treo hình cắt từ các loại giấy màu này trên cây nêu, đồng bào Mông mong muốn một năm mới mỗi gia đình và toàn thể cộng đồng sẽ gặp nhiều may mắn, hạnh phúc… Sau khi cây nêu đã được trang trí cẩn thận, gia chủ, cộng đồng chọn giờ tốt để tiến hành dựng cây nêu.
* Nghi thức dựng cây nêu:
Trước kia, nghi thức dựng cây nêu thường được tiến hành vào ngày 01 tết cổ truyền của người Mông, bắt đầu lễ hội “Gầu tào”. Ngày nay, nghi thức dựng nêu được tiến hành trước khi diễn ra lễ hội chính thức 01 ngày tại địa điểm mở lễ hội.
Trước khi dựng cây nêu, chủ nhà tiến hành nghi thức cầu khấn xin thần núi, thần đất cho phép gia chủ dựng cây nêu “Gầu tào” tại đây, cây nêu thẳng đứng, được dựng hiên ngang giữa đất trời, tượng trưng cho sức mạnh, sự thanh tao, thắng thắn, trung thực của con người Mông giữa thanh thiên bạch nhật, được đất trời chứng giám. Nội dung bài cúng xin dựng cây nêu như sau:
“Hôm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, cộng đồng tổ chức lễ hội “Gầu tào”, xin thần núi, thần rừng, thần sông, thần suối, thần cây có sức mạnh và sự liêng thiêng cho phép gia đình, dòng họ và mọi người được dựng cây nêu đứng thẳng, dựng cây nêu an toàn trong suốt quá trình diễn ra lễ hội, để cộng đồng gần xa được biết và đến dự hội, cầu cho các gia đình, dòng họ và mọi người một năm mới mạnh khỏe, bình an, sản xuất được mùa, cuộc sống no đủ”.
Kết thúc bài cúng, chủ lễ vái đất trời 3 vái, sau đó cùng mọi người đào đất để dựng cây nêu, vị trí chôn cây nêu của năm sau không trùng với năm trước. Khi cây nêu được khiêng tới địa điểm tổ chức lễ hội, chủ lễ buộc lên ngọn nêu hai dải vải lanh màu đen (thể hiện sự tập hợp lực lượng) và màu đỏ (để mời tổ tiên về dự hội), hiện nay, vải lanh được thay bằng 05 lá cờ đỏ sao vàng, một bầu rượu, ba bông lúa nếp (tượng trưng cho tài lộc) và một túm cây “sưi” (họ dương xỉ, tượng trưng cho sự sinh sôi) rồi mọi người cùng nhau dựng nêu, lấp đất thật chặt sao cho cây nêu thực sự vững chắc, gió không làm đổ được cây, khi dựng cây nêu, ngọn cây được điều chỉnh theo hướng mặt trời mọc để đón được những điều may mắn, tốt đẹp nhất trong năm mới.
Khi thấy cây nêu cao giữa đồi “Hấu tào”, mọi người trong vùng biết năm ấy có lễ hội “Gầu tào”. Không khí hội hè nhộn nhịp, mọi người thông tin cho nhau ở chợ, ở trên đường, bên suối, trong bản… về lễ hội và hẹn nhau cùng đi. Trong các xã, các bản, mọi người cùng tập hợp thành các đội để tham gia các hội thi và chơi các trò chơi dân gian hay tập các bài khèn, các điệu múa để “khoe tài” trong ngày hội. Đây cũng là dịp để nam nữ chuẩn bị quần áo đẹp, vui chơi cùng chúng bạn, gặp gỡ người yêu, tìm kiếm một nửa của mình, bộc bạch tình cảm qua những bài hát, lời thương mà thường ngày họ không thể thổ lộ.
* Lễ cúng chính thức
Sau khi dựng cây nêu xong, dưới gốc cây, người ta đặt một chiếc bàn gỗ nhỏ 4 chân truyền thống để lễ vật dâng cúng. Những người giúp việc treo khèn lên cây nêu, đặt tiền giấy dưới gốc cây, gia chủ, cộng đồng làm một mâm cúng trịnh trọng đặt trên bàn dưới gốc cây nêu. Lễ vật gồm có: giấy bản, 01 bát gạo, 01 bát nước, 01 bầu rượu, 08 chén nứa được chia đều, đặt ở 4 góc bàn lễ và ống nứa dài dùng để dựng rượu, đặc biệt lễ vật không thể thiếu là con gà trống.
Bắt đầu vào lễ chính thức, chủ lễ thắp hương, tay cầm con gà trống còn sống, đi ngược chiều kim đồng hồ quanh cây nêu, cúng báo và mời các vị thần trời, thần đất, thần suối, thần núi ở 4 phương trời, 4 phương đất; mời các vị xuống chứng giám và phù hộ cho mọi gia đình, dòng họ, bản làng một năm mới không bệnh tật ốm đau, chăn nuôi gia súc, gia cầm đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, con cái đủ đầy, nhà nhà no ấm,… Mọi người trong gia chủ (trước kia), đại diện các dòng họ, cộng đồng làng bản (ngày nay) có mặt phía sau chủ lễ, quỳ xuống khấn các vị thần linh, cầu may mắn cho gia đình, dòng họ, cộng đồng. Trong khi làm lễ, mọi người tham gia đều cố gắng sử dụng những từ ngữ hoa mỹ, thanh cao, những câu nói mĩ miều, ví von (pàng lù), những câu tục ngữ khoa trương (lù txà) với mong muốn đón mọi điều tốt đẹp. Nội dung bài cúng như sau:
“Hôm nay là ngày tốt, ngày lành. Năm cũ qua đi, năm mới đến, tôi đến đây cúng, cầu các vị thần: thần trời, thần đất, thần sông và thần núi ở 4 phương trời, 4 phương đất. Cây thiêng (cây nêu) có một cây được chôn dưới đất ngọn thẳng vút lên tận trời xanh, hương có12 thẻ, giấy có 4 sớ, giấy vàng giấy bạc có 12 cái, rượu có 4 chén, gà trống lông màu đỏ một con. Con gà trống này là gà trống của trời của đất, toàn thân có bộ lông màu đỏ rực giống như rồng bạo chúa, đỉnh đầu đội mũ có 9 cái sừng, đôi chân mang theo một đôi sừng nhọn như sừng trâu, hai cái cánh mang 24 thanh kiếm hai lưỡi màu đỏ. Con gà trống này ăn gạo, ăn chấu, ăn hàng nghìn hàng vạn thứ. Mở miệng gáy một tiếng rung động cả đất trời, gáy một tiếng đánh thức cả mặt trời chiếu sáng muôn nơi, tôi mang con gà trống này về cầu cúng các vị thần, thần trời, thần đất, thần sông và thần núi ở 4 phương trời, 4 phương đất. 4 vị thần cai quản, các vị xuống đây để giúp và phù hộ gia đình, dòng họ, bản làng và tất cả mọi người, năm mới phù hộ cho gia đình gặp nhiều may mắn, con cháu học hành thành đạt, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, giao lưu bạn bè bốn phương được tôn trọng, kính nể; buôn bán, kinh doanh thuận lợi, thu hái được nhiều tiền nhiều của đầy chum đầy hũ; con cái đủ đầy, có trai có gái, không ốm đau, không bệnh tật, không phải cúng bái, thuốc thang.
