Welcome to Yen Bai Portal
  • Đường dây nóng: 02163.818.555
  • English

Di tích cấp tỉnh >> Văn hóa - Xã hội

Di tích đình Làng Mường, xã Tô Mậu, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái

27/04/2017 17:35:00 Xem cỡ chữ Google
Ngày 6/2/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 216/QĐ-UBND, công nhận đình Làng Mường, xã Tô Mậu, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

Lễ đón nhận bằng công nhận Di tích Đình Làng Mường

1. Tên Di tích: Di tích lịch sử - văn hóa đình Làng Mường, xã Tô Mậu, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.

2. Loại hình Di tích: Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

3. Quyết định công bố Di tích: Quyết định số 216/QĐ-UBND ngày 6/2/2015 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái, công nhận đình Làng Mường, xã Tô Mậu, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.

4. Địa điểm và đường đến Di tích:

Di tích Đình Làng Mường thuộc xã Tô Mậu, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái có diện tích 4855,8m2. Để đến địa điểm di tích tích đình Làng Mường đi theo đường bộ là thuận tiện nhất. Từ Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái đi theo Quốc lộ 70 Yên Bái - Lào Cai khoảng 65 km đến xã Khánh Hòa. Sau đó, rẽ phải đi theo Quốc lộ 152 Khánh Hòa - thị trấn Yên Thế khoảng 8 km đến thôn Làng Mường, tiếp tục rẽ trái theo đường liên thôn khoảng 1 km là đến Di tích. Từ Ủy ban nhân dân huyện Lục Yên đi theo Quốc lộ 152 thị trấn Yên Thế - Khánh Hòa khoảng 10 km (qua dốc Thắm) đến thôn Làng Mường, sau đó rẽ phải theo đường liên thôn khoảng 1 km là đến Di tích. Từ Ủy ban nhân dân xã Tô Mậu đi theo Quốc lộ 152 thị trấn Yên Thế - Khánh Hòa khoảng 3 km (qua dốc Thắm), đi theo hướng dẫn trên cũng đến được Di tích.

5. Sơ lược lịch sử Di tích:

Tương truyền, vào khoảng cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII, các dòng họ Nguyễn, họ Lương, họ Dương ở Nghệ An, Nam Định và dòng họ Lý, người Tày ở Cao Bằng lên vùng đất này để khai khẩn đất hoang. Thấy đây là vùng đất mới, lại có tài nguyên thiên nhiên phong phú:“Dấu chân trâu có con cá trê, bụi rau dớn có con gà rừng” nên họ đã định cư ở đây. Lúc đầu chỉ có vài hộ cư dân sinh sống, sau đó một số cư dân ở Phú Thọ và các vùng lân cận cũng chuyển lên định cư, làm cho vùng đất này ngày càng đông đúc và phát triển. Khi cuộc sống của các cư dân dần ổn định, các nhu cầu về văn hóa, tín ngưỡng bắt đầu được chú trọng. Ban đầu, các cư dân miền xuôi do định cư xa quê nên lập miếu nhỏ để thờ tại gia. Trải qua thời gian giao thoa văn hóa giữa các cư dân miền xuôi với người dân bản địa (người Tày), văn hóa người Tày lấn át văn hóa người Kinh, mọi sinh hoạt đều theo phong tục, tập quán, tín ngưỡng của người Tày nên người Kinh đã tự coi mình là dân tộc Tày. Khoảng cuối thế kỷ XIX, người dân Làng Mường dựng Đình và lấy tên là “Đình Làng Mường” gắn với địa danh để làm nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh. Đình “thờ vọng” các vua Hùng gắn với thờ các vị thần linh, Thành Hoàng - người có công với nước, khai khẩn vùng đất lập làng, lập mường,  cầu mong các Thần che chở để cuộc sống an lành, mùa màng bội thu. Từ đó, đình Làng Mường trở thành nơi hội họp, bàn bạc việc của làng xã.

