CTTĐT - Tiền thân là Lâm trường Púng Luông, trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải đã và đang ngày càng khẳng định được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời làm tốt vai trò trung tâm kinh tế - kỹ thuật, cung cấp giống cây trồng, dịch vụ kỹ thuật và tiêu thụ, chế biến chè, lâm sản cho nhân dân trong vùng; giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn ở huyện vùng cao Mù Cang Chải.
Lãnh đạo Ban Quản lý Rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải nắm bắt công tác BVR và PCCCR tại xã Dế Xu Phình
Lâm trường Púng Luông chính thức được thành lập ngày 19 tháng 6 năm 1970, theo Quyết định số 328/QĐ của Ủy ban hành chính tỉnh Nghĩa Lộ thuộc Khu tự trị Tây Bắc với nhiệm vụ chủ yếu là khai hoang, phục hóa đất đai, trồng rừng và phát triển kinh tế theo mô hình tập trung, tập thể; tuyên truyền vận động đồng bào Mông trên địa bàn cùng tham gia vào làm nghề rừng, góp phần định canh, định cư, tạo nguồn thu nhập và xóa đói giảm nghèo cho đồng bào tại các xã vùng cao đặc biệt khó khăn của huyện Mù Cang Chải.
Những ngày đầu mới thành lập, cơ sở vật chất thiếu thốn, trụ sở Lâm trường chỉ là những gian nhà tranh nhỏ, đơn sơ, với trên 20 cán bộ công nhân, chủ yếu là người dân từ các tỉnh miền xuôi như Thái Bình, Hưng Yên, Phú Thọ… lên lập nghiệp, cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn, thời tiết khí hậu khắc nhiệt và chưa hiểu về phong tục, tập quán, chưa biết tiếng để giao tiếp với người dân địa phương; vì vậy nhiều người lên lâm trường lại bỏ về quê sinh sống. Thời kỳ này việc trồng rừng do công nhân lâm trường thực hiện, chưa có sự tham gia của người dân, trong khi đó từ quy trình kỹ thuật, kinh nghiệm đến nguồn giống đều thiếu. Bởi vậy, công tác trồng rừng theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao của Lâm trường gặp nhiều khó khăn, diện tích trồng rừng hàng năm đạt thấp. Để khắc phục khó khăn, tồn tại, Lãnh đạo Lâm trường đã xác định tuyển đồng bào địa phương vào làm công nhân trồng rừng và huy động công nhân sang huyện Mường La, tỉnh Sơn La thu hái quả thông về lấy hạt làm giống. Với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, công nhân Lâm trường thời ấy tự tìm đất khai hoang ruộng nước, trồng cây lương thực để cải thiện đời sống và tuyên truyền, vận động đồng bào vào lâm trường, tăng gia sản xuất, định canh, định cư, ổn định cuộc sống. Từ sự nỗ lực ấy, hai bản người Mông đầu tiên là Mí Háng Tâu, Nả Háng Tâu rồi người trong các bản khác của xã Púng Luông, Dế Xu Phình, La Pán Tẩn cũng lần lượt vào Lâm trường trồng rừng. Vì vậy, mặc dù khó khăn, thiếu thốn, khí hậu khắc nhiệt và trồng cây rễ trần nhưng trong 5 năm (từ 1970- 1975), Lâm trường đã trồng được 251 ha rừng thông.
Đất nước thống nhất, bước vào giai đoạn thực hiện hai kế hoạch 5 năm (thời kỳ bao cấp 1976 - 1986): Tổ chức của Lâm trường từng bước đi vào ổn định, với 270 công nhân viên thì người Mông chiếm 75%, cơ cấu gồm: Ban Giám đốc, 3 phòng chuyên môn, 3 đội sản xuất và Chi bộ Đảng có 20 đảng viên sinh hoạt tại 3 tổ đảng. Thời kỳ này, tập quán đốt nương, làm rẫy của người dân diễn ra phổ biến làm cho công tác bảo vệ, phát triển rừng gặp nhiều khó khăn, gian khổ, thậm chí có người đã hy sinh (Bà Phạm Thị Tiến hy sinh khi chữa cháy rừng năm 1980). Mặc dù vậy, Lâm trường vẫn tổ chức trồng được 1.766 ha rừng, tăng gia ổn định đời sống công nhân viên gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng ở địa phương.
