CTTĐT - Cách đây vừa tròn 65 năm, vào buổi sáng mùa thu tươi đẹp, ngày 25 tháng 9 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ đến dự mít tinh, nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh nhà. Những lời dạy của Bác Hồ cùng tư tưởng, tấm gương đạo đức sáng ngời và phong cách của Người luôn được Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân các dân tộc Yên Bái học tập, làm theo, vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương cũng như trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người dân. Qua đó, đã tạo động lực tinh thần quan trọng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm tỉnh phát triển hàng đầu của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2030 để giữ trọn lời hứa với Bác Hồ năm ấy.
Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Đỗ Đức Duy thăm mô hình trồng rau cải mầm đá của HTX nấm ăn, nấm dược liệu Mù Cang Chải
“Lược thuật chuyến thăm và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại tỉnh Yên Bái ngày 24-25/8/1958” in trong cuốn sách “Bác Hồ với Yên Bái, Yên Bái với Bác Hồ” do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái phát hành năm 2018 đã tái hiện toàn bộ nội dung chuyến thăm và làm việc đầy ý nghĩa của Bác Hồ tại tỉnh Yên Bái. Hình ảnh vị cha già dân tộc trên Lễ đài Sân vận động thị xã (nay là Khu di tích lịch sử Quốc gia Lễ đài Sân vận động Thành phố Yên Bái) với những lời căn dặn giản dị, thân thương, ân tình vô cùng sâu sắc, dể hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo đã in đậm trong trái tim bao thế hệ người Yên Bái.
Tra cứu Bài nói chuyện của Bác Hồ với đồng bào tỉnh Yên Bái ngày 25/9/1958 trong Hồ Chí Minh toàn tập (Tập 11, trang 532-534, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. H-2011), là một bài nói rất ngắn gọn, chỉ trong 1.051 từ nhưng nội dung hết sức rõ ràng, cụ thể, thiết thực, súc tích, chứa đựng những tư tưởng lớn lao của Bác, có sức lan tỏa mạnh mẽ và vang vọng mãi.
Trước hết, Bác nói đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Đây là vấn đề số một, hết sức quan trọng, bởi vì: "…Trước kia bọn thực dân phong kiến chia rẽ chúng ta, chia rẽ dân tộc, xúi giục dân tộc này hiềm khích oán ghét dân tộc khác để chúng áp bức, bóc lột chúng ta. Nay chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ". Bằng hình ảnh ví dụ hết sức gần gũi, sinh động, dễ hiểu, Bác đã nêu ý nghĩa của vấn đề đoàn kết: "…10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xoè 10 ngón tay mà bẻ từng ngón, như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó…".
Tiếp đến, Bác nói về việc tăng gia sản xuất. Phải làm thế nào để đời sống nhân dân được sướng hơn, được “ăn no mặc ấm”. Bác khẳng định, để làm được điều đó thì: “Phải tăng gia sản xuất!… đồng bào cần cố gắng phải làm ăn định canh. Điểm nữa là nên tăng vụ. Những ruộng làm một mùa cố gắng làm cả chiêm, cả mùa…”. Bác nhấn mạnh: “...Chính phủ là Chính phủ của dân, lấy thuế để làm lợi ích cho dân như mở trường học, làm nhà thương...”, “Ta nói: Nhân dân làm chủ, mà ông chủ, bà chủ lại tự dối ông chủ, bà chủ thì có đúng không?. Vì thế không nên sợ tăng vụ, sợ đóng thêm thuế, giấu diện tích mà phải nói thật thì hơn”.
Vấn đề thứ ba Bác đề cập đến là phải tiết kiệm và thực hiện đời sống văn hoá mới. Đó là, tiết kiệm trong tăng gia sản xuất, tiết kiệm trong tổ chức ma chay, cưới xin; phải xây dựng đời sống văn hóa mới gắn với thực hành tiết kiệm: “Đồng bào ta đây có nhiều điểm tốt, nhưng cũng còn có khuyết điểm cần phải sửa chữa dần dần. Hỏi có tiết kiệm không? Cũng có tiết kiệm nhưng lúc đám cưới, mời họ nội, họ ngoài chè chén linh đình, 2 bữa say sưa bằng thích. Nhưng sau đấy nhà trai, nhà gái phải bán trâu, bò, thóc, bán ruộng, đi vay nợ. Như thế là không tốt… đám ma cũng thế. Thường thì chôn cất cũng đủ, nhưng cũng cứ phải chén, thế rồi bán thóc, bán trâu, bán ruộng…".
Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nội dung thiết thực, nói đúng, nói trúng những vấn đề cơ bản trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân đang trăn trở, đã tác động to lớn đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc Yên Bái; đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là tài sản tinh thần vô giá, nguồn động lực to lớn giúp Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Yên Bái vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng cả nước vững bước tiến lên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Trong phạm vi bài viết này, xin được đề cập đến một số kết quả nổi bật của tỉnh Yên Bái trong phát triển kinh tế - xã hội, minh chứng sinh động cho việc thực hiện lời dạy của Bác Hồ “về tăng gia sản xuất” và thực hiện đời sống văn hóa mới.
