Ngày 15/7/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 1419/QĐ-UBND công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Sắc phong của Vua Khải Định
1. Tên Di tích
- Di tích lịch sử chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
- Tên gọi khác:
+ Tên mỹ tự chùa: Minh Phú Tự - Chùa Minh Phú.
+ Tên mỹ tự đền: Minh Phú Từ - Đền Minh Phú.
+ Đền Vân Hội - Vân Hội tự.
+ Chùa Vân Hội - Vân Hội từ (tên chùa, đền gắn với tên làng Vân Hội).
2. Loại hình Di tích
- Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh.
3. Quyết định công bố Di tích
Quyết định số 1419/QĐ-UBND ngày 15/7/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
4. Địa điểm và đường đi đến Di tích
Di tích chùa - đền - đình Minh Phú xã Vân Hội cách Ủy ban nhân dân xã 2km; cách trung tâm huyện 35km; cách trung tâm tỉnh Yên Bái 25km. Di tích có diện tích khoanh vùng bảo vệ: 18.967,5m2.
Đến di tích chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên bằng đường bộ rất thuận lợi. Du khách đi từ thành phố Yên Bái (bến xe, ga), đi theo đường Quốc lộ 32 (Yên Bái - Nghĩa Lộ), qua cầu Yên Bái, đến ngã ba Hợp Minh, đi tiếp đường Hợp Minh - Đại Lịch vào xã Vân Hội 20 km là tới Di tích.
Nếu đi từ Nghĩa Lộ du khách đến Mỵ (xã Tân Thịnh, huyện Văn Chấn), đi tiếp qua Đại Lịch, Việt Hồng đến xã Vân Hội là tới Di tích.
Hoặc du khách đi theo Quốc lộ 32C, đến xã Hiền Lương (huyện Hạ Hòa), đi qua xã Quân Khê vào xã Vân Hội (5km) là đến Di tích.
5. Sơ lược lịch sử Di tích
Theo sách địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (Trung tâm thông tin, lưu trữ quốc gia), Vân Hội là làng thuộc sách Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Xã Vân Hội thành lập ngày 6/6/1988 trên cơ sở chia tách xã Việt Hồng thành 2 xã Việt Hồng và Vân Hội. Trải qua thời gian, xã Vân Hội ngày nay đã có nhiều thay đổi về địa danh, địa giới.
Làng Vân Hội xưa thuộc tổng Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Đến năm 1900, đổi thành xã Minh Phú, tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên. Tên “Vân Hội” theo nghĩa Hán là vùng đất hội tụ mây lành (mây lành che chở). Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối. Phía Tây được hệ thống núi Bụt, núi Nả, núi Kìm bao bọc. Phía Đông, phía Nam thông ra cánh đồng và là nơi hợp lưu của 3 con ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), được hợp lưu bởi ngòi Mon, ngòi Lĩnh, dưới chân đồi Long Ẩn (Rồng ẩn). Đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam (đồi giữa cánh đồng lúa xưa nay nổi lên trên mặt hồ). Nơi đây cảnh sắc thiên nhiên rất tươi đẹp, thích hợp cho dựng ngôi chùa thờ Phật, là điểm nhấn của khu du lịch.
Núi Bụt, theo truyền thuyết xưa có ngôi chùa nhỏ, thờ Phật có từ lâu đời. Đến thời Lê, với truyền thuyết Núi Nả. Công chúa nhà Lê kết duyên với người thợ buôn bè tên Phạm Đình Yên. Tương truyền, khi về quê chồng, công chúa đã vào ngôi chùa dưới chân núi Bụt (Phật) làm lễ và vượt đèo gỗ vào trong làng Dọc thì người hầu bị trăn cuốn chết. Ông Yên nghe lại tưởng công chúa chết, vội lên đường đi tìm thì bị ngã ngựa tử nạn. Công chúa đau buồn, lên núi Nả tu hành và hóa tại đó nên đời sau nhân dân gọi nơi đây là Núi Nả, hay núi bà chúa Nả.
Núi Kìm, theo tiếng Tày là núi Mặn, liên quan đến khu núi này có đền thờ rất thiêng.
Ngòi Vân (ngòi vần) là phụ lưu lớn của sông Hồng chảy từ núi Bụt ra cửa Long Ẩn, qua Hiền Lương, ra sông Thao. Nơi gần cửa sông này có đền Mẫu tổ Âu Cơ thờ mẫu xứ sở, đánh dấu bước chuyển biến thờ mẹ của người Việt, từ thờ mẹ đấng vô cùng, mẹ trời, mẹ rừng, mẹ đất, mẹ nước sang thờ mẹ xứ sở sản sinh ra con cháu dòng giống tiên rồng dân tộc Việt.
Căn cứ vào các tài liệu dân tộc học, cho ta thông điệp những ngọn núi thiêng như núi Kìm, núi Bụt, núi Nả là sự khởi nguồn của ngòi Vần - con nước chuyển tải văn hóa thờ Mẫu Âu Cơ linh thiêng.
