Đèo Khau Phạ là đèo dài và hiểm trở nhất trên tuyến Quốc lộ 32 và cũng là cung đường quanh co, có độ dốc đứng thuộc hàng “Tứ đại danh đèo” ở phía Bắc Việt Nam dài trên 30km, nằm ở khu vực giáp ranh giữa hai huyện Văn Chấn và Mù Cang Chải, với độ cao trung bình từ 1.200 mét đến 1.500m so với mực nước biển. Đèo Khau Phạ đi qua nhiều địa danh nổi tiếng. Chân đèo phía Đông có bản Trống Tông Khúa, xã Cao Phạ gắn liền với Đội du kích Khau Phạ trong kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1946 đến 1952, từng được mệnh danh là những chiến binh mây mù “Nương theo mây gió, xuất quỷ nhập thần” dùng súng kíp, liên tục đánh chặn nhiều cuộc hành quân của Pháp từ Nghĩa Lộ lên Lai Châu, Lào Cai.
Ảnh tư liệu - những du kích Khau Phạ đầu tiên
Đội du kích Khau Phạ (xã Cao Phạ, huyện Mù Cang Chải) được thành lập vào tháng 10 năm 1946 tại bản Trống Tông Khúa trên đỉnh đèo Khau Phạ (trước đó vốn là một đội vũ trang được ra đời từ năm 1944 của đồng bào Mông để chống lại sự đàn áp bóc lột của bọn thống trị, rồi sau trở thành đội vũ trang chống lại bọn Quốc dân đảng).
Đây là đội du kích ở vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thành lập vào tháng 10 năm 1946 để củng cố chính quyền cách mạng ở vùng cao. Ngày đầu thành lập, đội chỉ có 7 đội viên, do ông Giàng Khua Kỷ là người dân tộc Mông, trước làm Thống lý nhưng được cách mạng giác ngộ đã tham gia Ban chỉ huy Đội du kích Khau Phạ. Mặc dù trang bị vũ khí của đội chủ yếu là súng kíp và các loại vũ khí thô sơ khác như dao nhọn, mác, nỏ.., nhưng đội đã nhanh chóng tập luyện để sẵn sàng đối phó với địch. Vừa tham gia luyện tập, 7 người trong đội đã tuyên truyền, vận động thanh niên dân tộc Mông vào đội du kích theo cách mạng đánh Pháp. Chỉ sau vài tháng tập luyện, quân số của đội đã tăng từ 7 lên 30 đội viên và sau này lên tới 200 đội viên, đều là người dân tộc Mông của các xã trong huyện Mù Cang Chải. Với nhiệm vụ chủ yếu là chốt chặn con đường đèo Khau Phạ chạy dọc địa phận xã Cao Phạ nối liền Nậm Khắt, xã Ít Ong (Sơn La) với các xã Tú Lệ, Gia Hội và thị xã Nghĩa Lộ. Ở địa thế hiểm trở, một bên vách núi cao, bên kia là vực sâu, nhưng với tinh thần chiến đấu gan dạ, thông minh, đội du kích trên đèo Khau Phạ đã tổ chức được nhiều trận đánh địch, lập nhiều chiến công vang dội, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, làm cho giặc Pháp kinh hoàng.
Lịch sử ghi lại, trong suốt những năm hoạt động (1946 - 1952), Đội đã chặn đánh nhiều trận, gây cho quân Pháp nhiều khó khăn, tổn thất. Đội vừa tổ chức huấn luyện vừa làm nhiệm vụ canh gác, bảo vệ nhân dân, bảo vệ sản xuất tại đỉnh đèo, vừa dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở, phối hợp với bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, anh dũng đánh giặc, lập nhiều chiến công xuất sắc.
Tháng 3 năm 1948, đội du kích đã phối hợp với đội xung phong Quyết Tiến do đồng chí Hồng Quân và Lý Bạch Luân phụ trách, tổ chức phục kích, chặn đánh địch trên đoạn đường Tú Lệ - Gia Hội, thu được 3 súng trường và một số đạn dược. Cuối tháng 3 năm 1948, Liên khu ủy và Bộ Tư lệnh Liên khu X quyết định mở chiến dịch Nghĩa Lộ, riêng Đội du kích Khau Phạ đã phối hợp với đại đội 520 và đội xung phong Quyết Tiến đánh đồn Tú Lệ, bắt sống tên Bang tá Lò Văn Inh (chỉ huy đồn), đồng thời làm tan rã đơn vị lính dõng gồm 27 tên, thu 2 súng máy, gần 20 súng trường và một số vũ khí khác. Sau chiến thắng này, đội được trang bị thêm 50 khẩu súng.