Từ lời dạy của Bác: “Phải tǎng gia sản xuất!... Điểm nữa là nên tăng vụ. Những ruộng làm một mùa cố gắng làm cả chiêm, cả mùa” và những chủ trương, đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế, qua nhiều nhiệm kỳ kế tiếp nhau, Yên Bái đã triển khai thực hiện nghiêm túc, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế của tỉnh.
Xác định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, Yên Bái đã thay đổi tư duy từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”; cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững; tích cực ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo ra những sản phẩm đặc sắc, có thương hiệu, theo kịp xu hướng và nhu cầu của thị trường, kết hợp đảm bảo an ninh lương thực. Đồng thời, quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực để cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo thế mạnh của từng vùng, nhu cầu của thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn với xây dựng nông thôn mới hiệu quả, bền vững.
Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp năm 2022 đạt 5,95%, cao nhất trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ và cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Cơ cấu nội ngành chuyển dịch đúng hướng. Phát huy lợi thế so sánh, sự đa dạng các vùng sinh thái của tỉnh, phát triển các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản, hữu cơ, sản phẩm OCOP, các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triển dược liệu, nâng cao chất lượng rừng trồng gỗ lớn gắn với phát triển du lịch, dịch vụ, công nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp
Yên Bái đã xây dựng, phát triển được 10 vùng chuyên canh, sản phẩm chủ lực (vùng quế trên 81.000 ha, măng tre Bát Độ gần 6.000 ha, Sơn tra gần 10.000 ha, Lúa đặc sản chất lượng cao 3.000 ha, Ngô 15.000 ha, cây ăn quả gần 10.000 ha, Chè 7.000 ha, Dâu tằm trên 1.000 ha, nguyên liệu gỗ rừng trồng sản xuất trên 90.000 ha, tổng đàn gia súc đạt khoảng 770.000 con, vùng nuôi thủy sản trên 2.600 ha và trên 2.100 lồng cá); 10 sản phẩm đặc sản, hữu cơ (gạo nếp Tú Lệ, chè Shan hữu cơ, bưởi Đại Minh, cam sành Lục Yên, vịt bầu Lâm Thượng, gà đen đặc sản vùng cao, lợn bản địa, sơn tra, quế hữu cơ và các loại cây dược liệu). Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh đến nay, đã triển khai 38 dự án liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, xây dựng, phát triển được 191 sản phẩm chứng nhận OCOP.
Từ lời dạy của Bác: “Muốn tăng gia sản xuất tốt phải có tổ chức, phải có tổ đổi công”, trong mọi thời kỳ cách mạng, Yên Bái đã nghiêm túc triển khai thực hiện quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Đồng thời xác định, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã không chỉ là vấn đề về kinh tế, là nội hàm của tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, mà còn là vấn đề đảm bảo an sinh xã hội; thể hiện sự ưu việt của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với xu thế đổi mới tư duy tăng trưởng, không chạy theo tăng trưởng về số lượng mà phải thúc đẩy tăng trưởng bao trùm, gắn tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đảm bảo bình đẳng về tiếp cận cơ hội và thành quả của tăng trưởng, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.
Theo đó, đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác; để phát triển kinh tế tập thể xuất phát từ nhu cầu thực sự của người dân, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh; đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng cộng đồng thân thiện, văn minh, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, chương trình OCOP, liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã và các mô hình kinh tế khác, góp phần tăng cao thu nhập và tạo thêm nhiều việc làm mới; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thành viên và người lao động trong khu vực kinh tế tập thể. Hình thành các mô hình hợp tác xã hoạt động với quy mô liên thôn, liên xã, liên huyện với những sản phẩm chủ lực của địa phương, gắn với xây dựng và phát triển mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã nhanh và bền vững; phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thành viên; phát triển thành viên thông qua thu hút ngày càng nhiều người dân, hộ kinh tế cá thể và tổ chức tham gia hợp tác xã; xây dựng, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tiêu biểu, hoạt động hiệu quả trên địa bàn tỉnh...
Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 3.100 doanh nghiệp, 690 hợp tác xã, 6.088 tổ hợp tác, đã và đang góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Từ lời dạy của Bác: “Đất của ta không thiếu, nhưng một số đồng bào dân tộc ít người còn phải làm rẫy, làm nương. Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ nhau như anh em trong nhà. Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân tộc ít người... Hai bên phải giúp đỡ lẫn nhau... Một bên ra sức giúp, một bên ra sức làm. Giúp nhau thì việc gì cũng nhất định làm được”, Yên Bái đã triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững ở những vùng khó khăn và đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa ở những vùng có điều kiện. Quan tâm đầu tư nguồn lực và triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong đó phải kể đến, Yên Bái tiếp tục là điểm sáng của khu vực Tây Bắc trong xây dựng nông thôn mới; đã huy động, lồng ghép, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư của Trung ương, của tỉnh và đóng góp của toàn xã hội, đặc biệt là phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể, trực tiếp của nhân dân trong phát triển nông nghiệp, nông dân và xây dựng nông thôn mới.