Khu di tích (phế tích) đã được phát lộ vào tháng 10/2015, Bảo tàng tỉnh được nhân dân cung cấp thông tin phát hiện nhiều hiện vật bằng gốm, nằm rải rác trên quả đồi vùng cấm thuộc thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên. Bảo tàng tỉnh đã đào thám sát một hố có diện tích 5m2, kết quả khai quật phát hiện nhiều gạch cổ, đồ thờ bằng gốm có niên đại khoảng 500 năm (thời Lê), thông qua hiện vật cho ta thấy nơi đây có sự hiện diện của kiến trúc cổ đền, chùa, đình. Đồng thời, với những nghiên cứu văn hóa dân gian của Trung tâm quản lý di tích và phát triển du lịch cho thấy những địa danh (tên núi, đồi, ngòi, suối, khe, đồng ruộng) có dấu ấn của khu di tích ngàn xưa, gắn với truyền thuyết về mẹ Âu Cơ của thời đại Hùng Vương dựng nước rực rỡ ví như ngòi Vân (sau này đổi thành ngòi vần) như dải mây kết từ "tam sơn", núi Phật (núi Bụt), núi Nả (bà chúa Nả), núi Kìm (núi thiêng), chảy uốn lượn ra cửa sông Thao thuộc địa phận xã Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi đời sau chọn xây đền tổ Mẫu, tính tượng trưng này gắn với dải lụa đào của mẹ Âu Cơ khi hóa thân về trời, còn vương lại dải yếm đào vắt ngọn đa.
Trong dòng chảy của văn hóa Việt có văn hóa của sắc tộc thiểu số đặc biệt là người Tày cùng với người Việt (người Kinh) gây dựng thành công nhà nước Văn Lang, Âu Lạc trước đây, việc lập các đền thờ để thờ các đấng vô cùng, trong đó đền Mẫu là phổ biến, các địa điểm thường từ đầu nguồn các dòng sông, ngọn suối (liên quan đến săn bắt, hái lượm). Sau này kéo dần về hạ nguồn do nhu cầu canh tác, quần cư, trồng lúa nước phải chọn đất bằng, rộng hơn thì các vùng đền thờ được di theo đến các vùng đất mới.
Đền Âu Cơ hiện nay cách Vân Hội khoảng 5km, cuối nguồn ngòi vần cho ta thông tin về một ngôi đền cổ thờ Mẫu ngàn xưa có thể từ địa điểm khảo cổ tại thôn 6, xã Vân Hội, đầu đầm Vân Hội đã phát hiện năm 2015.
Theo như cách tính niên đại trong tiến trình lịch sử Việt Nam thì thời kỳ Hồng Bàng; Hùng Vương với nhà nước Văn Lang (đóng đô ở Phong Châu), Thục Phán với nhà nước Âu Lạc (đóng đô ở Cổ Loa) ứng với văn hóa Đông Sơn và tiền Đông Sơn (khoảng 2000 TCN-100) với các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
Trong giai đoạn này ở vùng Yên Bái, có phát hiện khá phong phú, đa dạng các loại hình di tích, di vật có giá trị dọc theo đôi bờ sông Hồng. Có thể kể đến, thạp đồng Đào Thịnh và Hợp Minh..., các di chỉ ở Tuần Quán, Xóm Soi, Hợp Minh tìm thấy chỉ cách Vân Hội khoảng hơn 10 km. Qua những hiện vật đặc sắc thu được, có thể khẳng định: giai đoạn này, ở Yên Bái đã tồn tại một thế lực hùng mạnh. Cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của cư dân cổ trên vùng đất này.
Với vô vàn những câu chuyện truyền miệng ở vùng Vân Hội mà ta có được cùng với những chứng cứ vật chất đã được khai quật trong buổi đầu của thời kỳ lập quốc này phần nào đã chứng minh sự tồn tại của các thế lực hùng mạnh trong vùng cũng như đánh dấu công lao của quốc Mẫu ở vùng đất này.
Vân Hội - vùng đất tụ mây lành che chở. Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối; phía Tây hệ thống núi Bụt (núi Phật), núi Nả, núi Kìm bao bọc tạo thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”. Phía Đông, phía Nam trải rộng ra cánh đồng Yếng và là nơi hợp lưu của 3 ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), ngòi Mon, ngòi Lĩnh cùng tụ thủy dưới chân đồi Long Ần (Rồng ẩn), đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam.
Vân Hội bốn hướng được các núi Bụt, núi Nả, núi Kìm, núi Muỗi và núi Quẽ trấn giữ, ở giữa có đồi Long Ấn (Rồng ẩn). Núi Nả, núi Bụt, núi Kìm là nơi khơi nguồn của ngòi vần - con nước như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, đạo lý, khát vọng của người dân nơi đây hòa cùng dòng chảy văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ. Như vậy, có thể thấy về phong thủy vùng đất Vân Hội xưa và nay rất đắc địa, là vùng đất “địa linh”, nơi hội tụ linh khí thiêng liêng của đất trời... nếu biết khai thác hết tiềm năng, thế mạnh chắc chắn sẽ phát tích làm nên nghiệp lớn, xây dựng Vân Hội phát triển trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch.
Vân Hội còn là vùng đất đậm đặc văn hóa dân gian, ẩn chứa những huyền tích, huyền thoại... truyền thuyết công chúa Liễu Hoa nhà Lê kết duyên với Phạm Đình Yên, gắn với núi Nả, núi bà Chúa Nả (hiện nay vẫn còn địa danh núi Nả); truyền thuyết Mẫu Âu Cơ vẫn còn lưu truyền gắn với Ao Xanh, đồi Long Ẩn, đền thờ ở núi Kìm (núi thiêng); truyền thuyết nàng tiên giáng trần xuống vãn cảnh Thác Quẽ và tắm Ao Xanh; đình Đồng Chão, đình làng Yếng gắn với những huyền tích từ xa xưa và gắn với phong trào cách mạng chống Pháp ở địa phương.