Giai đoạn 1987 - 1992, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn đầu chưa có các chương trình, dự án mục tiêu quốc gia: Với nòng cốt là công nhân lao động mà chủ yếu là người địa phương, lâm trường đã tổ chức trồng 1.492 ha rừng theo kế hoạch nhà nước giao và tăng gia sản xuất, ổn định đời sống cán bộ, công nhân. Ngày 10/12/1992, Lâm trường Púng Luông được thành lập lại tại Quyết định số 201/QĐ/UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái và được giao quản lý là 15.118 ha rừng, đất lâm nghiệp.
Năm 1993, khi Chương trình 327 (thực hiện theo Quyết định 327-CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước) chính thức được triển khai, Lâm trường Púng Luông chuyển đổi mô hình hoạt động từ kế hoạch hóa tập trung sang mô hình lâm nghiệp xã hội, hay nói một các khác là chuyển từ làm lâm nghiệp truyền thống sang mô hình xã hội hóa lâm nghiệp, Lâm trường làm chủ đầu tư, tổ chức thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu thanh toán còn nhân dân mới là chủ thể thực hiện và được hưởng công trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng theo suất đầu tư của nhà nước. Kể từ khi có Chương trình 327, chính sách giao đất, giao rừng cho người dân và những lợi ích thiết thực mà người dân được hưởng từ nguồn đầu tư cho Chương trình đã biến chủ trương “Toàn dân tham gia bảo vệ, trồng rừng” ở mảnh đất vùng cao Mù Cang nhiều khó khăn trở thành hiện thực. Toàn dân vào cuộc, nhân dân ở cả 13 xã, thị trấn của huyện đều tham gia vào việc trồng và bảo vệ rừng. Chỉ trong 6 năm đã thực hiện trồng mới được 3.356 ha rừng phòng hộ, tăng gần gấp đôi so với 10 năm trước đó và thực hiện khoanh nuôi tái sinh 1.000 ha, bảo vệ 140.652 ha rừng/năm đem lại nguồn thu 20 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước chi cho trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng và hỗ trợ phát triển chăn nuôi, trồng trọt.
Giai đoạn 1999 - 2010, thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, theo Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (gọi tắt là Dự án 661). Đây là thời kỳ đổi mới và phát triển mạnh mẽ của Lâm trường theo cơ chế thị trường và mô hình tổ chức quản lý. Việc chuyển từ một nền kinh tế nhà nước kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường đã giải phóng lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp vốn dựa trên các nông trường quốc doanh và hợp tác xã. Bộ máy được thu gọn và nâng cao hiệu quả hoạt động với nhiệm vụ chuyển giao kỹ thuật, dịch vụ vật tư, cây giống cho nhân dân bảo vệ và phát triển rừng.
Dự án 661 ra đời với một trong các mục tiêu chính là sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi… nên Lâm trường giảm thiểu tối đa lực lượng công nhân, chuyển từ trực tiếp trồng rừng sang vận động đồng bào dân tộc tham gia bảo vệ, phát triển rừng và làm dịch vụ giống.