Toàn tỉnh hiện có 99/150 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 66% tổng số xã của tỉnh; 27 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 06 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, 3/9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, trong đó huyện Trấn Yên là huyện miền núi đầu tiên của khu vực Tây Bắc đạt chuẩn nông thôn mới vào năm. Diện mạo nông thôn đã thực sự khởi sắc, đời sống của người dân không ngừng được nâng lên, bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc tiếp tục được phát huy, góp phần xây dựng nông thôn mới nhanh, thực chất và bền vững.
Cùng với đó, Yên Bái cũng là một điểm sáng trong các tỉnh Trung du và miền núi Bắc bộ về công tác giảm nghèo. Tỉnh đã huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp giảm nghèo nhanh và bền vững; triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, lồng ghép các nguồn lực thuộc các chương trình, dự án, quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần của hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét.
Yên Bái đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 32,21% năm 2016 xuống còn 4,76% năm 2021 (bình quân mỗi năm giảm 5,03%, riêng tại 2 huyện 30a giảm bình quân 8,32%/năm), tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 7,66%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân chung toàn tỉnh và của cả nước. Hết năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đứng thứ 11 so với các tỉnh trong khu vực Trung du miền núi phía Bắc và đứng thứ 16 so với cả nước, cải thiện 10 bậc so với đầu nhiệm kỳ; hết năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 12,92% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025). Giai đoạn 2016-2020, toàn tỉnh đã huy động, lồng ghép các nguồn lực hỗ trợ làm nhà cho trên 7.000 hộ nghèo. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, toàn tỉnh đã hỗ trợ làm trên 2.000 nhà cho hộ nghèo, góp phần quan trọng cải thiện chất lượng nhà ở của hộ nghèo, giúp các hộ nghèo ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo.
Sản xuất bao bì tại Công ty cổ phần Khoáng sản RED STONE (Khu Công nghiệp phía Nam, thành phố Yên Bái)
Kinh tế của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá qua các giai đoạn, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, quy mô nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025 luôn đạt mức tăng trưởng khá (bình quân trên 7,5%/năm), đặc biệt trong 02 năm 2021-2022, cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi dịch bệnh COVID-19; song, tỉnh đã giữ vững vùng xanh an toàn trong thời gian dài, hoàn thành “mục tiêu kép”, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn cho người dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt kết quả ấn tượng (năm 2021 tăng 7,11%, đứng thứ 2/14 tỉnh trong vùng; năm 2022 đạt 8,62%, là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 15 năm trở lại đây). Bình quân nửa nhiệm kỳ 2020 - 2025, tốc độ tăng GRDP đạt 7,86%/năm, đứng thứ 3/14 tỉnh trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ.
Từ lời dạy của Bác 65 năm về trước: “Đồng bào ta đây có nhiều điểm tốt, nhưng cũng còn có khuyết điểm cần phải sửa chữa dần dần...”, thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và thấm nhuần những lời dạy của Bác Hồ về thực hiện đời sống văn hóa mới để cuộc sống của nhân dân được tiến bộ, văn minh, trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, Yên Bái luôn chú trọng chăm lo phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, làm tốt công tác an sinh xã hội, thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đối với người có công và các đối tượng bảo trợ xã hội; thiết thực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Chất lượng giáo dục - đào tạo có nhiều khởi sắc, chất lượng giáo dục mũi nhọn và giáo dục đại trà được nâng lên. Tỉnh đã triển khai hiệu quả Đề án sắp xếp quy mô, mạng lưới trường, lớp gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Yên Bái đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (đứng thứ 24/63 tỉnh, thành phố) và đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 (đứng thứ 18/63 tỉnh thành phố). Tỷ lệ trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia đạt 72,9%. Phong trào thi đua xây dựng, nhân rộng các mô hình “trường học hạnh phúc”, lớp học hạnh phúc được triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh, 100% trường học trên địa bàn tỉnh triển khai thực hiện (năm học 2022 - 2023, đã có 289 trường học đạt tiêu chuẩn Trường học hạnh phúc, chiếm 65%, vượt 15% so với chỉ tiêu), góp phần nâng cao nâng cao mức độ hài lòng của người dân về môi trường giáo dục, chất lượng dạỵ và học.