Thần trời, thần đất, thần sông và thần núi. 4 vị thần ở 4 phương trời, 4 phương đất xuống đây để nhận lễ gồm: Hương có12 thẻ, giấy có 4 sớ, giấy vàng giấy bạc có 12 cái, rượu có 4 chén, gà trống lông màu đỏ một con. Bây giờ các vị thần nhận lễ vật sống, khi làm được thịt chín, cơm chín, rượu ngon thì tôi mời các vị về ăn về uống”.
Sau khi thầy cúng xong, chủ lễ cùng hai thanh niên cắt tiết gà, lấy một phần đổ vào gốc cây nêu để mời tổ tiên về dự và bảo vệ cây nêu trong suốt thời gian diễn ra lễ hội “Gầu tào”, phần tiết còn lại dùng giấy cúng chấm vào rồi hóa để thần linh nhận lễ vật và phù hộ cho cộng đồng. Sau đó, đem gà đi giết thịt, luộc chín để dâng cúng các vị thần linh.
Tiếp đó, thầy cúng mời đội khèn nghi lễ trình diễn một số điệu khèn vui xuân trước ban thờ thần linh, xung quanh cây nêu. Kết thúc phần trình diễn, thầy cúng mời mỗi người 2 chén rượu để cảm ơn.
Các đoàn khách đến tham dự lần lượt lên cúng tế các vị thần linh, cầu mong cho gia đình, cộng đồng mình năm mới bình an, mạnh khỏe, ấm no, đủ đầy. Để cảm ơn, thầy cúng và những người giúp việc thay nhau mời mỗi người 2 chén rượu bằng ống nứa thể hiện sự mến khách và ước hẹn cùng nhau làm những điều tốt lành trước sự chứng giám của trời đất, tổ tiên và các thần linh đồng thời cầu cho mưa thuận gió hòa để cộng đồng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Trước kia, gia chủ tổ chức thì khách đến dự, người có ống gạo, người có gùi ngô, người mang hũ rượu, xách đôi gà, mọi người đến đều vào làm lễ cầu chúc cho gia chủ trước tiên, sau đó cầu chúc cho mọi người yên vui, khỏe mạnh, cầu chúc cho mùa màng bội thu, lợn đầy chuồng, gà đầy sân. Chủ nhà nói lời cảm ơn lòng tốt của khách và chúc mừng khách tới dự lễ hội có một năm mới nhiều may mắn, mời lại mỗi vị khách 2 chén rượu để cảm tạ.
Kết thúc lễ cúng chính bên cây nêu, chủ lễ tuyên bố mở hội, các nội dung của phần hội được bắt đầu.
* Phần hội
Trong lễ hội “Gầu tào”, người ta không tách hoàn toàn phần lễ và phần hội. Sau phần lễ chính trịnh trọng, trang nghiêm là phần hội diễn ra rất sôi nổi với nhiều trò chơi dân gian và nhiều hội thi được đông đảo người dân tham gia cũng như cổ vũ nhiệt tình. Người Mông coi việc thực hành các trò chơi, các hoạt động nghệ thuật trình diễn này không chỉ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng hiện tại mà đó còn là những hình thức thể hiện tài năng, biểu diễn nghệ thuật truyền thống để dâng lên các vị thần, để các vị thần chứng giám cuộc sống thực tế của cộng đồng, vui niềm vui chung của cộng đồng.
Nghi thức khai hội được mở đầu bằng những điệu khèn của các chàng trai người Mông khỏe mạnh đến từ các làng bản, các xã trong toàn vùng. Những bài khèn mang tính nghi lễ được thực hành trước, đó là: “kềnh o chu” (khèn hai bước); “kềnh pây chu” (khèn ba bước); “kềnh plâu chu” (khèn bốn bước); “kềnh thâu ca” (khèn quay vòng); “kềnh cho lầu” (khèn tiến, lùi); “kềnh nào pi chầu” (khèn mừng năm mới),...
Sau đó, mọi người dự hội đều có thể vào trình diễn khèn, hát…theo sở thích của mỗi cá nhân, các cây khèn được lấy từ cụm khèn mà cộng đồng chuẩn bị sẵn, treo ở gốc cây nêu, các điệu khèn được mọi người tự do trình diễn, thường là: “kềnh chú đí" (khèn đi chơi buổi sáng xuân đầu tiên); “kềnh nọp pi chầu” (khèn đi chơi tết); “kềnh oxi” (khèn vui ngày xuân); “kềnh nộng rừ” (khèn chơi xuân); “kềnh mông oxi/mông ua” (đi chơi ngày xuân),… Sau khi trình diễn, mọi người đều được chủ lễ hoặc gia chủ (trước kia) mời rượu để cảm ơn.
Các trò chơi dân gian được thực hành trong lễ hội “Gầu tào” rất phong phú, gồm tất cả các trò chơi truyền thống có trong đời sống của đồng bào như: đua ngựa, bắn nỏ, đánh quay, ném pao, đánh cầu lông gà, kéo co, đẩy gậy, thi trình diễn các điệu khèn, thi giã bánh dày, thi dùng sáp ong tạo hoa văn trên vải,… các trò chơi được diễn ra liên tục trong sự cổ vũ, hò reo của đông đảo bà con dân bản.
Bắn nỏ: trò chơi bắn nỏ quy định tiêu điểm chỉ bằng chiếc lá nhỏ hoặc bằng hạt ngô, cách vị trí đứng khoảng 20 đến 25m, từng người đi thi mang theo cây nỏ của mình, lần lượt từng người một vào bắn để phân thắng bại, người thiện xạ nhất sẽ được thưởng một bầu rượu ngon. Trong cuộc sống, người Mông làm cây nỏ để rèn luyện sức khỏe, bắn chim, săn thú. Nỏ được coi là vũ khí lợi hại để bảo vệ bản làng khi có giặc thù. Người bắn giỏi phải tập luyện thường xuyên, tập cho đôi tay khỏe, đôi mắt tinh nhanh. Không chỉ nam giới mà nữ giới người Mông cũng rất mê bắn nỏ, thậm chí có người còn đạt thành tích cao ngang ngửa nam giới. Vì thế, trong nhiều cuộc đua tranh ở bản làng hay tại ngày hội thể thao lớn trong vùng đều có đông đảo nam nữ tham gia.