* Di tích Đình Minh Phú:
Theo “Tiền kinh khai khẩn” và “Chúc thư” của cụ Phạm Đình Liên, chép ngày 24/11 năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1726), do tiến sỹ hán nôm Hoàng Thị Ngọ dịch, liên quan đến các vị thờ tại đình làng Dọc (xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên) và đình Bằng Là (xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), cụ Phạm Bá Vậy (1687 - 1746) từ xã Kinh Chủ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương lên vùng đất sách Đại Lịch thời vua Lê - Chúa Trịnh (năm 1705), khi đó vùng đất này chưa có làng bản. Cụ chiêu dân lập thành 6 mường, 7 bản (lục mường, thất bản), rất có thể làng Minh Phú, làng Vân Hội được lập thời gian này và chắc cụ Phạm Bá Vậy có ý đặt tên làng Minh Phú, làng Vân Hội gắn với đặc điểm khí hậu, địa hình và mong dân giàu sang, phú quý.
Minh Phú: ý nói vùng đất sáng, biết khai phá sẽ phú quý, giàu sang. Có lẽ vì thế mà cụ Phạm Bá Vậy đặt tên làng là Minh Phú.
Vân Hội: Vân là mây. Hội là nước chảy vào; dân bỏ người cai trị chạy trốn đi gọi là hội.
Như vậy, có thể hiểu khi xưa vùng đất này mây mù che chở, bao phủ, có 3 ngòi nước chảy về và tâm trạng của dòng họ Phạm bỏ quê ra đi nên đã đặt tên làng Vân Hội. Khi cụ Phạm Bá Vậy cùng với một số người từ Hải Dương lên mở đất, khai sơn phá thạch vùng đất Minh Phú, Vân Hội xưa, tuy là cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ khi lên vùng đất mới nhưng vẫn còn giữ được nét sinh hoạt tín ngưỡng vùng quê Bắc Bộ nên dựng đình để dân làng cầu mong Thành Hoàng che chở, phù hộ mọi điều tốt lành cho dân làng. Như vậy, đình Minh Phú có thể khởi dựng vào những năm đầu thế kỷ XVIII, từ 1710 - 1725.
Kiến trúc đình: đình 3 gian, hình chữ Nhất, cột gỗ to, lợp cọ, xung quanh lịa ván gỗ làm vách; bên trong đình có 3 ban thờ: 1 ban thờ ở gian chính giữa, 2 ban thờ ở hai đầu hồi; ban thờ chính giữa chia thành 3 cấp, có ngai thờ, hạc đồng, ống hương… và nhiều bát nhang.
* Chùa Minh Phú - “Minh Phú tự”:
Người Việt có quan niệm “đất vua chùa làng”, "trẻ vui nhà, già vui chùa”, là cư dân nông nghiệp vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, ngoài đời sống văn hóa tín ngưỡng - tâm linh bản địa, còn ảnh hưởng của Đạo Phật từ lâu đời, sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nên khi đến định cư vùng đất Vân Hội xưa, do nhu cầu tín ngưỡng - tâm linh nhân dân đã xây dựng chùa.
Ngày 13/6/2016, Bảo tàng tỉnh Yên Bái đã đào thám sát 2 địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Qua đào thám sát có thể nhận thấy từ khu vực chân đồi đến đỉnh đồi đều phát hiện được các hiện vật khảo cổ học giai đoạn lịch sử phong kiến. Hiện vật thu được trong hố thám sát chủ yếu gồm 02 nhóm chính là mảnh sành và mảnh gốm men. Mỗi nhóm lại được chia thành các kiểu loại nhỏ dựa vào tình trạng và chất liệu từng loại.
Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã Hội Việt Nam: Trong cả 02 hố thám sát tại địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, loại hình di vật thu được ở các hố đều có sự tương đồng về chất liệu và niên đại khoảng từ thế kỷ XV - XVI. Dưới lớp cỏ đã thu được nhiều mảnh ngói đất nung, mầu đỏ nhưng mủn do nhiệt độ nung không cao. Tuy vậy, trong hố thám sát cũng phát hiện được lon sành có niên đại thuộc nửa thế kỷ XIV.
Từ kết quả đào thám sát phát hiện di vật và đối chiếu với các tư liệu có thể xác định chùa Minh Phú là một ngôi chùa cổ khởi dựng từ cuối thời Trần, đầu thời Lê (cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV). Đặc điểm của chùa Minh Phú: cột gỗ, lợp ngói, kiến trúc nhỏ, đơn giản, là thiết chế Phật giáo, nằm ngay trong làng Minh Phú xưa.
Nguyên nhân chùa bị hỏng: Có thể kiến trúc nhỏ nên khi bị gió bão, lốc mạnh đã làm chùa Minh Phú đổ sập hoặc bị hỏa hoạn thiêu rụi.
* Đền Minh Phú - “Minh Phú Từ”:
Đền Minh Phú, thời gian xây dựng cũng như thời gian, nguyên nhân bị hỏng không hoạt động chưa xác định được năm cụ thể. Qua đào thám sát phát hiện các di vật bằng gốm men và đồ sành tại khu vực Di tích. Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam có thể khẳng định: các di vật có niên đại khoảng thế kỷ XV - XVI.
Hiện nay tại xã Vân Hội có núi Mặn, theo tiếng Tày mặn ý nói ở trên núi rất thiêng, nếu ai làm nhà ở sẽ bị ma quỷ, thần thánh quấy nhiễu, nên hàng chục năm qua không có ai dám làm nhà trên núi Mặn. Các cụ già trong xã cho biết, xưa trên núi có một ngôi đền thờ Mẫu rất linh thiêng. Căn cứ di vật đào được tại thôn 6, xã Vân Hội có thể đền (miếu) Minh Phú khởi dựng vào thời Lê. Di tích đền Minh Phú là một thiết chế tín ngưỡng dân gian; khởi nguồn là một miếu nhỏ, qua quá trình phát triển về dân số và nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của người dân nên chuyển thành đền.