Qua thực hiện dự án, toàn huyện trồng mới được 10.800 ha rừng các loại, khoanh nuôi tái sinh 25.400 ha, bảo vệ hơn 422 ha rừng/năm, trồng 50 ha chè Shan, tạo thu nhập từ ngân sách 30 tỷ đồng cho nhân dân; sản xuất, tiêu thụ 12.333 m3 gỗ, 696 tấn nhựa thông, 43 tấn chè búp khô. Đã tạo việc làm, tăng thu nhập cho 20 ngàn lao động/năm, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho 5.000 hộ/năm; nâng tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn lên 37,7% vào năm 2010, tăng 18,1% so với năm 1998. Tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 11/12/2006, Lâm trường Púng Luông được chuyển đổi thành Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải tại Quyết định số 653/QĐ-UBND ngày 11/12/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh với tổng số 38 cán bộ, công nhân viên, được giao quản lý 55.567 ha rừng và đất lâm nghiệp.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, tháng 11/2018, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải được sáp nhập với Lâm trường Văn Chấn, nhận nhiệm vụ quản lý 63.220 ha, tăng 7,6 ngàn ha so với năm 2006 và tăng 48 ngàn ha so với khi thành lập lại Lâm trường (năm 1992). Trong giai đoạn này (từ năm 2011 đến nay), Ban Quản lý đã tổ chức sản xuất 12,4 triệu cây giống các loại; vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn trồng mới được gần 5.000 ha rừng, bảo vệ hơn 475.000 ha rừng/năm, khai thác, tiêu thụ gần 4.700 m3 gỗ, 1.630 tấn nhựa thông và chế biến, tiêu thụ 15 tấn chè búp khô; người dân trong huyện được hưởng lợi gần 305,2 tỷ đồng (tăng hơn 10 lần đầu tư từ Dự án 661) từ nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng. Cũng trong giai đoạn này, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng của Chính phủ được triển khai đã tạo ra bước đột phá, hiệu quả trong việc tạo nguồn lực tài chính ổn định, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân tham gia giữ rừng và phục vụ công tác bảo vệ, phát triển rừng bền vững. Từ năm 2012 đến 2020, Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải đã tổ chức giao khoán bảo vệ 410.807 ha rừng/năm cho 82.353 lượt hộ gia đình tham gia với số tiền chi trả là 221,781 tỷ đồng.
Sau nửa thế kỷ nỗ lực xây dựng và phát triển, qua nhiều giai đoạn lịch sử, gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của đất nước; Lâm trường Púng Luông trước đây và nay là Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải luôn đồng hành cùng cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân các dân tộc trên địa bàn trong bảo vệ, phát triển rừng; đã tạo nên vùng rừng trồng thông trên 15 ngàn ha, vùng sơn tra trên 4 ngàn ha, vùng thảo quả trên 2 ngàn ha. Tạo nguồn thu từ rừng cho nhân dân từ rừng bình quân từ 200 - 300 tỷ đồng/năm, góp phần quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, ổn định kinh tế, an ninh - quốc phòng ở vùng cao. Ghi nhận sự nỗ lực cống hiến của đơn vị, Chủ tịch nước đã 3 lần trao tặng Huân chương lao động hạng Ba và Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Nông nghiệp và PTNT, các cấp, các ngành đã tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen cho các tập thể và các cá nhân xuất sắc.
Phát huy những thành quả đã đạt được, bằng những giải pháp cụ thể, trong thời gian tới, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và tổ chức thực hiện Phương án quản lý rừng bền vững có sự tham gia của người dân đối với 63.220 ha rừng, đất lâm nghiệp được giao; duy trì và phát triển tốt đối với 53.097,86 ha rừng đang cung ứng dịch vụ môi trường rừng; đồng thời phát triển rừng đối với diện tích đất lâm nghiệp còn lại bằng các biện pháp lâm sinh phù hợp, nhằm góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn lên 67,5% vào năm 2025 và phát huy giá trị của rừng trên cả 3 phương diện: Kinh tế - Xã hội và Môi trường... Nhiệm vụ đặt ra luôn hướng tới một mục tiêu chung là tạo dựng, bảo vệ và gìn giữ cho những cánh rừng vươn xanh khắp các triền đồi, ngọn núi, đem đến cuộc sống hạnh phúc, ấm no bền vững cho nhân dân vùng cao Mù Cang Chải.