Đánh quay (tầu tù lu): trò đánh quay thu hút đông đảo thanh, thiếu niên tham gia, quay to, quay nhỏ đủ cỡ được tung ra, thu hút sự cổ vũ nhiệt tình của nhiều người dân trong bản, trong vùng. Đánh quay là trò chơi dành cho con trai, giúp người chơi rèn luyện sức khỏe, độ khéo léo, tinh nhanh, phán đoán tốt và được đồng bào Mông ở Yên Bái rất ưa chuộng trong ngày tết. Thi chọi quay bao giờ cũng thu hút được nhiều người chơi, nhiều khán giả hâm mộ. Tù lu (con quay) được làm từ sừng súc vật hoặc từ những loại gỗ cứng như: sồi, lim, nghiến hay gốc sơn tra... có đường kính từ 7 - 10 cm. Nếu đẽo bằng gỗ không tốt, khi đi chọi sẽ bị vỡ toác ra. Thân con quay được chế tác theo hai hình dạng chính: hình quả chuông và hình nón cụt, có hai đầu, đầu nhọn có tác dụng là điểm chạm của con quay, đầu kia gọt bằng, khi chơi là điểm đánh của những người chơi khác. Để làm được một con quay đạt yêu cầu phải mất từ 40 - 60 phút. Dây đánh quay được se bằng lanh, được gọi là “cua”, được nối với một đoạn “pảng” - gọi là gậy làm bằng một đoạn trúc rừng nhỏ cỡ ngón tay cái. Chiều dài và kích thước của dây phù hợp với sải tay của người chơi cũng như kích thước con quay. Để chơi quay, người chơi thường chọn những bãi đất rộng, phía đối diện có ta luy cao nhằm tránh cho con quay khi chơi văng xuống núi và đảm bảo không gây thương tích cho người chơi. Để bắt đầu cuộc chơi, một người thả quay ra khoảng trống trước mặt để làm mồi. Khi con quay mồi đang nhảy nhót, quay vù vù thì một người khác vung tay lên bổ xuống một con quay khác giáng mạnh vào con quay mồi. Có con quay mồi bị giáng mạnh còn vỡ toác ra. Tiếng xuýt xoa khen ngợi nổi lên. Nếu chọi không trúng, thì con quay chọi lại phải thay thế con mồi. Cứ thế đến lúc tìm ra được con quay khỏe nhất, tít nhất và người chủ quay chơi điêu luyện nhất. Đánh quay có 2 hình thức chủ yếu: thi quay tít và chọi quay. Đầu tiên các bạn trẻ thường thi quay tít. Một vòng tròn được vạch trên đất bằng cách vạch người đứng thi từ 5 -7m, mọi người đứng dàn hàng ngang ở vạch thi đấu, khoảng cách vừa phải để khi vung tay khỏi va chạm vào nhau. Thường người chơi quấn quay theo chiều tay thuận của mình. Khi có tiếng hô “tầu lâu” (đánh đi) của chủ trò thì lần lượt từng người chơi xuống quay để so tài. Những con quay lao vút vào vòng quay phát ra những tiếng kêu vo vo, vù vù quay tít, con quay nào quay lâu nhất sẽ được mọi người trầm trồ khen ngợi. Con nào nhảy chồm chồm vượt ra khỏi vòng tròn rồi đổ lăn ra là chưa đạt. Có nơi người chủ quay còn dùng dây quất vào cạnh tròn của con quay, tạo ra một lực tiếp tuyến để nuôi quay quay tít được lâu hơn. Loại quay tròn có núm, người ta có thể hất lên cho quay trong lòng bàn tay. Cuối cùng, ai có quay sống lâu hơn thì được quyền chơi tiếp, người kia xuống quay để những người còn lại đánh vào con quay của mình. Kỹ thuật chủ yếu của trò đánh quay gọi là bổ, cách thực hiện khá đơn giản, chỉ cần quấn chặt dây quay vào con quay bắt đầu từ điểm mấu quấn dây tiếp xúc với thân quay theo vòng rộng dần. Người chơi hơi cúi xuống và khuỵu chân, để con quay ở khoảng ngang bụng, giữ chặt đầu dây còn lại (hoặc quấn vào ngón tay) để bổ con quay, nghĩa là lăng cho con quay văng ra và thường kết hợp với lực giật đầu dây đang giữ để con quay quay được nhiều vòng hơn. Còn có cách bổ quay khác là người chơi đứng thẳng, tay cầm quay cao ngang gáy rồi ném quay xuống theo phương thẳng đứng, tay giật dây di chuyển từ dưới lên trên, gọi là bổ thượng hoặc theo đường chéo gọi là bổ vát.
Đua ngựa: Nếu trò bắn nỏ thể hiện sự nhanh nhẹn, dẻo dai thì đua ngựa lại cần phải có một bản lĩnh tốt, cứng rắn để có thể điều khiển được những con ngựa trên đường đua. Từ bao đời nay, ngựa là con vật đã gắn bó với người Mông như một “chiếc xe không cần động cơ”, ngựa chính là “người bạn” khuôn vác hàng hóa trên những chặng đường đồi núi gập ghềnh, giúp họ trong cuộc sống hàng ngày, đồng thời ngựa còn là người bạn trung thành của người Mông. Trò đua ngựa thể hiện tinh thần phóng khoáng, dũng cảm, sự tự tin mãnh liệt. Trong lao động sản xuất, người ta cũng có thể đua ngựa để kiểm tra xem ngựa có tốt không, người điều khiển có tài không. Đua ngựa thường tổ chức vào các dịp vui xuân đón tết, trong hội chính thức được cả làng, bản chứng kiến cổ vũ rất náo nhiệt. Khi có người già khởi xướng đua ngựa, nhà nhà hưởng ứng chuẩn bị cuộc đua. Những chàng trai cũng chọn cho mình một con ngựa tốt, móng đẹp, răng khỏe, chạy êm để chăm sóc đưa đi tỉ thí. Người chơi đề cao tính trung thực và lòng dũng cảm, chiến thắng bằng sức khỏe của chú ngựa và sự khéo léo, dẻo dai của người cầm cương. Quà tặng cho người thắng cuộc không nhiều, có thể chỉ là vài chén rượu, nhưng những lời khen, sự kính nể là điều mà chàng trai Mông thắng cuộc cảm thấy tự hào nhất.
Ném pao (lảy pao): “Lảy pao” được xem là trò chơi dân gian truyền thống, đặc sắc của tộc người Mông ở Tây Bắc nói chung và ở Yên Bái nói riêng trong ngày tết. Quả “pao” là sản phẩm thể hiện sự cần cù, chăm chỉ và khéo léo của phụ nữ Mông. Quả “pao” được các cô gái Mông tự tay khâu rất cẩn thận và tỉ mỉ từ các mảnh vải lanh thành trái tròn to bằng quả cam. Bên trong quả “pao” được nhồi hạt lanh tượng trưng cho sự sinh sôi và phát triển.Trò chơi ném “pao” thường được diễn ra ở những khu đất rộng tương đối bằng phẳng, người chơi được chia làm hai bên nam - nữ hoặc nữ - nữ. Hai bên đứng cách nhau khoảng 5 - 7 m. Những người con gái Mông váy áo sặc sỡ, khoe tài và sự duyên dáng của mình qua những quả “pao” được ném qua ném lại. Con gái Mông học ném “pao” từ khi còn bé và rất thuần thục với trò chơi này, thậm chí còn khéo léo đỡ “pao” hơn cả con trai. Từ việc ném qua ném lại quả “pao”, nhiều chàng trai, cô gái đã hiểu ý nhau, họ chơi cả ngày không biết chán, để rồi tìm hiểu, yêu thương, nên vợ nên chồng.