6. Các nhân vật được thờ tự
- Nhân vật được thờ đình Minh Phú: Thờ “Tam vị thượng đẳng thần Cao Sơn Đại Vương”, đó là ba vị thần: Tản Viên Sơn Thánh (còn có tên gọi là Sơn Tinh), Quý Minh Đại Vương và Thần Cao Sơn (hay Cao Sơn Địa Vương). Tam vị Cao Sơn Đại Vương đã trở thành Thành Hoàng và được nhân dân Việt Nam thờ phụng từ lâu đời.
- Nhân vật được thờ chùa Minh Phú tự: Thờ Đức Phật.
- Nhân vật được thờ đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Thờ Mẫu. “Mẫu” - là “Bà Mẹ Thiêng liêng” với quyền năng vô bờ bến. Về tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân Minh Phú chịu ảnh hưởng của thờ Mẫu Âu Cơ và thờ Mẫu đệ Nhị Thượng Ngàn (đền Đông Cuông), Mẫu Thượng Thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu Thoải.
7. Các hiện vật trong di tích
- Các hiện vật đình Minh Phú: Lon gốm đất nung đường kính từ 8cm - 15cm, cao 12cm - 20 cm; 03 sắc phong của vua Khải định cho đình Minh Phú: Đạo sắc phong số 1; Đạo sắc phong số 2; Đạo sắc phong số 3.
- Các hiện vật chùa Minh Phú tự: Không còn các hiện vật.
- Các hiện vật đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Không còn các hiện vật.
8. Phong tục lễ hội
* Lễ hội đình Minh Phú
Trong năm tại đình diễn ra nhiều lễ hội, nhưng lễ chính vào ngày rằm tháng giêng và rằm tháng bảy.
Trong dịp lễ rằm tháng giêng và tháng bảy, dân làng có tổ chức rước lễ từ đình Minh Phú vào đình Bằng Là (nay thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Bá Vậy - tức Phạm Văn Giã người có công chiêu dân khai khẩn lập làng, lập mường. Và rước lễ từ đình Minh Phú vào đình làng Dọc để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Đình Lực (tức Phạm Bá Lực), người có công lập làng, khai phá làng Dọc, được vua giáng chỉ phong hàm “Tiền Kinh Khai Khẩn”, Thụy phong cấp 2 là “Thượng Ngàn Đại Sơn Nhân Thần”, năm Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng Thập Bát Niên thứ 18.
* Lễ hội Chùa Minh Phú
Theo nghi lễ Phật giáo, lễ hội được tổ chức vào các ngày:
- Tết Nguyên Tiêu
- Tết Phật Đản
- Tết Trung Nguyên
* Lễ hội đền Minh Phú: tổ chức vào các ngày:
- Rằm tháng Giêng - Tết Thượng Nguyên.
- Lễ thờ Mẫu (3/3 âm lịch)
- Tết Trung Nguyên
- Lễ Đức Thánh Trần (20/8 âm lịch)
Trải qua thời gian, biến cố thăng trầm của lịch sử, chùa, đền, đình Minh Phú không còn, chỉ còn lại dấu tích và chỉ còn trong tâm thức của mỗi người dân Vân Hội và trong vùng. Nhưng với tinh thần tôn trọng lịch sử, tự hào dân tộc, để truyền thống nối tiếp lịch sử không ngừng trong dòng chảy văn hóa Đại Việt, xã Vân Hội đã bảo quản giữ gìn nguyên vẹn 3 đạo sắc phong của vua Khải Định, thường xuyên giáo dục lịch sử truyền thống văn hóa cho các thế hệ. Đặc biệt thực Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, xã Vân Hội đã ban hành Nghị quyết, kế hoạch về lập hồ sơ xếp hạng di tích chùa, đền, đình Minh Phú nhằm phục dựng bảo tồn và phát huy giá trị di tích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển du lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch văn hóa cộng đồng sinh thái, đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong và ngoài địa phương.
Năm 2016, xã Vân Hội đã cùng với Bảo tàng, Trung tâm quản lý Di tích và Phát triển du lịch tỉnh đào, tham sát, xác định các tầng văn hóa, sưu tầm, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di tích và quy hoạch 18.967,5m2 đất để phục dựng lại di tích chùa, đền, đình Minh Phú. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái cung cấp)
6443 lượt xem
Ban Biên tập
Ngày 15/7/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 1419/QĐ-UBND công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh. 1. Tên Di tích
- Di tích lịch sử chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái.
- Tên gọi khác:
+ Tên mỹ tự chùa: Minh Phú Tự - Chùa Minh Phú.
+ Tên mỹ tự đền: Minh Phú Từ - Đền Minh Phú.
+ Đền Vân Hội - Vân Hội tự.
+ Chùa Vân Hội - Vân Hội từ (tên chùa, đền gắn với tên làng Vân Hội).
2. Loại hình Di tích
- Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh.
3. Quyết định công bố Di tích
Quyết định số 1419/QĐ-UBND ngày 15/7/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
4. Địa điểm và đường đi đến Di tích
Di tích chùa - đền - đình Minh Phú xã Vân Hội cách Ủy ban nhân dân xã 2km; cách trung tâm huyện 35km; cách trung tâm tỉnh Yên Bái 25km. Di tích có diện tích khoanh vùng bảo vệ: 18.967,5m2.