Quan tâm ưu tiên nguồn lực phục vụ phát triển sự nghiệp y tế, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, phát triển nguồn nhân lực ngành y tế... nhằm nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh, y tế dự phòng, y tế cơ sở. Đến nay, Yên Bái có 02 Bệnh viện đa khoa, 05 bệnh viện chuyên khoa; đang xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh thành trung tâm khám bệnh, chữa bệnh chất lượng cao của khu vực Tây Bắc; toàn tỉnh đạt 10,8 bác sỹ/mười nghìn dân; 34,6 giường bệnh/10 nghìn dân; 154/173 số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế, đạt 89%, vượt kế hoạch đề ra; nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật chuyên sâu được thực hiện; cùng với phong trào thi đua “Lương y như từ mẫu” của ngành y tế, phong trào “Bác sỹ tận tâm - bệnh nhân hạnh phúc” là một phong trào có riêng có của Yên Bái nhằm nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân được triển khai sâu rộng trên tất cả các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh. Người dân đã được thụ hưởng nhiều dịch vụ y tế có chất lượng ngay từ huyến huyện, góp phần giảm chi phí cho nhân dân do phải chuyển tuyến và giảm tải cho tuyến sau.
Chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch. Công tác gìn giữ, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng con người Yên Bái được xác định là nhiệm vụ quan trọng, một trong những động lực tạo nên bản sắc và sức mạnh nội sinh trong quá trình phát triển. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 576 di sản văn hóa vật thể và 574 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê. Nghệ thuật Xòe Thái đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 06 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Năm 2022 đã xếp hạng thêm 07 di tích, nâng tổng số di tích đã được xếp hạng các cấp là 132 di tích (01 di tích Quốc gia đặc biệt; 12 di tích quốc gia và 119 di tích cấp tỉnh). Năm 2022 và đầu năm 2023 đã xây dựng thêm 12 hồ sơ nâng tổng số hồ sơ bảo tồn văn hóa phi vật thể các cấp lên 66 hồ sơ. Hiện có 1.555 đội văn nghệ quần chúng, góp phần quan trọng phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa, cải thiện đời sống tinh thần cho nhân dân.
Triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ và giải pháp nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân Yên Bái. Chất lượng, hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được nâng lên; các hủ tục lạc hậu cơ bản được xóa bỏ. Năm 2022, tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 82,3%, thôn, bản, tổ dân phố văn hóa đạt 69,2%, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị đạt chuẩn văn hóa đạt 89,5%. Tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 42,5%.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Qua khảo sát trên phạm vi toàn tỉnh, Chỉ số hạnh phúc của người dân Yên Bái năm 2022 là 62,57%; đạt Mức 2 - Khá hạnh phúc; tăng 8,27% so với năm 2020.
Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, trong bài “Yên Bái thực hiện lời Bác dạy 60 năm về trước”, đăng trên chuyên mục “Tư liệu văn kiện Đảng”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 08/10/2018, đã viết: “Cuối buổi làm việc với lãnh đạo Tỉnh ủy hôm đó, và nhất là khi nói chuyện với đồng bào trong buổi sáng ngày 25/9/1958, Bác mong muốn Yên Bái phải thi đua để trở thành một tỉnh khá nhất của các tỉnh miền núi”.
Khắc sâu lời Bác, trên suốt chặng đường 65 năm qua kể từ ngày Bác Hồ về thăm Yên Bái, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy tinh thần đoàn kết, phấn đấu, nỗ lực không ngừng xây dựng và phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Giữ trọn lời hứa với Bác, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX đã xác định phương hướng phát triển nhanh, bền vững theo hướng “Xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc” với 3 đột phá chiến lược, 7 nhiệm vụ trọng tâm, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu trở thành tỉnh khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm tỉnh phát triển hàng đầu của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2030; hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc - mong ước suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta, cũng là niềm mong mỏi, “ham muốn tột bậc”, nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời về độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân./.
2165 lượt xem
CTV: Hồng Thanh Tâm
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Cách đây vừa tròn 65 năm, vào buổi sáng mùa thu tươi đẹp, ngày 25 tháng 9 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn Chính phủ đến dự mít tinh, nói chuyện với đồng bào các dân tộc tỉnh nhà. Những lời dạy của Bác Hồ cùng tư tưởng, tấm gương đạo đức sáng ngời và phong cách của Người luôn được Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân các dân tộc Yên Bái học tập, làm theo, vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn địa phương cũng như trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người dân. Qua đó, đã tạo động lực tinh thần quan trọng, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển nhanh, bền vững theo hướng “xanh, hài hòa, bản sắc và hạnh phúc”, đưa Yên Bái trở thành tỉnh khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm tỉnh phát triển hàng đầu của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2030 để giữ trọn lời hứa với Bác Hồ năm ấy.
“Lược thuật chuyến thăm và làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại tỉnh Yên Bái ngày 24-25/8/1958” in trong cuốn sách “Bác Hồ với Yên Bái, Yên Bái với Bác Hồ” do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Yên Bái phát hành năm 2018 đã tái hiện toàn bộ nội dung chuyến thăm và làm việc đầy ý nghĩa của Bác Hồ tại tỉnh Yên Bái. Hình ảnh vị cha già dân tộc trên Lễ đài Sân vận động thị xã (nay là Khu di tích lịch sử Quốc gia Lễ đài Sân vận động Thành phố Yên Bái) với những lời căn dặn giản dị, thân thương, ân tình vô cùng sâu sắc, dể hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo đã in đậm trong trái tim bao thế hệ người Yên Bái.