Đẩy gậy: Đây cũng là một trong những môn thể thao truyền thống, không thể thiếu trong những ngày hội của đồng bào Mông, thể hiện tinh thần thượng võ, đề cao sức mạnh, sự dẻo dai, cả con trai và con gái đều có thể tham gia. Để tổ chức thi đấu môn đẩy gậy chỉ cần có gậy thi đấu làm bằng tre già thẳng hay những thanh gỗ tốt có chiều dài 2m, đường kính từ 4 - 5cm, được sơn 2 màu đỏ và trắng hoặc đỏ và xanh; đầu và thân gậy phải được bào nhẵn và có đường kính bằng nhau. Vẽ một vòng tròn có đường kính 5m trên một khoảng đất rộng. Sau khi các cặp đôi thi đấu đã chuẩn bị xong, một người được giao nhiệm vụ làm trọng tài phát lệnh cho trận đấu bắt đầu. Hai bên tay ghì phần gậy của mình, dùng sức đẩy đối phương. Theo quy định, bên nào chân chạm vào vạch hoặc bị đẩy ra khỏi vòng tròn trước là thua cuộc.
Kéo co: Đây là trò chơi dân gian phổ biến đối với nhiều cộng đồng tộc người ở Việt Nam. Để thực hành trò chơi, người ta phải chuẩn bị dây kéo, thường là dây được kết từ song mây (gần đây có cả dây thừng), kẻ một vạch ở giữa ngăn cách hai đội. Ở giữa sợi dây kéo, ban tổ chức buộc một dải vải đỏ với ý nghĩa làm mốc đánh dấu khi thi đấu, ngoài ra dây vải đỏ còn mang ý nghĩa tượng trưng cho mọi việc được may mắn, thuận lợi, lúc nào cũng rực rỡ, thành công. Hai đội chơi chọn số lượng người gần như tương đương nhau về thể trọng, lần lượt nắm tay vào sợi dây, dùng sức kéo về phần của đội mình, hai đội cứ kéo giằng co, mọi người ở ngoài hò reo rộn rã. Hai đội kéo cho đến khi nào một đội kéo được đội kia vượt qua vạch ngăn cách, sang sân của đội mình thì sẽ giành phần thắng.
Đánh cầu lông gà: đây là trò chơi diễn ra nhộn nhịp ở nơi khuất gió. Hai bên đứng cách nhau khoảng 5 đến 7m, đánh quả cầu lông gà qua lại bằng những tấm gỗ cứng, bên này đánh lên, bên kia đỡ lấy và chuyền lại, cứ thế hạn chế cho quả cầu rơi xuống đất.
Các chàng trai khỏe khoắn của các bản thi với nhau các trò chơi thể hiện tinh thần thượng võ, đoàn kết, đề cao tinh thần cố kết cộng đồng.
Bên cạnh các trò chơi của nam thanh niên thì các cô gái cũng thể hiện tài năng của mình bên hội hát “Gầu plềnh”, cùng các chàng trai hát đối đáp, giao duyên, thổi kèn lá, đàn môi hay tham gia hội múa gậy “sênh tiền”. Khách gần, khách xa, người già, người trẻ khi đến tham gia hội, ai thích trò chơi gì thì đến sân chơi ấy để tham dự. Đám hội nào cũng nườm nượp người.
Đám hát “Gầu plềnh” (hát tình ca, đối đáp, giao duyên, hát vui hội hè): Đông vui, thu hút không chỉ các cặp trai thanh gái tú mà cả những người yêu cũ gặp nhau cũng tham gia hát thăm hỏi nhau với những câu ca đậm đà, tình cảm mà theo phong tục cổ truyền là được phép và cấm kỵ vợ hoặc chồng không được ghen tuông, ích kỷ. Những bài hát có thể ứng tác tức thì (gọi là “gầu chứ zỉ”) để giao duyên song cũng có thể thổ lộ tình cảm qua âm thanh của một nhạc cụ nào đó như: kèn lá, đàn môi, khèn, chơi nhị, thổi sáo hay những chiếc ống hát (là những ống mai nối hai đầu bằng sợi lanh, cách nhau khoảng 100-200m, nhìn thấy người bên này hát, người bên kia áp tai vào lắng nghe, giọng hát truyền nguyên vẹn qua sợi dây):
“Trời đã sang xuân, cái gì gọi xuân về
Chim “dì li” vẫy đuôi kêu ríu rít gọi xuân về
Nó bay chập chờn trên tít đỉnh núi
Mình chẳng có lòng thì thôi
Có lòng, mình tiễn ta đi thêm một quãng”.
Hội thi khèn: Ngày tết đến xuân về, những người đàn ông Mông đều mang theo khèn và biểu diễn những điệu múa khèn mạnh mẽ thể hiện sự khỏe mạnh, dẻo dai, khéo léo của mình bằng những động tác lăn, lộn, nhảy nhiều vòng mà tiếng khèn vẫn liền mạch không dứt. Trong khi đó, những người con gái Mông mặc trang phục truyền thống sặc sỡ sắc màu, đeo gùi, mang ô, sự mềm mại, khéo léo, uyển chuyển sẽ được thể hiện qua điệu múa của họ. Có thể nói, ngày tết, người Mông không chỉ vui xuân mà còn là dịp để các đôi trai gái tự tìm thấy nhau qua tiếng khèn, điệu múa, qua lời ca câu hát để tìm và gọi bạn tình của mình.
Hội thi giã bánh dày: Bánh dày là món ẩm thực không thể thiếu của người Mông trong những ngày lễ tết, phần thi giã bánh dày cần nhiều người tham gia trong một đội để có thể thay nhau giã liên tục. Các đội đến tham dự đều chuẩn bị máng gỗ, chày giã, gạo nếp đã đồ chín. Trong một khoảng thời gian nhất định, các chàng trai khỏe mạnh thay nhau giã, khi được, các cô gái khéo léo làm thành những chiếc bánh dày tròn, mịn, đặt trên những lớp lá dong tươi đem đi thi. Đội nào làm bánh đẹp, mịn, ngon miệng sẽ dành giải thưởng. Nhưng dù có giải thưởng hay không thì mọi người đều cùng nhau vui vẻ tham dự, chia sẻ, hòa mình vào niềm vui của ngày hội.
Hội thi vẽ hoa văn bằng sáp ong trên vải: Hội thi này thu hút đông đảo những người con gái Mông khéo tay, tỉ mỉ, cần mẫn. Mỗi người tự mang theo sáp ong, vải vẽ, bút vẽ của mình, tới hội thi, họ tự đun sáp ong nóng chảy, đến khoản 60 - 65 độ là có thể chấm bút, tạo tác các hình hoa văn trên tấm vải của mình. Ai là người vẽ đẹp nhất trong thời gian nhanh nhất sẽ giành chiến thắng.