Đến di tích chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên bằng đường bộ rất thuận lợi. Du khách đi từ thành phố Yên Bái (bến xe, ga), đi theo đường Quốc lộ 32 (Yên Bái - Nghĩa Lộ), qua cầu Yên Bái, đến ngã ba Hợp Minh, đi tiếp đường Hợp Minh - Đại Lịch vào xã Vân Hội 20 km là tới Di tích.
Nếu đi từ Nghĩa Lộ du khách đến Mỵ (xã Tân Thịnh, huyện Văn Chấn), đi tiếp qua Đại Lịch, Việt Hồng đến xã Vân Hội là tới Di tích.
Hoặc du khách đi theo Quốc lộ 32C, đến xã Hiền Lương (huyện Hạ Hòa), đi qua xã Quân Khê vào xã Vân Hội (5km) là đến Di tích.
5. Sơ lược lịch sử Di tích
Theo sách địa danh và tài liệu lưu trữ về làng xã Bắc Kỳ (Trung tâm thông tin, lưu trữ quốc gia), Vân Hội là làng thuộc sách Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Xã Vân Hội thành lập ngày 6/6/1988 trên cơ sở chia tách xã Việt Hồng thành 2 xã Việt Hồng và Vân Hội. Trải qua thời gian, xã Vân Hội ngày nay đã có nhiều thay đổi về địa danh, địa giới.
Làng Vân Hội xưa thuộc tổng Đại Lịch, huyện Văn Chấn. Đến năm 1900, đổi thành xã Minh Phú, tổng Lương Ca, huyện Trấn Yên. Tên “Vân Hội” theo nghĩa Hán là vùng đất hội tụ mây lành (mây lành che chở). Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối. Phía Tây được hệ thống núi Bụt, núi Nả, núi Kìm bao bọc. Phía Đông, phía Nam thông ra cánh đồng và là nơi hợp lưu của 3 con ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), được hợp lưu bởi ngòi Mon, ngòi Lĩnh, dưới chân đồi Long Ẩn (Rồng ẩn). Đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam (đồi giữa cánh đồng lúa xưa nay nổi lên trên mặt hồ). Nơi đây cảnh sắc thiên nhiên rất tươi đẹp, thích hợp cho dựng ngôi chùa thờ Phật, là điểm nhấn của khu du lịch.
Núi Bụt, theo truyền thuyết xưa có ngôi chùa nhỏ, thờ Phật có từ lâu đời. Đến thời Lê, với truyền thuyết Núi Nả. Công chúa nhà Lê kết duyên với người thợ buôn bè tên Phạm Đình Yên. Tương truyền, khi về quê chồng, công chúa đã vào ngôi chùa dưới chân núi Bụt (Phật) làm lễ và vượt đèo gỗ vào trong làng Dọc thì người hầu bị trăn cuốn chết. Ông Yên nghe lại tưởng công chúa chết, vội lên đường đi tìm thì bị ngã ngựa tử nạn. Công chúa đau buồn, lên núi Nả tu hành và hóa tại đó nên đời sau nhân dân gọi nơi đây là Núi Nả, hay núi bà chúa Nả.
Núi Kìm, theo tiếng Tày là núi Mặn, liên quan đến khu núi này có đền thờ rất thiêng.
Ngòi Vân (ngòi vần) là phụ lưu lớn của sông Hồng chảy từ núi Bụt ra cửa Long Ẩn, qua Hiền Lương, ra sông Thao. Nơi gần cửa sông này có đền Mẫu tổ Âu Cơ thờ mẫu xứ sở, đánh dấu bước chuyển biến thờ mẹ của người Việt, từ thờ mẹ đấng vô cùng, mẹ trời, mẹ rừng, mẹ đất, mẹ nước sang thờ mẹ xứ sở sản sinh ra con cháu dòng giống tiên rồng dân tộc Việt.
Căn cứ vào các tài liệu dân tộc học, cho ta thông điệp những ngọn núi thiêng như núi Kìm, núi Bụt, núi Nả là sự khởi nguồn của ngòi Vần - con nước chuyển tải văn hóa thờ Mẫu Âu Cơ linh thiêng.
Khu di tích (phế tích) đã được phát lộ vào tháng 10/2015, Bảo tàng tỉnh được nhân dân cung cấp thông tin phát hiện nhiều hiện vật bằng gốm, nằm rải rác trên quả đồi vùng cấm thuộc thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên. Bảo tàng tỉnh đã đào thám sát một hố có diện tích 5m2, kết quả khai quật phát hiện nhiều gạch cổ, đồ thờ bằng gốm có niên đại khoảng 500 năm (thời Lê), thông qua hiện vật cho ta thấy nơi đây có sự hiện diện của kiến trúc cổ đền, chùa, đình. Đồng thời, với những nghiên cứu văn hóa dân gian của Trung tâm quản lý di tích và phát triển du lịch cho thấy những địa danh (tên núi, đồi, ngòi, suối, khe, đồng ruộng) có dấu ấn của khu di tích ngàn xưa, gắn với truyền thuyết về mẹ Âu Cơ của thời đại Hùng Vương dựng nước rực rỡ ví như ngòi Vân (sau này đổi thành ngòi vần) như dải mây kết từ "tam sơn", núi Phật (núi Bụt), núi Nả (bà chúa Nả), núi Kìm (núi thiêng), chảy uốn lượn ra cửa sông Thao thuộc địa phận xã Hiền Lương, Hạ Hòa, Phú Thọ, nơi đời sau chọn xây đền tổ Mẫu, tính tượng trưng này gắn với dải lụa đào của mẹ Âu Cơ khi hóa thân về trời, còn vương lại dải yếm đào vắt ngọn đa.