Tra cứu Bài nói chuyện của Bác Hồ với đồng bào tỉnh Yên Bái ngày 25/9/1958 trong Hồ Chí Minh toàn tập (Tập 11, trang 532-534, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. H-2011), là một bài nói rất ngắn gọn, chỉ trong 1.051 từ nhưng nội dung hết sức rõ ràng, cụ thể, thiết thực, súc tích, chứa đựng những tư tưởng lớn lao của Bác, có sức lan tỏa mạnh mẽ và vang vọng mãi.
Trước hết, Bác nói đến vấn đề đoàn kết dân tộc. Đây là vấn đề số một, hết sức quan trọng, bởi vì: "…Trước kia bọn thực dân phong kiến chia rẽ chúng ta, chia rẽ dân tộc, xúi giục dân tộc này hiềm khích oán ghét dân tộc khác để chúng áp bức, bóc lột chúng ta. Nay chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ". Bằng hình ảnh ví dụ hết sức gần gũi, sinh động, dễ hiểu, Bác đã nêu ý nghĩa của vấn đề đoàn kết: "…10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xoè 10 ngón tay mà bẻ từng ngón, như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ nào chia rẽ thì phải làm thế nào? Thì phải đập vào đầu chúng nó…".
Tiếp đến, Bác nói về việc tăng gia sản xuất. Phải làm thế nào để đời sống nhân dân được sướng hơn, được “ăn no mặc ấm”. Bác khẳng định, để làm được điều đó thì: “Phải tăng gia sản xuất!… đồng bào cần cố gắng phải làm ăn định canh. Điểm nữa là nên tăng vụ. Những ruộng làm một mùa cố gắng làm cả chiêm, cả mùa…”. Bác nhấn mạnh: “...Chính phủ là Chính phủ của dân, lấy thuế để làm lợi ích cho dân như mở trường học, làm nhà thương...”, “Ta nói: Nhân dân làm chủ, mà ông chủ, bà chủ lại tự dối ông chủ, bà chủ thì có đúng không?. Vì thế không nên sợ tăng vụ, sợ đóng thêm thuế, giấu diện tích mà phải nói thật thì hơn”.
Vấn đề thứ ba Bác đề cập đến là phải tiết kiệm và thực hiện đời sống văn hoá mới. Đó là, tiết kiệm trong tăng gia sản xuất, tiết kiệm trong tổ chức ma chay, cưới xin; phải xây dựng đời sống văn hóa mới gắn với thực hành tiết kiệm: “Đồng bào ta đây có nhiều điểm tốt, nhưng cũng còn có khuyết điểm cần phải sửa chữa dần dần. Hỏi có tiết kiệm không? Cũng có tiết kiệm nhưng lúc đám cưới, mời họ nội, họ ngoài chè chén linh đình, 2 bữa say sưa bằng thích. Nhưng sau đấy nhà trai, nhà gái phải bán trâu, bò, thóc, bán ruộng, đi vay nợ. Như thế là không tốt… đám ma cũng thế. Thường thì chôn cất cũng đủ, nhưng cũng cứ phải chén, thế rồi bán thóc, bán trâu, bán ruộng…".
Những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với nội dung thiết thực, nói đúng, nói trúng những vấn đề cơ bản trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng bộ, Chính quyền và nhân dân đang trăn trở, đã tác động to lớn đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ và đồng bào các dân tộc Yên Bái; đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là tài sản tinh thần vô giá, nguồn động lực to lớn giúp Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Yên Bái vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, cùng cả nước vững bước tiến lên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Trong phạm vi bài viết này, xin được đề cập đến một số kết quả nổi bật của tỉnh Yên Bái trong phát triển kinh tế - xã hội, minh chứng sinh động cho việc thực hiện lời dạy của Bác Hồ “về tăng gia sản xuất” và thực hiện đời sống văn hóa mới.
Từ lời dạy của Bác: “Phải tǎng gia sản xuất!... Điểm nữa là nên tăng vụ. Những ruộng làm một mùa cố gắng làm cả chiêm, cả mùa” và những chủ trương, đường lối của Đảng ta về phát triển kinh tế, qua nhiều nhiệm kỳ kế tiếp nhau, Yên Bái đã triển khai thực hiện nghiêm túc, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế của tỉnh.
Xác định nông nghiệp là trụ đỡ của nền kinh tế, Yên Bái đã thay đổi tư duy từ “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”; cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, đẩy mạnh phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới bền vững; tích cực ứng dụng khoa học và công nghệ, tạo ra những sản phẩm đặc sắc, có thương hiệu, theo kịp xu hướng và nhu cầu của thị trường, kết hợp đảm bảo an ninh lương thực. Đồng thời, quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn lực để cơ cấu lại ngành nông nghiệp theo thế mạnh của từng vùng, nhu cầu của thị trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, gắn với xây dựng nông thôn mới hiệu quả, bền vững.
Tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp năm 2022 đạt 5,95%, cao nhất trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ và cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Cơ cấu nội ngành chuyển dịch đúng hướng. Phát huy lợi thế so sánh, sự đa dạng các vùng sinh thái của tỉnh, phát triển các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc sản, hữu cơ, sản phẩm OCOP, các mô hình sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, phát triển dược liệu, nâng cao chất lượng rừng trồng gỗ lớn gắn với phát triển du lịch, dịch vụ, công nghiệp chế biến, bảo quản, tiêu thụ, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Cơ giới hóa vào sản xuất nông nghiệp
Yên Bái đã xây dựng, phát triển được 10 vùng chuyên canh, sản phẩm chủ lực (vùng quế trên 81.000 ha, măng tre Bát Độ gần 6.000 ha, Sơn tra gần 10.000 ha, Lúa đặc sản chất lượng cao 3.000 ha, Ngô 15.000 ha, cây ăn quả gần 10.000 ha, Chè 7.000 ha, Dâu tằm trên 1.000 ha, nguyên liệu gỗ rừng trồng sản xuất trên 90.000 ha, tổng đàn gia súc đạt khoảng 770.000 con, vùng nuôi thủy sản trên 2.600 ha và trên 2.100 lồng cá); 10 sản phẩm đặc sản, hữu cơ (gạo nếp Tú Lệ, chè Shan hữu cơ, bưởi Đại Minh, cam sành Lục Yên, vịt bầu Lâm Thượng, gà đen đặc sản vùng cao, lợn bản địa, sơn tra, quế hữu cơ và các loại cây dược liệu). Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIX Đảng bộ tỉnh đến nay, đã triển khai 38 dự án liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị, xây dựng, phát triển được 191 sản phẩm chứng nhận OCOP.
Từ lời dạy của Bác: “Muốn tăng gia sản xuất tốt phải có tổ chức, phải có tổ đổi công”, trong mọi thời kỳ cách mạng, Yên Bái đã nghiêm túc triển khai thực hiện quan điểm chỉ đạo, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Đồng thời xác định, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã không chỉ là vấn đề về kinh tế, là nội hàm của tái cơ cấu nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, mà còn là vấn đề đảm bảo an sinh xã hội; thể hiện sự ưu việt của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phù hợp với xu thế đổi mới tư duy tăng trưởng, không chạy theo tăng trưởng về số lượng mà phải thúc đẩy tăng trưởng bao trùm, gắn tăng trưởng với tiến bộ và công bằng xã hội; không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đảm bảo bình đẳng về tiếp cận cơ hội và thành quả của tăng trưởng, không để ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển.
Theo đó, đã và đang triển khai nhiều giải pháp nhằm mở rộng quy mô sản xuất hàng hóa tập trung theo hướng phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác; để phát triển kinh tế tập thể xuất phát từ nhu cầu thực sự của người dân, phù hợp với điều kiện thực tiễn của tỉnh; đóng góp thiết thực vào phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, xây dựng cộng đồng thân thiện, văn minh, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy mạnh tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, chương trình OCOP, liên kết với doanh nghiệp, hợp tác xã và các mô hình kinh tế khác, góp phần tăng cao thu nhập và tạo thêm nhiều việc làm mới; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thành viên và người lao động trong khu vực kinh tế tập thể. Hình thành các mô hình hợp tác xã hoạt động với quy mô liên thôn, liên xã, liên huyện với những sản phẩm chủ lực của địa phương, gắn với xây dựng và phát triển mô hình kinh tế tập thể, hợp tác xã nhanh và bền vững; phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thành viên; phát triển thành viên thông qua thu hút ngày càng nhiều người dân, hộ kinh tế cá thể và tổ chức tham gia hợp tác xã; xây dựng, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới tiêu biểu, hoạt động hiệu quả trên địa bàn tỉnh...
Đến nay, toàn tỉnh có khoảng 3.100 doanh nghiệp, 690 hợp tác xã, 6.088 tổ hợp tác, đã và đang góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Từ lời dạy của Bác: “Đất của ta không thiếu, nhưng một số đồng bào dân tộc ít người còn phải làm rẫy, làm nương. Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ nhau như anh em trong nhà. Dân tộc nhiều người phải giúp đỡ dân tộc ít người... Hai bên phải giúp đỡ lẫn nhau... Một bên ra sức giúp, một bên ra sức làm. Giúp nhau thì việc gì cũng nhất định làm được”, Yên Bái đã triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ sản xuất nông nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo bền vững ở những vùng khó khăn và đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa ở những vùng có điều kiện. Quan tâm đầu tư nguồn lực và triển khai thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Trong đó phải kể đến, Yên Bái tiếp tục là điểm sáng của khu vực Tây Bắc trong xây dựng nông thôn mới; đã huy động, lồng ghép, sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư của Trung ương, của tỉnh và đóng góp của toàn xã hội, đặc biệt là phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể, trực tiếp của nhân dân trong phát triển nông nghiệp, nông dân và xây dựng nông thôn mới.