Nguyễn Tư Khoa
Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải
4933 lượt xem
CTV: Nguyễn Tư Khoa
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Tiền thân là Lâm trường Púng Luông, trải qua 50 năm xây dựng và phát triển, Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải đã và đang ngày càng khẳng định được vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời làm tốt vai trò trung tâm kinh tế - kỹ thuật, cung cấp giống cây trồng, dịch vụ kỹ thuật và tiêu thụ, chế biến chè, lâm sản cho nhân dân trong vùng; giải quyết việc làm, cải thiện đời sống cho đồng bào dân tộc, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn ở huyện vùng cao Mù Cang Chải.Lâm trường Púng Luông chính thức được thành lập ngày 19 tháng 6 năm 1970, theo Quyết định số 328/QĐ của Ủy ban hành chính tỉnh Nghĩa Lộ thuộc Khu tự trị Tây Bắc với nhiệm vụ chủ yếu là khai hoang, phục hóa đất đai, trồng rừng và phát triển kinh tế theo mô hình tập trung, tập thể; tuyên truyền vận động đồng bào Mông trên địa bàn cùng tham gia vào làm nghề rừng, góp phần định canh, định cư, tạo nguồn thu nhập và xóa đói giảm nghèo cho đồng bào tại các xã vùng cao đặc biệt khó khăn của huyện Mù Cang Chải.
Những ngày đầu mới thành lập, cơ sở vật chất thiếu thốn, trụ sở Lâm trường chỉ là những gian nhà tranh nhỏ, đơn sơ, với trên 20 cán bộ công nhân, chủ yếu là người dân từ các tỉnh miền xuôi như Thái Bình, Hưng Yên, Phú Thọ… lên lập nghiệp, cuộc sống vô cùng khó khăn, thiếu thốn, thời tiết khí hậu khắc nhiệt và chưa hiểu về phong tục, tập quán, chưa biết tiếng để giao tiếp với người dân địa phương; vì vậy nhiều người lên lâm trường lại bỏ về quê sinh sống. Thời kỳ này việc trồng rừng do công nhân lâm trường thực hiện, chưa có sự tham gia của người dân, trong khi đó từ quy trình kỹ thuật, kinh nghiệm đến nguồn giống đều thiếu. Bởi vậy, công tác trồng rừng theo chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước giao của Lâm trường gặp nhiều khó khăn, diện tích trồng rừng hàng năm đạt thấp. Để khắc phục khó khăn, tồn tại, Lãnh đạo Lâm trường đã xác định tuyển đồng bào địa phương vào làm công nhân trồng rừng và huy động công nhân sang huyện Mường La, tỉnh Sơn La thu hái quả thông về lấy hạt làm giống. Với tinh thần tất cả cho tiền tuyến, công nhân Lâm trường thời ấy tự tìm đất khai hoang ruộng nước, trồng cây lương thực để cải thiện đời sống và tuyên truyền, vận động đồng bào vào lâm trường, tăng gia sản xuất, định canh, định cư, ổn định cuộc sống. Từ sự nỗ lực ấy, hai bản người Mông đầu tiên là Mí Háng Tâu, Nả Háng Tâu rồi người trong các bản khác của xã Púng Luông, Dế Xu Phình, La Pán Tẩn cũng lần lượt vào Lâm trường trồng rừng. Vì vậy, mặc dù khó khăn, thiếu thốn, khí hậu khắc nhiệt và trồng cây rễ trần nhưng trong 5 năm (từ 1970- 1975), Lâm trường đã trồng được 251 ha rừng thông.
Đất nước thống nhất, bước vào giai đoạn thực hiện hai kế hoạch 5 năm (thời kỳ bao cấp 1976 - 1986): Tổ chức của Lâm trường từng bước đi vào ổn định, với 270 công nhân viên thì người Mông chiếm 75%, cơ cấu gồm: Ban Giám đốc, 3 phòng chuyên môn, 3 đội sản xuất và Chi bộ Đảng có 20 đảng viên sinh hoạt tại 3 tổ đảng. Thời kỳ này, tập quán đốt nương, làm rẫy của người dân diễn ra phổ biến làm cho công tác bảo vệ, phát triển rừng gặp nhiều khó khăn, gian khổ, thậm chí có người đã hy sinh (Bà Phạm Thị Tiến hy sinh khi chữa cháy rừng năm 1980). Mặc dù vậy, Lâm trường vẫn tổ chức trồng được 1.766 ha rừng, tăng gia ổn định đời sống công nhân viên gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng ở địa phương.