Những cô gái chiến thắng trong cuộc thi vẽ hoa văn này rất thu hút sự chú ý của các chàng trai Mông.
Mỗi sân chơi đều có người chủ sự (gọi là “quán xử”). Gia chủ (trước kia) và chủ hội (ngày nay) sẽ là người có quyền nhất đối với toàn hội, bên cạnh đó sẽ có 2 đến 3 vị trung niên hay cao niên thạo đường ăn nói, cùng với gia chủ hay chủ hội quán xuyến mọi việc diễn ra trong ngày lễ hội. Ngoài ra, trước kia còn có người quản lý, chăm lo việc ăn uống (gọi là “xử quan”), giúp việc cho “xử quan” có người lo việc củi đuốc (gọi là “hẩu pâu tờ”), lo việc xay giã giần sàng (gọi là “hoan pâu zê”).
Lễ hội “Gầu tào” thu hút toàn thể cộng đồng người Mông trong vùng tham dự, từ các em bé với các trò chơi đơn giản tới các bạn thiếu niên, thanh niên nam nữ, các bậc trung niên đã định nơi chốn và cả các cụ bà cũng kéo nhau tới hội móm mém gặp nhau kể chuyện trước kia hay chăm chú lời ăn tiếng nói, dáng đi, nếp váy cho con cháu mình, cũng có thể cùng với các ông rạng rỡ mặt mày bên những mâm rượu, chăm cho các ông cho đến khi về tới nhà an toàn. Các cụ ông có thể miệt mài với việc chủ trì cho các buổi lễ, các cuộc chơi, các cuộc thi rồi cùng nhau quây quần bên những mâm rượu nói cười vui vẻ. Qua các trò chơi, qua những lời hát, từng đôi thanh niên nam nữ hiểu ý nhau, họ dần tách khỏi đám đông, ngồi tâm tình bên nhau, giao duyên, trao gửi yêu thương, tìm hạnh phúc lứa đôi để rồi nên vợ nên chồng. Lễ hội chính là cuộc vui của cả cộng đồng, mọi lứa tuổi đều tìm được cho mình những trò chơi, những thú vui mà ai cũng “mãi chẳng muốn về”.
Lễ hội “Gầu tào” là không gian văn hóa hội tụ đầy đủ nhất các trò chơi và nghệ thuật trình diễn dân gian truyền thống của tộc người Mông. Đồng bào quan niệm, đám hội càng đông vui thì lễ hội càng thành công, việc trả ơn các vị thần linh càng có kết quả tốt đẹp, đem lại phúc lành cho gia đình, sự yên vui cho cộng đồng. Ngoài nội dung của các nghi lễ thì phần hội chiếm đa số thời gian của lễ hội, thu hút sự tham gia của đông đảo người dân, thể hiện niềm vui ngày hội, tinh thần cố kết cộng đồng cũng như sức mạnh và sự kiên cường của tộc người trong điều kiện cư trú và đời sống vật chất còn nhiều khó khăn.
* Nghi thức hạ cây nêu và kết thúc lễ hội
Sau khi kết thúc các trò chơi dân gian truyền thống, cũng là lúc chiều muộn của ngày kết thúc lễ hội, trước khi hạ cây nêu, chủ lễ cúng hạ cây nêu. Nội dung bài cúng như sau:
“Bây giờ là giờ tốt, giờ lành, thần trời, thần đất, thần sông và thần núi; 4 vị thần ở 4 phương trời, 4 phương đất các vị đã phù hộ độ trì và chứng kiến dựng cây thiêng. Chúng tôi đã làm được thịt chín, cơm chín, rượu ngon, tôi dâng lễ vật tạ ơn mời các vị thần về ăn về uống rồi ban tài ban lộc, phù hộ cho gia đình, dòng họ, bản làng và tất cả mọi người, phù hộ cho gia đình không bệnh tật ốm đau, con cháu học hành thành đạt, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển đầy chuồng, mùa màng tốt tươi bội thu, giao lưu bạn bè bốn phương được tôn trọng, kính nể; buôn bán, kinh doanh thuận lợi, thu hái được nhiều tiền của đầy chum đầy hũ; con cái không ốm đau, không bệnh tật. Các vị đã phù hộ độ trì và chứng kiến dựng cây thiêng, bây giờ là giờ tốt, giờ lành lại mời các vị chứng kiến lễ hạ cây thiêng.
Hạ để ngọn cây thiêng ngả về hướng xườn đồi để phù hộ cho bản làng và mọi người con đường làm ăn phát đạt.
Hạ để ngọn cây thiêng ngả về hướng xườn núi để phù hộ cho bản làng và mọi người mùa màng bội thu.
Hạ cây thiêng, hạ để ngọn cây ngả về hướng vách đá để phù hộ cho bản làng và mọi người tránh được tất cả mọi điều xấu.
Hạ cây thiêng, hạ để ngọn cây ngả về tận chân trời để phù hộ cho bản làng và mọi người tránh được tất cả mọi tai ương.
Hạ cây thiêng, hạ để ngọn cây ngả về tận nơi mặt trời mọc để phù hộ cho bản làng mọi sự bình yên”.
Cũng như nghi thức lúc dựng cây nêu, khi hạ nêu, người ta phải cho cây ngả xuống theo hướng mặt trời mọc, thân cây không chạm đất, rồi vác cây nêu về nhà gia chủ (trước kia) hoặc chủ lễ theo hướng gốc vào trước ngọn vào sau.
Sau lễ cúng toàn bộ giấy bản, hình nhân (nếu có) được đốt để hóa cho các vị thần linh, tổ tiên. Nếu là gia đình tổ chức lễ hội, vào lúc hạ cây nêu, kết thúc lễ hội, chủ lễ mang theo một con gà, một con lợn hoặc dắt một con trâu còn sống tới buộc vào cây nêu và tiến hành nghi thức cúng các thần để tạ ơn thần linh đã ban cho gia đình trong những năm qua được nhiều may mắn, mạnh khỏe và thuận lợi trong trồng cấy, chăn nuôi và xin các thần tiếp tục phù hộ cho gia đình trong năm mới.
Dưới sự hướng dẫn của chủ lễ, anh em con cháu của gia chủ có mặt dưới gốc cây nêu, cùng chủ lễ, đứng trước con gà, con lợn hoặc con trâu, quay mặt về hướng mặt trời mọc để thầy cúng tiến hành cúng bài xin hạ cây nêu, giao con gà, con lợn hoặc con trâu cho tổ tiên, thần núi và các thần linh. Chủ lễ vừa đọc lời bài cúng vừa dẫn gia chủ cùng con cháu đi vòng quanh gốc cây nêu theo chiều ngược kim đồng hồ.
Kết thúc lễ cúng, con gà, con lợn, con trâu đó được giao cho anh em con cháu trong gia đình gia chủ mang đi làm thịt. Gia chủ cắt lấy phần đầu trâu, bày lên một mâm gỗ cùng với 01 bát cơm, 02 chén rượu, 01 bát thóc, 01 bát ngô để tiến hành lễ cúng “phỉ nhu”, tức là cúng thịt trâu cho thần linh. Kết thúc lễ hội “Gầu tào”.