Trong dòng chảy của văn hóa Việt có văn hóa của sắc tộc thiểu số đặc biệt là người Tày cùng với người Việt (người Kinh) gây dựng thành công nhà nước Văn Lang, Âu Lạc trước đây, việc lập các đền thờ để thờ các đấng vô cùng, trong đó đền Mẫu là phổ biến, các địa điểm thường từ đầu nguồn các dòng sông, ngọn suối (liên quan đến săn bắt, hái lượm). Sau này kéo dần về hạ nguồn do nhu cầu canh tác, quần cư, trồng lúa nước phải chọn đất bằng, rộng hơn thì các vùng đền thờ được di theo đến các vùng đất mới.
Đền Âu Cơ hiện nay cách Vân Hội khoảng 5km, cuối nguồn ngòi vần cho ta thông tin về một ngôi đền cổ thờ Mẫu ngàn xưa có thể từ địa điểm khảo cổ tại thôn 6, xã Vân Hội, đầu đầm Vân Hội đã phát hiện năm 2015.
Theo như cách tính niên đại trong tiến trình lịch sử Việt Nam thì thời kỳ Hồng Bàng; Hùng Vương với nhà nước Văn Lang (đóng đô ở Phong Châu), Thục Phán với nhà nước Âu Lạc (đóng đô ở Cổ Loa) ứng với văn hóa Đông Sơn và tiền Đông Sơn (khoảng 2000 TCN-100) với các giai đoạn Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn.
Trong giai đoạn này ở vùng Yên Bái, có phát hiện khá phong phú, đa dạng các loại hình di tích, di vật có giá trị dọc theo đôi bờ sông Hồng. Có thể kể đến, thạp đồng Đào Thịnh và Hợp Minh..., các di chỉ ở Tuần Quán, Xóm Soi, Hợp Minh tìm thấy chỉ cách Vân Hội khoảng hơn 10 km. Qua những hiện vật đặc sắc thu được, có thể khẳng định: giai đoạn này, ở Yên Bái đã tồn tại một thế lực hùng mạnh. Cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của cư dân cổ trên vùng đất này.
Với vô vàn những câu chuyện truyền miệng ở vùng Vân Hội mà ta có được cùng với những chứng cứ vật chất đã được khai quật trong buổi đầu của thời kỳ lập quốc này phần nào đã chứng minh sự tồn tại của các thế lực hùng mạnh trong vùng cũng như đánh dấu công lao của quốc Mẫu ở vùng đất này.
Vân Hội - vùng đất tụ mây lành che chở. Nơi đây, sơn thủy hữu tình, phía Bắc được chắn bởi núi Muỗi, núi Chuối; phía Tây hệ thống núi Bụt (núi Phật), núi Nả, núi Kìm bao bọc tạo thành thế “tả thanh long, hữu bạch hổ”. Phía Đông, phía Nam trải rộng ra cánh đồng Yếng và là nơi hợp lưu của 3 ngòi: Ngòi Vần (ngòi Vân - như dải mây), ngòi Mon, ngòi Lĩnh cùng tụ thủy dưới chân đồi Long Ần (Rồng ẩn), đây là điểm nằm trên trục tâm đạo từ núi Muỗi sang núi Nả, hướng Đông Bắc - Tây Nam.
Vân Hội bốn hướng được các núi Bụt, núi Nả, núi Kìm, núi Muỗi và núi Quẽ trấn giữ, ở giữa có đồi Long Ấn (Rồng ẩn). Núi Nả, núi Bụt, núi Kìm là nơi khơi nguồn của ngòi vần - con nước như dòng sữa mẹ nuôi dưỡng tư tưởng, tâm hồn, đạo lý, khát vọng của người dân nơi đây hòa cùng dòng chảy văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu Âu Cơ. Như vậy, có thể thấy về phong thủy vùng đất Vân Hội xưa và nay rất đắc địa, là vùng đất “địa linh”, nơi hội tụ linh khí thiêng liêng của đất trời... nếu biết khai thác hết tiềm năng, thế mạnh chắc chắn sẽ phát tích làm nên nghiệp lớn, xây dựng Vân Hội phát triển trở thành trung tâm kinh tế, văn hóa, du lịch.
Vân Hội còn là vùng đất đậm đặc văn hóa dân gian, ẩn chứa những huyền tích, huyền thoại... truyền thuyết công chúa Liễu Hoa nhà Lê kết duyên với Phạm Đình Yên, gắn với núi Nả, núi bà Chúa Nả (hiện nay vẫn còn địa danh núi Nả); truyền thuyết Mẫu Âu Cơ vẫn còn lưu truyền gắn với Ao Xanh, đồi Long Ẩn, đền thờ ở núi Kìm (núi thiêng); truyền thuyết nàng tiên giáng trần xuống vãn cảnh Thác Quẽ và tắm Ao Xanh; đình Đồng Chão, đình làng Yếng gắn với những huyền tích từ xa xưa và gắn với phong trào cách mạng chống Pháp ở địa phương.
* Di tích Đình Minh Phú:
Theo “Tiền kinh khai khẩn” và “Chúc thư” của cụ Phạm Đình Liên, chép ngày 24/11 năm Canh Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng 21 (1726), do tiến sỹ hán nôm Hoàng Thị Ngọ dịch, liên quan đến các vị thờ tại đình làng Dọc (xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên) và đình Bằng Là (xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), cụ Phạm Bá Vậy (1687 - 1746) từ xã Kinh Chủ, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương lên vùng đất sách Đại Lịch thời vua Lê - Chúa Trịnh (năm 1705), khi đó vùng đất này chưa có làng bản. Cụ chiêu dân lập thành 6 mường, 7 bản (lục mường, thất bản), rất có thể làng Minh Phú, làng Vân Hội được lập thời gian này và chắc cụ Phạm Bá Vậy có ý đặt tên làng Minh Phú, làng Vân Hội gắn với đặc điểm khí hậu, địa hình và mong dân giàu sang, phú quý.