Toàn tỉnh hiện có 99/150 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 66% tổng số xã của tỉnh; 27 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; 06 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu, 3/9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn, hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới, trong đó huyện Trấn Yên là huyện miền núi đầu tiên của khu vực Tây Bắc đạt chuẩn nông thôn mới vào năm. Diện mạo nông thôn đã thực sự khởi sắc, đời sống của người dân không ngừng được nâng lên, bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc tiếp tục được phát huy, góp phần xây dựng nông thôn mới nhanh, thực chất và bền vững.
Cùng với đó, Yên Bái cũng là một điểm sáng trong các tỉnh Trung du và miền núi Bắc bộ về công tác giảm nghèo. Tỉnh đã huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp giảm nghèo nhanh và bền vững; triển khai các Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo, lồng ghép các nguồn lực thuộc các chương trình, dự án, quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng các huyện nghèo, vùng đặc biệt khó khăn. Đời sống vật chất và tinh thần của hộ nghèo, hộ cận nghèo, người dân tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện rõ nét.
Yên Bái đã kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 32,21% năm 2016 xuống còn 4,76% năm 2021 (bình quân mỗi năm giảm 5,03%, riêng tại 2 huyện 30a giảm bình quân 8,32%/năm), tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân 7,66%/năm, cao hơn nhiều so với bình quân chung toàn tỉnh và của cả nước. Hết năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh đứng thứ 11 so với các tỉnh trong khu vực Trung du miền núi phía Bắc và đứng thứ 16 so với cả nước, cải thiện 10 bậc so với đầu nhiệm kỳ; hết năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh còn 12,92% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2021-2025). Giai đoạn 2016-2020, toàn tỉnh đã huy động, lồng ghép các nguồn lực hỗ trợ làm nhà cho trên 7.000 hộ nghèo. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, toàn tỉnh đã hỗ trợ làm trên 2.000 nhà cho hộ nghèo, góp phần quan trọng cải thiện chất lượng nhà ở của hộ nghèo, giúp các hộ nghèo ổn định cuộc sống, vươn lên thoát nghèo.
Sản xuất bao bì tại Công ty cổ phần Khoáng sản RED STONE (Khu Công nghiệp phía Nam, thành phố Yên Bái)
Kinh tế của tỉnh đạt mức tăng trưởng khá qua các giai đoạn, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, quy mô nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng. Tăng trưởng kinh tế của tỉnh Yên Bái trong nửa đầu nhiệm kỳ 2020-2025 luôn đạt mức tăng trưởng khá (bình quân trên 7,5%/năm), đặc biệt trong 02 năm 2021-2022, cùng với cả nước, tỉnh Yên Bái chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi dịch bệnh COVID-19; song, tỉnh đã giữ vững vùng xanh an toàn trong thời gian dài, hoàn thành “mục tiêu kép”, thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm cuộc sống an toàn cho người dân. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt kết quả ấn tượng (năm 2021 tăng 7,11%, đứng thứ 2/14 tỉnh trong vùng; năm 2022 đạt 8,62%, là mức tăng trưởng cao nhất trong vòng 15 năm trở lại đây). Bình quân nửa nhiệm kỳ 2020 - 2025, tốc độ tăng GRDP đạt 7,86%/năm, đứng thứ 3/14 tỉnh trong vùng Trung du và miền núi Bắc bộ.
Từ lời dạy của Bác 65 năm về trước: “Đồng bào ta đây có nhiều điểm tốt, nhưng cũng còn có khuyết điểm cần phải sửa chữa dần dần...”, thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng, lãnh đạo và thấm nhuần những lời dạy của Bác Hồ về thực hiện đời sống văn hóa mới để cuộc sống của nhân dân được tiến bộ, văn minh, trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, Yên Bái luôn chú trọng chăm lo phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, làm tốt công tác an sinh xã hội, thực hiện đầy đủ, kịp thời chế độ, chính sách đối với người có công và các đối tượng bảo trợ xã hội; thiết thực nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Chất lượng giáo dục - đào tạo có nhiều khởi sắc, chất lượng giáo dục mũi nhọn và giáo dục đại trà được nâng lên. Tỉnh đã triển khai hiệu quả Đề án sắp xếp quy mô, mạng lưới trường, lớp gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục, đào tạo. Yên Bái đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (đứng thứ 24/63 tỉnh, thành phố) và đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2 (đứng thứ 18/63 tỉnh thành phố). Tỷ lệ trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia đạt 72,9%. Phong trào thi đua xây dựng, nhân rộng các mô hình “trường học hạnh phúc”, lớp học hạnh phúc được triển khai rộng khắp trong toàn tỉnh, 100% trường học trên địa bàn tỉnh triển khai thực hiện (năm học 2022 - 2023, đã có 289 trường học đạt tiêu chuẩn Trường học hạnh phúc, chiếm 65%, vượt 15% so với chỉ tiêu), góp phần nâng cao nâng cao mức độ hài lòng của người dân về môi trường giáo dục, chất lượng dạỵ và học.