Từ năm 1949, nhận thấy sự lợi hại của Đội du kích Khau Phạ, địch ngày càng khủng bố mạnh hơn, chúng ra sức tập trung dân, kiểm soát chặt chẽ địa hình. Vì vậy, hoạt động của đội gặp nhiều khó khăn: thiếu lương thực, thực phẩm, đạn dược, mất hoàn toàn liên lạc với Đảng, với chính quyền, với quân đội. Tuy vậy, toàn đội vẫn tuyệt đối trung thành, kiên trì và chiến đấu liên tục. Từ năm 1949, đội chuyển sang làm nòng cốt, cùng nhân dân bất hợp tác với giặc, chống phu, chống thuế. Vụ thuế năm 1950, địch không thu được của đồng bào Cao Phạ dù chỉ là một hạt thóc. Tháng 10 năm 1952, khi địch bắt 22 người của ta mà chúng nghi là có liên lạc với cách mạng, đội đã lãnh đạo nhân dân Cao Phạ đứng lên tranh đấu, buộc địch phải thả 22 người đó.
Sau năm 1951, Pháp đánh phá dữ dội các cơ sở của ta trong vùng hậu địch, hầu hết các cơ sở đều bị tan rã. Nhưng với lòng quả cảm, kiên cường bám trụ, Đội du kích Khau Phạ vẫn duy trì cuộc chiến đấu, gây cho địch nhiều tổn thất. Đội đã trở thành một điểm nối quan trọng nằm ở cửa ngõ Mù Cang Chải, nối các cơ sở cách mạng trong vùng với hai đầu Nghĩa Lộ - Than Uyên.
Tháng 10 năm 1952, Bộ Tổng tư lệnh mở chiến dịch Tây Bắc nhằm giải phóng phân khu Nghĩa Lộ và các tiểu khu Than Uyên, Phù Yên, Sơn La. Ngày 16 tháng 10 năm 1952, địch cho một tiểu đoàn nhảy dù xuống Tú Lệ, Cao Phạ nhưng đã bị đội du kích phối hợp với bộ đội chủ lực tiêu diệt, truy kích. Ngày 15 tháng 10 năm 1952, Than Uyên được giải phóng. Ngày 18 tháng 10 năm 1952, địch thất bại thảm hại ở phân khu Nghĩa Lộ và tìm đường tháo chạy sang Sơn La. Tàn quân của địch đi qua Cao Phạ đã bị lực lượng du kích truy kích, tiêu diệt. Mù Cang Chải được hoàn toàn giải phóng khỏi ách chiếm đóng của thực dân Pháp.
Với 41 trận chiến đấu, trong đó có 16 trận chiến đấu độc lập, 25 trận đánh phối hợp với bộ đội chủ lực, Đội du kích Khau Phạ đã tiêu diệt, bắt sống và gọi hàng 125 tên địch, thu 150 khẩu súng các loại cùng nhiều quân trang, quân dụng khác của quân địch. Riêng người chỉ huy đội du kích là Lý Nủ Chu đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Ba. Nhân dân xã Cao Phạ cũng được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Đèo Khau Phạ với nhiều địa điểm có giá trị lịch sử, trong đó có ba điểm trọng yếu đã diễn ra những sự kiện quan trọng trong suốt 8 năm hoạt động của Đội du kích Khau Phạ, cụ thể là: Bản Trống Tông Khúa, nơi thành lập Đội du kích Khau Phạ; Nhà của ông Lý Nủ Chu, cơ sở cách mạng của Đội du kích Khau Phạ (bản Lìm Mông) và hang Dơi, địa điểm phục kích Pháp dưới chân đèo Khau Phạ. Năm 1948, một số đội viên đội du kích bị sa vào tay giặc, bị tra tấn rất dã man, bị giết chóc, cầm tù, nhưng tất cả những con người ưu tú ấy vẫn luôn thể hiện ý chí hiên ngang, bất khuất, luôn xứng đáng là những người con yêu quý của đồng bào Mông trên núi rừng Khau Phạ.
Tinh thần chiến đấu cùng những chiến công của du kích Khau Phạ đã thể hiện sinh động chủ nghĩa yêu nước, tấm lòng son sắt với Đảng và quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước của đồng bào Mông và nhân dân các dân tộc nơi cổng trời Khau Phạ.
0 lượt xem
Ban Biên tập