Minh Phú: ý nói vùng đất sáng, biết khai phá sẽ phú quý, giàu sang. Có lẽ vì thế mà cụ Phạm Bá Vậy đặt tên làng là Minh Phú.
Vân Hội: Vân là mây. Hội là nước chảy vào; dân bỏ người cai trị chạy trốn đi gọi là hội.
Như vậy, có thể hiểu khi xưa vùng đất này mây mù che chở, bao phủ, có 3 ngòi nước chảy về và tâm trạng của dòng họ Phạm bỏ quê ra đi nên đã đặt tên làng Vân Hội. Khi cụ Phạm Bá Vậy cùng với một số người từ Hải Dương lên mở đất, khai sơn phá thạch vùng đất Minh Phú, Vân Hội xưa, tuy là cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ khi lên vùng đất mới nhưng vẫn còn giữ được nét sinh hoạt tín ngưỡng vùng quê Bắc Bộ nên dựng đình để dân làng cầu mong Thành Hoàng che chở, phù hộ mọi điều tốt lành cho dân làng. Như vậy, đình Minh Phú có thể khởi dựng vào những năm đầu thế kỷ XVIII, từ 1710 - 1725.
Kiến trúc đình: đình 3 gian, hình chữ Nhất, cột gỗ to, lợp cọ, xung quanh lịa ván gỗ làm vách; bên trong đình có 3 ban thờ: 1 ban thờ ở gian chính giữa, 2 ban thờ ở hai đầu hồi; ban thờ chính giữa chia thành 3 cấp, có ngai thờ, hạc đồng, ống hương… và nhiều bát nhang.
* Chùa Minh Phú - “Minh Phú tự”:
Người Việt có quan niệm “đất vua chùa làng”, "trẻ vui nhà, già vui chùa”, là cư dân nông nghiệp vùng Trung du và đồng bằng Bắc Bộ, ngoài đời sống văn hóa tín ngưỡng - tâm linh bản địa, còn ảnh hưởng của Đạo Phật từ lâu đời, sâu rộng đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nên khi đến định cư vùng đất Vân Hội xưa, do nhu cầu tín ngưỡng - tâm linh nhân dân đã xây dựng chùa.
Ngày 13/6/2016, Bảo tàng tỉnh Yên Bái đã đào thám sát 2 địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Qua đào thám sát có thể nhận thấy từ khu vực chân đồi đến đỉnh đồi đều phát hiện được các hiện vật khảo cổ học giai đoạn lịch sử phong kiến. Hiện vật thu được trong hố thám sát chủ yếu gồm 02 nhóm chính là mảnh sành và mảnh gốm men. Mỗi nhóm lại được chia thành các kiểu loại nhỏ dựa vào tình trạng và chất liệu từng loại.
Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã Hội Việt Nam: Trong cả 02 hố thám sát tại địa điểm thôn 6, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, loại hình di vật thu được ở các hố đều có sự tương đồng về chất liệu và niên đại khoảng từ thế kỷ XV - XVI. Dưới lớp cỏ đã thu được nhiều mảnh ngói đất nung, mầu đỏ nhưng mủn do nhiệt độ nung không cao. Tuy vậy, trong hố thám sát cũng phát hiện được lon sành có niên đại thuộc nửa thế kỷ XIV.
Từ kết quả đào thám sát phát hiện di vật và đối chiếu với các tư liệu có thể xác định chùa Minh Phú là một ngôi chùa cổ khởi dựng từ cuối thời Trần, đầu thời Lê (cuối thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV). Đặc điểm của chùa Minh Phú: cột gỗ, lợp ngói, kiến trúc nhỏ, đơn giản, là thiết chế Phật giáo, nằm ngay trong làng Minh Phú xưa.
Nguyên nhân chùa bị hỏng: Có thể kiến trúc nhỏ nên khi bị gió bão, lốc mạnh đã làm chùa Minh Phú đổ sập hoặc bị hỏa hoạn thiêu rụi.
* Đền Minh Phú - “Minh Phú Từ”:
Đền Minh Phú, thời gian xây dựng cũng như thời gian, nguyên nhân bị hỏng không hoạt động chưa xác định được năm cụ thể. Qua đào thám sát phát hiện các di vật bằng gốm men và đồ sành tại khu vực Di tích. Theo thạc sỹ Phạm Thanh Sơn, Viện Khảo cổ học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam có thể khẳng định: các di vật có niên đại khoảng thế kỷ XV - XVI.
Hiện nay tại xã Vân Hội có núi Mặn, theo tiếng Tày mặn ý nói ở trên núi rất thiêng, nếu ai làm nhà ở sẽ bị ma quỷ, thần thánh quấy nhiễu, nên hàng chục năm qua không có ai dám làm nhà trên núi Mặn. Các cụ già trong xã cho biết, xưa trên núi có một ngôi đền thờ Mẫu rất linh thiêng. Căn cứ di vật đào được tại thôn 6, xã Vân Hội có thể đền (miếu) Minh Phú khởi dựng vào thời Lê. Di tích đền Minh Phú là một thiết chế tín ngưỡng dân gian; khởi nguồn là một miếu nhỏ, qua quá trình phát triển về dân số và nhu cầu hoạt động tín ngưỡng, tâm linh của người dân nên chuyển thành đền.