Toàn bộ thịt trâu được chế biến thành các món ăn, chia thành các mâm cỗ cho toàn thể bà con trong vùng tới dự lễ hội cùng ăn uống chúc mừng gia chủ ngay tại gốc cây nêu, trước sự chứng kiến của thần linh. Theo quan niệm dân gian, những người tới dự được ăn thịt trâu cúng tế cho các thần linh trong lễ hội “Gầu tào” này được xem như đã được hưởng phúc mà thần linh, tổ tiên mang lại, có được sự may mắn, khỏe mạnh, gia đình ấm no, hạnh phúc. Chính vì vậy, ai tới dự lễ hội cũng cố gắng ăn dù ít dù nhiều miếng thịt trâu sau khi đã cúng tế thần linh để mong những điều may mắn sẽ đến với mình.
Thân cây nêu được gia chủ mang về làm giát giường nhà mình với mong muốn có nhiều con cái và tin tưởng rằng thần linh sẽ luôn mang lại sức khỏe cho những người nằm trên chiếc giường đó. Các chum rượu được chủ lễ hất tung ra tứ phía cầu mong cho một năm mới nhiều tài lộc, vạn vật tốt tươi. Các dải vải được gia chủ mang về treo trong nhà, cầu mong hồng phúc của thần linh sẽ tràn ngập trong ngôi nhà của gia chủ và dùng để may quần áo cho đứa trẻ được sinh ra nhờ cầu xin trên đồi “Gầu tào” hoặc cho người khỏi bệnh nhờ khấn xin trong lễ hội “Gầu tào”.
Tan hội, mọi người lưu luyến chia tay nhau, hẹn mùa xuân năm sau sẽ gặp lại.
5. Không gian văn hóa liên quan, các sản phẩm vật chất và tinh thần tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của di sản văn hóa phi vật thể
Lễ hội “Gầu tào” được coi là lễ hội tiêu biểu, thể hiện nét văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của người Mông trong dịp đầu năm mới. Đây là dịp để cúng tạ trời đất, thần linh phù hộ, ban cho mọi người sức khỏe, mùa màng bội thu, thóc lúa đầy bồ, gia súc đầy chuồng. Có thể nói, di sản là điểm hội tụ và lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người Mông, là nơi thực hành và trao truyền trực tiếp vốn văn hóa của cộng đồng.
Lễ hội “Gầu tào” được thực hành rất chu đáo từ khâu chuẩn bị đến quá trình diễn ra nghi lễ. Trong tiến trình thực hành di sản này, không gian văn hóa có liên quan khá rộng và đa dạng, thuộc môi trường sinh hoạt và cảnh quan sinh sống đặc trưng của đồng bào Mông, từ ngôi nhà truyền thống đến cánh rừng, ngọn đồi, bãi đất trống, ...
Gắn với lễ hội, có rất nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần được tạo ra trong quá trình tồn tại và phát triển của di sản. Những giá trị vật chất điển hình có thể kể đến chính là các sản phẩm được sử dụng để thực hành di sản và những sản phẩm được tạo ra trong quá trình thực hành di sản ấy như trang y phục của thầy cúng, của người giúp việc, của nam nữ, trẻ em tham gia lễ hội; khèn và các loại nhạc cụ khác được sử dụng trong lễ hội như: sáo, kèn lá, ống hát; các lễ vật điển hình được sử dụng trong phần lễ; các sản phẩm vật chất đặc trưng được sử dụng trong các nội dung của phần hội, ....
Những sản phẩm tinh thần gắn với di sản rất phong phú, đa dạng. Có thể nói, với vai trò là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất của tộc người Mông, là nơi thực hành và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người, lễ hội “Gầu tào” gắn với nhiều sản phẩm tinh thần được tạo ra trong quá trình thực hành di sản, từ tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian đến nghệ thuật trình diễn, tập quán xã hội và tín ngưỡng, các nghề thủ công truyền thống và hệ thống tri thức dân gian được thể hiện xuyên suốt quá trình chuẩn bị và thực hành lễ hội. Thậm chí những giá trị tinh thần được tạo ra từ lễ hội còn đọng lại sau khi lễ hội đã kết thúc, từ năm này qua năm khác, từ đời này qua đời khác, nó được tích tụ, bồi đắp, tự bảo vệ, tự trao truyền với niềm tự hào về những giá trị mang tính bản sắc của cộng đồng.
Có thể nói, với vai trò là lễ hội lớn nhất, quan trọng nhất của tộc người Mông, là nơi thực hành và lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người, lễ hội có không gian văn hóa đa dạng, gắn với môi trường cảnh quan cư trú điển hình của cư dân nông nghiệp rẻo cao, nhiều sản phẩm vật chất và tinh thần cũng được tạo ra trong quá trình thực hành di sản, gắn liền với di sản rất đặc trưng. Không gian văn hóa và những sản phẩm được tạo ra trong quá trình ra đời và tồn tại của di sản gắn với không gian văn hóa đặc trưng này là kết tinh phản ánh quá trình lịch sử tộc người, văn hóa tộc người, trình độ tư duy, thẩm mỹ, óc sáng tạo cũng như thế giới quan, nhân sinh quan tộc người rất rõ nét.
VII. Giá trị của di sản văn hóa phi vật thể
1. Giá trị lịch sử
Lễ hội “Gầu tào” của người Mông là một di sản văn hóa phi vật thể rất độc đáo, có lịch sử lâu đời trong xã hội cộng đồng tộc người, nó phản ánh quá trình lịch sử của tộc người rất rõ nét qua từng hình thái văn hóa thể hiện trong quá trình thực hành di sản.
Từ những hình thức biểu hiện và quy trình thực hành di sản thể hiện qua những sản phẩm vật chất và tinh thần gắn với di sản, không gian văn hóa của di sản, mỗi nghi lễ được thực hành, mỗi bài cúng, mỗi trò chơi dân gian, mỗi loại hình nghệ thuật được trình diễn tại lễ hội đều mang những ý nghĩa riêng của nó, phản ánh những giá trị văn hóa đặc trưng gắn với lịch sử di cư, lịch sử cư trú, môi trường cảnh quan, lịch sử xã hội, lịch sử kinh tế, văn hóa của tộc người. Như thế, nghiên cứu tổng thể về quy trình diễn ra lễ hội cũng như cách thức thể hiện và ý nghĩa của nó đều cho ta thấy được phần nào bức tranh nhiều màu sắc của lịch sử xã hội tộc người Mông.