Quan tâm ưu tiên nguồn lực phục vụ phát triển sự nghiệp y tế, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế, phát triển nguồn nhân lực ngành y tế... nhằm nâng cao chất lượng công tác khám chữa bệnh, y tế dự phòng, y tế cơ sở. Đến nay, Yên Bái có 02 Bệnh viện đa khoa, 05 bệnh viện chuyên khoa; đang xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh thành trung tâm khám bệnh, chữa bệnh chất lượng cao của khu vực Tây Bắc; toàn tỉnh đạt 10,8 bác sỹ/mười nghìn dân; 34,6 giường bệnh/10 nghìn dân; 154/173 số xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí quốc gia về y tế, đạt 89%, vượt kế hoạch đề ra; nhiều kỹ thuật mới, kỹ thuật chuyên sâu được thực hiện; cùng với phong trào thi đua “Lương y như từ mẫu” của ngành y tế, phong trào “Bác sỹ tận tâm - bệnh nhân hạnh phúc” là một phong trào có riêng có của Yên Bái nhằm nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân được triển khai sâu rộng trên tất cả các cơ sở y tế trên địa bàn toàn tỉnh. Người dân đã được thụ hưởng nhiều dịch vụ y tế có chất lượng ngay từ huyến huyện, góp phần giảm chi phí cho nhân dân do phải chuyển tuyến và giảm tải cho tuyến sau.
Chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho nhân dân, phát triển mạnh mẽ các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch. Công tác gìn giữ, bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng con người Yên Bái được xác định là nhiệm vụ quan trọng, một trong những động lực tạo nên bản sắc và sức mạnh nội sinh trong quá trình phát triển. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 576 di sản văn hóa vật thể và 574 di sản văn hóa phi vật thể được kiểm kê. Nghệ thuật Xòe Thái đã được UNESCO ghi danh vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, 06 di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Năm 2022 đã xếp hạng thêm 07 di tích, nâng tổng số di tích đã được xếp hạng các cấp là 132 di tích (01 di tích Quốc gia đặc biệt; 12 di tích quốc gia và 119 di tích cấp tỉnh). Năm 2022 và đầu năm 2023 đã xây dựng thêm 12 hồ sơ nâng tổng số hồ sơ bảo tồn văn hóa phi vật thể các cấp lên 66 hồ sơ. Hiện có 1.555 đội văn nghệ quần chúng, góp phần quan trọng phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hóa, cải thiện đời sống tinh thần cho nhân dân.
Triển khai thực hiện hiệu quả nhiệm vụ và giải pháp nâng cao chỉ số hạnh phúc cho người dân Yên Bái. Chất lượng, hiệu quả Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” và Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” được nâng lên; các hủ tục lạc hậu cơ bản được xóa bỏ. Năm 2022, tỷ lệ gia đình văn hóa đạt 82,3%, thôn, bản, tổ dân phố văn hóa đạt 69,2%, cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị đạt chuẩn văn hóa đạt 89,5%. Tỷ lệ người dân tập luyện thể dục thể thao thường xuyên đạt 42,5%.
Quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân. Qua khảo sát trên phạm vi toàn tỉnh, Chỉ số hạnh phúc của người dân Yên Bái năm 2022 là 62,57%; đạt Mức 2 - Khá hạnh phúc; tăng 8,27% so với năm 2020.
Giáo sư, Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Chuyên gia cao cấp, nguyên Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, trong bài “Yên Bái thực hiện lời Bác dạy 60 năm về trước”, đăng trên chuyên mục “Tư liệu văn kiện Đảng”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 08/10/2018, đã viết: “Cuối buổi làm việc với lãnh đạo Tỉnh ủy hôm đó, và nhất là khi nói chuyện với đồng bào trong buổi sáng ngày 25/9/1958, Bác mong muốn Yên Bái phải thi đua để trở thành một tỉnh khá nhất của các tỉnh miền núi”.
Khắc sâu lời Bác, trên suốt chặng đường 65 năm qua kể từ ngày Bác Hồ về thăm Yên Bái, Đảng bộ, chính quyền, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh luôn học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy tinh thần đoàn kết, phấn đấu, nỗ lực không ngừng xây dựng và phát triển quê hương ngày càng giàu đẹp.
Giữ trọn lời hứa với Bác, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIX đã xác định phương hướng phát triển nhanh, bền vững theo hướng “Xanh, hài hòa, bản sắc, hạnh phúc” với 3 đột phá chiến lược, 7 nhiệm vụ trọng tâm, quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu trở thành tỉnh khá vào năm 2025 và nằm trong nhóm tỉnh phát triển hàng đầu của vùng Trung du và miền núi phía Bắc vào năm 2030; hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc - mong ước suốt chiều dài lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc ta, cũng là niềm mong mỏi, “ham muốn tột bậc”, nguyện ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời về độc lập, tự do, xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc cho Nhân dân./.