6. Các nhân vật được thờ tự
- Nhân vật được thờ đình Minh Phú: Thờ “Tam vị thượng đẳng thần Cao Sơn Đại Vương”, đó là ba vị thần: Tản Viên Sơn Thánh (còn có tên gọi là Sơn Tinh), Quý Minh Đại Vương và Thần Cao Sơn (hay Cao Sơn Địa Vương). Tam vị Cao Sơn Đại Vương đã trở thành Thành Hoàng và được nhân dân Việt Nam thờ phụng từ lâu đời.
- Nhân vật được thờ chùa Minh Phú tự: Thờ Đức Phật.
- Nhân vật được thờ đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Thờ Mẫu. “Mẫu” - là “Bà Mẹ Thiêng liêng” với quyền năng vô bờ bến. Về tín ngưỡng thờ Mẫu, người dân Minh Phú chịu ảnh hưởng của thờ Mẫu Âu Cơ và thờ Mẫu đệ Nhị Thượng Ngàn (đền Đông Cuông), Mẫu Thượng Thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu Thoải.
7. Các hiện vật trong di tích
- Các hiện vật đình Minh Phú: Lon gốm đất nung đường kính từ 8cm - 15cm, cao 12cm - 20 cm; 03 sắc phong của vua Khải định cho đình Minh Phú: Đạo sắc phong số 1; Đạo sắc phong số 2; Đạo sắc phong số 3.
- Các hiện vật chùa Minh Phú tự: Không còn các hiện vật.
- Các hiện vật đền Minh Phú “Minh Phú Từ”: Không còn các hiện vật.
8. Phong tục lễ hội
* Lễ hội đình Minh Phú
Trong năm tại đình diễn ra nhiều lễ hội, nhưng lễ chính vào ngày rằm tháng giêng và rằm tháng bảy.
Trong dịp lễ rằm tháng giêng và tháng bảy, dân làng có tổ chức rước lễ từ đình Minh Phú vào đình Bằng Là (nay thuộc xã Đại Lịch, huyện Văn Chấn), để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Bá Vậy - tức Phạm Văn Giã người có công chiêu dân khai khẩn lập làng, lập mường. Và rước lễ từ đình Minh Phú vào đình làng Dọc để tưởng nhớ, tri ân công ơn của cụ Phạm Đình Lực (tức Phạm Bá Lực), người có công lập làng, khai phá làng Dọc, được vua giáng chỉ phong hàm “Tiền Kinh Khai Khẩn”, Thụy phong cấp 2 là “Thượng Ngàn Đại Sơn Nhân Thần”, năm Đinh Sửu niên hiệu Cảnh Hưng Thập Bát Niên thứ 18.
* Lễ hội Chùa Minh Phú
Theo nghi lễ Phật giáo, lễ hội được tổ chức vào các ngày:
- Tết Nguyên Tiêu
- Tết Phật Đản
- Tết Trung Nguyên
* Lễ hội đền Minh Phú: tổ chức vào các ngày:
- Rằm tháng Giêng - Tết Thượng Nguyên.
- Lễ thờ Mẫu (3/3 âm lịch)
- Tết Trung Nguyên
- Lễ Đức Thánh Trần (20/8 âm lịch)
Trải qua thời gian, biến cố thăng trầm của lịch sử, chùa, đền, đình Minh Phú không còn, chỉ còn lại dấu tích và chỉ còn trong tâm thức của mỗi người dân Vân Hội và trong vùng. Nhưng với tinh thần tôn trọng lịch sử, tự hào dân tộc, để truyền thống nối tiếp lịch sử không ngừng trong dòng chảy văn hóa Đại Việt, xã Vân Hội đã bảo quản giữ gìn nguyên vẹn 3 đạo sắc phong của vua Khải Định, thường xuyên giáo dục lịch sử truyền thống văn hóa cho các thế hệ. Đặc biệt thực Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, xã Vân Hội đã ban hành Nghị quyết, kế hoạch về lập hồ sơ xếp hạng di tích chùa, đền, đình Minh Phú nhằm phục dựng bảo tồn và phát huy giá trị di tích, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển du lịch văn hóa tâm linh gắn với du lịch văn hóa cộng đồng sinh thái, đồng thời đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong và ngoài địa phương.
Năm 2016, xã Vân Hội đã cùng với Bảo tàng, Trung tâm quản lý Di tích và Phát triển du lịch tỉnh đào, tham sát, xác định các tầng văn hóa, sưu tầm, nghiên cứu lập hồ sơ khoa học di tích và quy hoạch 18.967,5m2 đất để phục dựng lại di tích chùa, đền, đình Minh Phú. Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đã công nhận chùa - đền - đình Minh Phú, xã Vân Hội, huyện Trấn Yên là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái cung cấp)
Các bài khác
- Di tích “Nậm Tốc Tát”, xã Thạch Lương, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích đình Giới Phiên, xã Giới Phiên, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích đình - đền - chùa Chấn Thịnh, huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích Đình Lâm Thượng (22/08/2019)
- Di tích trường Trung cấp Y cũ, phường Nguyễn Thái Học, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích đền Cửa Ngòi, xã Đại Minh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích đình, đền và chùa Văn Tiến, xã Văn Tiến, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích đền Thánh Mẫu, xã Mậu Đông, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích đền và chùa Rối xã Tân Thịnh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
- Di tích Đình, Đền, Chùa Nam Cường, xã Nam Cường, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (22/08/2019)
Xem thêm »