Nghiên cứu quá trình ra đời và tồn tại của di sản, cách tư duy và ứng xử của cộng đồng thể hiện trong lễ hội cho ta thấy quá trình lịch sử nói chung của tộc người rất rõ nét, các đặc điểm tự nhiên, môi trường cư trú đã quy định cách ứng xử sao cho phù hợp với môi trường ấy để có được cuộc sống tốt đẹp nhất. Từ những biểu hiện của di sản, bằng những nhận định khoa học, đi ngược về quá khứ, các giá trị lịch sử đã dần hiện ra. Đồng bào sinh sống ở vùng rẻo cao, địa hình chủ yếu là núi cao, rừng rậm, vực sâu; họ canh tác cũng trên những khu vực địa hình hiểm trở như thế, mọi sinh hoạt trong đời sống cũng diễn ra trong không gian ấy thì các nhân tố kiến tạo nên không gian ấy như rừng, núi, đồi, cây cổ thụ, ... sẽ trở nên vô cùng quan trọng với họ. Với “tín ngưỡng đa thần nguyên thủy” thì mỗi nhân tố này đều gắn với một thế lực siêu nhiên cai quản, đặc biệt trong điều kiện khoa học kỹ thuật chưa phát triển thì các thế lực này càng trở nên linh thiêng, thậm chí quyết định sự sống còn của cộng đồng. Việc họ tôn sùng các vị thần linh trong không gian cư trú của mình, để rồi hình thành nên lễ nghi gắn với không gian cư trú ấy đã cho ta thấy nhiều vấn đề của quá trình lịch sử tộc người, trong đó, những giá trị lịch sử văn hóa cũng dần được hình thành và hoàn thiện trong tiến trình lịch sử chung ấy.
Cũng từ cách thức thực hành lễ hội đã khẳng định tính cách, lối tư duy, cách ứng xử của con người với con người, con người với tự nhiên nơi rẻo cao. Đồng bào đề cao những trò chơi mang tinh thần thượng võ, thể hiện sự rắn rỏi, mạnh mẽ của những con người sinh sống ở nơi đầu non ngọn núi này. Đây là một tộc người có tính cố kết cộng đồng rất cao, đặc biệt là sợi dây liên kết của dòng họ. Đồng bào quan niệm cùng họ, cùng cách cúng ma là anh em một nhà, họ coi nhau như ruột thịt, thậm chí có thể sinh đẻ và chết trong nhà của nhau. Nghiên cứu lễ hội này cũng đã góp phần phản ánh một phần về lịch sử xã hội, lịch sử tư duy của cộng đồng như vậy.
2. Giá trị văn hóa
Toàn bộ tiến trình thực hành lễ hội từ khâu chuẩn bị cho đến khi kết thúc đều thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống đặc trưng của tộc người, là sản phẩm của yếu tố văn hóa và tư duy tâm linh tộc người, của trình độ nghệ thuật, tín ngưỡng, tâm tư, tình cảm, nó phản ánh cách cảm nhận, cách suy nghĩ của từng cá nhân và của cả cộng đồng trong một môi trường văn hóa chung, cùng hướng tới một cuộc sống bình yên, ấm no, đủ đầy.
Đây là di sản văn hóa phi vật thể có tính đại diện, hội tụ nhiều giá trị văn hóa đặc trưng, là sản phẩm sở hữu chung của đồng bào, mang những giá trị rất riêng của văn hóa Mông. Mỗi bước thực hành di sản đều thể hiện những quan niệm của cộng đồng về thế giới quan, nhân sinh quan, thể hiện những cách ứng xử đẹp của con người với con người, con người với thiên nhiên, với cuộc sống, với lịch sử, với thế giới tâm linh. Thông qua lễ hội, niềm tin và nhu cầu về tâm linh, tinh thần của mỗi cá nhân, của cả cộng đồng được thỏa mãn đã góp phần vào sự tồn tại bền vững của di sản.
Lễ hội “Gầu tào” là tổng hòa các giá trị văn hóa vật chất và tinh thần tiêu biểu của tộc người Mông, từ ẩm thực, trang y phục đến các di sản văn hóa phi vật thể có liên quan về tập quán xã hội và tín ngưỡng, ngữ văn dân gian, tiếng nói, chữ viết, nghệ thuật trình diễn, nghề thủ công truyền thống và các tri thức dân gian độc đáo. Tất cả đều được tạo nên từ môi trường sống đặc trưng của tộc người cũng như tư duy tâm linh, tín ngưỡng truyền thống.
Sự tồn tại và phát triển, lan tỏa của lễ hội “Gầu tào” là minh chứng sống động cho vai trò nuôi dưỡng và phát triển nhu cầu văn hóa tâm linh của cộng đồng, phần nào thể hiện thái độ ứng xử hòa hợp với thiên nhiên, mong muốn được thiên nhiên ưu đãi, che chở và đón nhận. Thông qua lễ hội, cộng đồng cư dân thường gửi gắm trọn niềm tin vào thần linh để cùng hướng đến một cuộc sống bình an, khỏe mạnh và sung túc. Đó là ước vọng muôn đời gắn với cư dân Việt nói chung và người Mông nói riêng mà chúng ta cần đặc biệt chú ý trong các hoạt động bảo vệ, phát huy giá trị lễ hội truyền thống.
Trong xu thế phát triển chung của xã hội hiện nay, lễ hội “Gầu tào” còn góp phần đáng kể vào sự phát triển du lịch văn hóa tộc người, kết hợp cùng các hoạt động trải nghiệm, khám phá, nghỉ dưỡng ở các huyện vùng cao tỉnh Yên Bái, phục vụ nhu cầu tinh thần của cộng đồng chủ thể và du khách thập phương. Theo đó, nếu được nghiên cứu bài bản, có kế hoạch bảo vệ, phát huy, khai thác tốt và hợp lý, chắc chắn giá trị của lễ hội này không chỉ nổi trội ở phương diện văn hóa tinh thần mà sẽ đem lại nguồn thu đáng kể thông qua phát triển du lịch văn hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, khu vực và quốc gia.
Về mặt xã hội: lễ hội là không gian văn hóa mang lại sức cố kết cộng đồng mạnh mẽ, mọi người cùng nhau cầu khấn cho cả bản làng, cộng đồng an vui, mạnh khỏe, no đủ rồi cùng nhau hòa mình vào các trò chơi, các hội thi với tinh thần vui vẻ, đoàn kết, quên đi mọi lo toan, vất vả của cuộc sống thường nhật, mọi người thêm gần nhau hơn trong tình yêu thương, sẻ chia, đặc biệt lễ hội là nơi để thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu, yêu đương, dựng xây hạnh phúc lứa đôi.
Với tư cách là sản phẩm sáng tạo của cộng đồng, được cộng đồng cùng duy trì, thực hành, lễ hội “Gầu tào” mang lại cho môi trường văn hóa xã hội mà nó đang tồn tại những tác động tích cực. Theo đó, sự gắn kết cộng đồng là một nhân tố quan trọng quyết định ý nghĩa và sự thành công của lễ hội, bởi cộng đồng được hình thành, tồn tại và gắn kết với nhau dựa trên các yếu tố chung về mặt địa lý, lịch sử, lợi ích vật chất, lợi ích tinh thần… Lễ hội “Gầu tào” dù được tổ chức với quy mô lớn hay nhỏ, các yếu tố truyền thống vẫn luôn được bảo tồn, duy trì, dù được thể hiện ở dưới hình thức nào cũng không thể thiếu sự tôn vinh các giá trị văn hóa và sức mạnh cố kết cộng đồng. Những sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng trong lễ hội đã thực sự trở thành một chất keo, tạo nên sự gắn kết cộng đồng, giúp mỗi cá nhân hòa mình vào cộng đồng, hướng đến cội nguồn và nuôi dưỡng ý thức gắn kết cộng đồng, quê hương, quốc gia - dân tộc.