Giai đoạn 1987 - 1992, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn đầu chưa có các chương trình, dự án mục tiêu quốc gia: Với nòng cốt là công nhân lao động mà chủ yếu là người địa phương, lâm trường đã tổ chức trồng 1.492 ha rừng theo kế hoạch nhà nước giao và tăng gia sản xuất, ổn định đời sống cán bộ, công nhân. Ngày 10/12/1992, Lâm trường Púng Luông được thành lập lại tại Quyết định số 201/QĐ/UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái và được giao quản lý là 15.118 ha rừng, đất lâm nghiệp.
Năm 1993, khi Chương trình 327 (thực hiện theo Quyết định 327-CT ngày 15/9/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số chủ trương, chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước) chính thức được triển khai, Lâm trường Púng Luông chuyển đổi mô hình hoạt động từ kế hoạch hóa tập trung sang mô hình lâm nghiệp xã hội, hay nói một các khác là chuyển từ làm lâm nghiệp truyền thống sang mô hình xã hội hóa lâm nghiệp, Lâm trường làm chủ đầu tư, tổ chức thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu thanh toán còn nhân dân mới là chủ thể thực hiện và được hưởng công trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng theo suất đầu tư của nhà nước. Kể từ khi có Chương trình 327, chính sách giao đất, giao rừng cho người dân và những lợi ích thiết thực mà người dân được hưởng từ nguồn đầu tư cho Chương trình đã biến chủ trương “Toàn dân tham gia bảo vệ, trồng rừng” ở mảnh đất vùng cao Mù Cang nhiều khó khăn trở thành hiện thực. Toàn dân vào cuộc, nhân dân ở cả 13 xã, thị trấn của huyện đều tham gia vào việc trồng và bảo vệ rừng. Chỉ trong 6 năm đã thực hiện trồng mới được 3.356 ha rừng phòng hộ, tăng gần gấp đôi so với 10 năm trước đó và thực hiện khoanh nuôi tái sinh 1.000 ha, bảo vệ 140.652 ha rừng/năm đem lại nguồn thu 20 tỷ đồng từ ngân sách Nhà nước chi cho trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng và hỗ trợ phát triển chăn nuôi, trồng trọt.
Giai đoạn 1999 - 2010, thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, theo Quyết định 661/QĐ-TTg ngày 29/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng (gọi tắt là Dự án 661). Đây là thời kỳ đổi mới và phát triển mạnh mẽ của Lâm trường theo cơ chế thị trường và mô hình tổ chức quản lý. Việc chuyển từ một nền kinh tế nhà nước kế hoạch hóa tập trung sang một nền kinh tế theo định hướng thị trường đã giải phóng lực lượng sản xuất ngành nông nghiệp vốn dựa trên các nông trường quốc doanh và hợp tác xã. Bộ máy được thu gọn và nâng cao hiệu quả hoạt động với nhiệm vụ chuyển giao kỹ thuật, dịch vụ vật tư, cây giống cho nhân dân bảo vệ và phát triển rừng.
Dự án 661 ra đời với một trong các mục tiêu chính là sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói, giảm nghèo, định canh, định cư, tăng thu nhập cho dân cư sống ở nông thôn miền núi… nên Lâm trường giảm thiểu tối đa lực lượng công nhân, chuyển từ trực tiếp trồng rừng sang vận động đồng bào dân tộc tham gia bảo vệ, phát triển rừng và làm dịch vụ giống.
Qua thực hiện dự án, toàn huyện trồng mới được 10.800 ha rừng các loại, khoanh nuôi tái sinh 25.400 ha, bảo vệ hơn 422 ha rừng/năm, trồng 50 ha chè Shan, tạo thu nhập từ ngân sách 30 tỷ đồng cho nhân dân; sản xuất, tiêu thụ 12.333 m3 gỗ, 696 tấn nhựa thông, 43 tấn chè búp khô. Đã tạo việc làm, tăng thu nhập cho 20 ngàn lao động/năm, góp phần xóa đói, giảm nghèo cho 5.000 hộ/năm; nâng tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn lên 37,7% vào năm 2010, tăng 18,1% so với năm 1998. Tiếp tục thực hiện sắp xếp, đổi mới theo chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngày 11/12/2006, Lâm trường Púng Luông được chuyển đổi thành Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải tại Quyết định số 653/QĐ-UBND ngày 11/12/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh với tổng số 38 cán bộ, công nhân viên, được giao quản lý 55.567 ha rừng và đất lâm nghiệp.