Sự tồn tại và phát triển xuyên suốt của di sản trong lịch sử tộc người, được truyền qua nhiều thế hệ, được cộng đồng tự bảo lưu, tự trao truyền và thực hành trong đời sống, hưởng ứng và đồng thuận cao trong quá trình phục dựng đã thể hiện sức sống bền vững của một di sản văn hóa độc đáo, lâu đời.
3. Giá trị khoa học
Qua nghiên cứu tổng thể quy trình thực hành lễ hội “Gầu tào” cũng như cách thể hiện, ý nghĩa của từng nghi lễ và không gian văn hóa liên quan của di sản giúp các nhà nghiên cứu có thêm tri thức khoa học xã hội và nhân văn về đời sống vật chất, tinh thần, các hoạt động kinh tế và quá trình lịch sử của cộng đồng tộc người Mông nói chung. Đây là nguồn tư liệu quan trọng giúp cho việc nghiên cứu truyền thống lịch sử, văn hóa - xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tri thức dân gian, kinh tế truyền thống của đồng bào Mông ở tỉnh Yên Bái nói riêng cũng như người Mông ở Việt Nam, trong khu vực và thế giới nói chung.
Di sản chứa đựng tư duy sáng tạo mang tính đặc trưng của tộc người, là không gian văn hóa hội tụ những giá trị vật chất và tinh thần riêng có của cộng đồng, nó mang tính độc đáo, riêng biệt nhưng không làm mất đi cái chung, nét truyền thống của di sản, phản ánh sự đa dạng văn hóa trong cái chung, cái thống nhất của tộc người và cái riêng, cái sáng tạo của cộng đồng.
Nghiên cứu lễ hội “Gầu tào” của cộng đồng người Mông giúp củng cố thêm nguồn tư liệu khoa học về lịch sử văn hóa trong đời sống tín ngưỡng của một tộc người điển hình cho những cư dân cư trú ở vùng rẻo cao Việt Nam, đồng thời thấy được cái riêng biệt, cái đặc trưng mang tính vùng miền, mang tính tộc người hiện hữu và được cộng đồng tự nguyện trao truyền, thực hành lâu đời. Đây là nguồn tư liệu quý giúp cho các nhà khoa học nghiên cứu về văn hóa nói chung, văn hóa tín ngưỡng nói riêng của cộng đồng các tộc người thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc Việt Nam nói chung, miền Tây Bắc và tỉnh Yên Bái nói chung.
Từ những nguồn tư liệu khoa học có giá trị này sẽ giúp các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào người Mông nói riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nói chung hiệu quả và bền vững hơn.
4. Vai trò của di sản trong đời sống của người Mông
Trong cộng đồng của người Mông ở tỉnh Yên Bái hiện nay, lễ hội “Gầu tào” vẫn được duy trì và thực hành thường xuyên trong cộng đồng ở các mức độ khác nhau vào dịp đầu năm mới với mục đích cầu cho các gia đình, cộng đồng một bình an, sức khỏe, mùa màng bội thu, con cháu đầy nhà. Ngoài mục đích cầu mệnh, cầu phúc, lễ hội còn là nơi diễn ra các trò chơi dân gian và các làn điệu dân ca, dân vũ, dân nhạc truyền thống mà cộng đồng luôn háo hức thể hiện. Bởi thế, lễ hội được coi là món ăn tinh thần, hiện diện thường xuyên và liên tục trong đời sống tộc người, được cộng đồng đón nhận và tự nguyện trao truyền qua nhiều đời. Chính điều này đã khẳng định vai trò không thể thiếu của di sản trong lịch sử cũng như đời sống đương đại của cộng đồng.
Chính trong quá trình ra đời và tồn tại của di sản đã tạo ra nhiều giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể liên quan độc đáo, quan trọng trong đời sống của cộng đồng. Trước hết là những sản phẩm vật chất, tinh thần được sản sinh ra để phục vụ cho chính quá trình diễn ra lễ hội, tiếp đến là những giá trị tinh thần được tạo ra trước, trong và sau lễ hội đối với mỗi cá nhân, đối với cả cộng đồng khi tham gia lễ hội. Vì lễ hội xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng, được cộng đồng sáng tạo ra và hoàn chỉnh trong quá trình lịch sử, phù hợp với văn hóa của cộng đồng, được cộng đồng đồng thuận chấp nhận và tự bảo lưu, tự trao truyền nên di sản có sức sống mãnh liệt, tồn tại bền vững, khẳng định vai trò không thể vắng bóng trong đời sống cộng đồng.
Có thể nói, đây là di sản văn hóa phi vật thể điển hình, quan trọng, nó đáp ứng nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần của tộc người. Bởi vậy, nó có vai trò vô cùng quan trọng, góp phần thỏa mãn nhu cầu của đời sống thực tại và tâm linh tộc người. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi lễ hội nói chung trở thành nhu cầu tinh thần đối với nhiều người, đặc biệt đối với cộng đồng người Mông - một tộc người không có nhiều lễ hội thì “Gầu tào” ngày càng càng trở nên quan trọng và ý nghĩa hơn bao giờ hết. Đây cũng là một tiền đề quan trọng để Yên Bái cũng như các tỉnh Tây Bắc, từng bước triển khai các hoạt động bảo vệ, phát huy, khai thác giá trị di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này để phục vụ du lịch văn hóa, trải nghiệm, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, duy trì, củng cố khối đại đoàn kết các cộng đồng, dân tộc trong khu vực và cả nước.
VIII. Hiện trạng di sản văn hóa phi vật thể
“Gầu tào” là lễ hội lớn nhất và có quy mô cộng đồng duy nhất, gắn với đời sống tâm linh, tinh thần của cộng đồng người Mông ở tỉnh Yên Bái. Di sản luôn giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống cộng đồng tộc người ở địa phương và có sức lan tỏa mạnh mẽ với các cộng đồng lân cận. Niềm tin và nhu cầu về tâm linh, văn hóa tinh thần của mỗi cá nhân, của cả cộng đồng được thỏa mãn là một nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ và duy trì lễ hội. Hơn thế nữa, lễ hội “Gầu tào” là không gian di sản bảo lưu được những nét đặc trưng về lịch sử - văn hóa của tộc người Mông ở tỉnh Yên Bái nói riêng cũng như Việt Nam và thế giới nói chung, được thể hiện qua các nghi lễ, các trò chơi và nhiều nghệ thuật diễn xướng dân gian khác nên nó có sức sống khá bền vững trong cộng đồng.
(Bài viết sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái cung cấp)