Thực hiện chủ trương của Nhà nước về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, tháng 11/2018, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải được sáp nhập với Lâm trường Văn Chấn, nhận nhiệm vụ quản lý 63.220 ha, tăng 7,6 ngàn ha so với năm 2006 và tăng 48 ngàn ha so với khi thành lập lại Lâm trường (năm 1992). Trong giai đoạn này (từ năm 2011 đến nay), Ban Quản lý đã tổ chức sản xuất 12,4 triệu cây giống các loại; vận động nhân dân các dân tộc trên địa bàn trồng mới được gần 5.000 ha rừng, bảo vệ hơn 475.000 ha rừng/năm, khai thác, tiêu thụ gần 4.700 m3 gỗ, 1.630 tấn nhựa thông và chế biến, tiêu thụ 15 tấn chè búp khô; người dân trong huyện được hưởng lợi gần 305,2 tỷ đồng (tăng hơn 10 lần đầu tư từ Dự án 661) từ nhận khoán trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng. Cũng trong giai đoạn này, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng của Chính phủ được triển khai đã tạo ra bước đột phá, hiệu quả trong việc tạo nguồn lực tài chính ổn định, góp phần cải thiện sinh kế cho người dân tham gia giữ rừng và phục vụ công tác bảo vệ, phát triển rừng bền vững. Từ năm 2012 đến 2020, Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải đã tổ chức giao khoán bảo vệ 410.807 ha rừng/năm cho 82.353 lượt hộ gia đình tham gia với số tiền chi trả là 221,781 tỷ đồng.
Sau nửa thế kỷ nỗ lực xây dựng và phát triển, qua nhiều giai đoạn lịch sử, gắn với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển của đất nước; Lâm trường Púng Luông trước đây và nay là Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải luôn đồng hành cùng cấp ủy, chính quyền địa phương và nhân dân các dân tộc trên địa bàn trong bảo vệ, phát triển rừng; đã tạo nên vùng rừng trồng thông trên 15 ngàn ha, vùng sơn tra trên 4 ngàn ha, vùng thảo quả trên 2 ngàn ha. Tạo nguồn thu từ rừng cho nhân dân từ rừng bình quân từ 200 - 300 tỷ đồng/năm, góp phần quan trọng trong xóa đói giảm nghèo, ổn định kinh tế, an ninh - quốc phòng ở vùng cao. Ghi nhận sự nỗ lực cống hiến của đơn vị, Chủ tịch nước đã 3 lần trao tặng Huân chương lao động hạng Ba và Ủy ban nhân dân tỉnh, Bộ Nông nghiệp và PTNT, các cấp, các ngành đã tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen cho các tập thể và các cá nhân xuất sắc.
Phát huy những thành quả đã đạt được, bằng những giải pháp cụ thể, trong thời gian tới, Ban quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải xác định nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và tổ chức thực hiện Phương án quản lý rừng bền vững có sự tham gia của người dân đối với 63.220 ha rừng, đất lâm nghiệp được giao; duy trì và phát triển tốt đối với 53.097,86 ha rừng đang cung ứng dịch vụ môi trường rừng; đồng thời phát triển rừng đối với diện tích đất lâm nghiệp còn lại bằng các biện pháp lâm sinh phù hợp, nhằm góp phần nâng tỷ lệ che phủ rừng trên địa bàn lên 67,5% vào năm 2025 và phát huy giá trị của rừng trên cả 3 phương diện: Kinh tế - Xã hội và Môi trường... Nhiệm vụ đặt ra luôn hướng tới một mục tiêu chung là tạo dựng, bảo vệ và gìn giữ cho những cánh rừng vươn xanh khắp các triền đồi, ngọn núi, đem đến cuộc sống hạnh phúc, ấm no bền vững cho nhân dân vùng cao Mù Cang Chải.
Nguyễn Tư Khoa
Giám đốc Ban Quản lý rừng phòng hộ huyện Mù Cang Chải