Đình Làng Mường được xây dựng theo kiến trúc cổ của người Tày, là nơi thờ thần núi, thần sông, Thành Hoàng làng, thờ vọng các vua Hùng, và các mo ké, mo cố (là thầy cúng từ các đời trước trông coi, hương khói tại đình đã qua đời). Theo các cụ cao niên tại địa phương cho biết, đình Làng Mường xưa có kiến trúc hình chữ Nhất, mặt trước quay về hướng Tây Nam. Đình gồm năm gian nối liền nhau, cột gỗ, mái lợp cọ, không có tường. Đình Làng Mường được thiết kế hài hòa theo địa thế đất tự nhiên, các hoa văn, họa tiết trên đầu xà, kèo, nhang án… được chạm trổ tinh xảo, mang dấu ấn nghệ thuật thế kỷ XIX và hoa văn dân tộc Tày. Trước sân Đình có nhiều cây cổ thụ lớn, tạo cho Đình làng một vẻ đẹp rất riêng của một vùng quê, đặc trưng cho kiến trúc Đình Tày cổ khu vực phía Bắc.

Đình Làng Mường được xây dựng vào khoảng thế kỷ XIX. Trải qua thời gian và do chiến tranh kéo dài nên Đình làng bị sụp đổ vào năm 1960. Đến năm 2013, nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hóa, tín ngưỡng, dân làng đã phục dựng lại ngôi đình ba gian theo lối kiến trúc xưa dựa trên nền cũ, với cột đổ bê tông (đường kính cột 25 cm), không có hoa văn, mái đình lợp cọ, không có tường bao quanh. Các ban thờ và thiết chế thờ tự được giữ nguyên như trước. Từ khi được phục dựng lại, đình Làng Mường trở thành địa điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng và các hoạt động lễ hội của nhân dân địa phương và nhân dân các vùng miền khác. Cũng từ đó, công tác trông coi, bảo vệ được chú trọng nên đến nay, Đình vẫn giữ nguyên hiện trạng như lúc mới phục dựng.

Lễ rước và đón nhận bằng Di tích đình Làng Mường

6. Các nhân vật được thờ tự:

- Thờ nhiên thần (thần núi, thần sông…): Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành tín ngưỡng là ở việc thờ các vị thiên thần, xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh”, nghĩa là, mọi vật đều có linh hồn và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình. Theo quan niệm của người Tày, khi khai hoang, tìm đất lập bản, lập mường, họ thường tìm đến chân núi - nơi có nhiều cây to - để làm nhà. Làm nhà phải tựa lưng vào núi để nhận được sự che chở của núi rừng, từ trong núi sẽ có nhiều khe nước chảy, phục vụ cho đời sống, sinh hoạt, sản xuất được thuận lợi. Do sự tác động quá lớn của yếu tố tự nhiên vào đời sống của tộc người nơi đây, theo thời gian, trong nhận thức của họ đã hình thành tín ngưỡng thờ cúng thần núi, thần sông với mong ước được che chở, bảo vệ để tránh được những điều không may (hạn hán, lũ lụt, mất mùa, dịch bệnh...) làm ảnh hường trực tiếp đến đời sống của người dân.

- Thờ Thành Hoàng: Những người đầu tiên đến khai hoang, mở mang vùng đất mới (Tô Mậu) có công rất lớn, đặt nền móng cho sự phát triển vùng đất Tô Mậu. Nhân dân quan niệm rằng: “Đất có Thổ công, sông có Hà bá; cảnh thổ nào phải có Thần Hoàng ấy”, cho nên, khi những người đó qua đời, nhân dân sẽ suy tôn là thần Thành Hoàng, bảo vệ vùng đất, che chở cho người dân.

- Vọng các vị vua Hùng: Vọng có nghĩa là nhìn, là hướng về, tin tưởng, trông chờ. Thờ vọng các vua Hùng là tôn thờ, hướng về các vị vua Hùng từ xa. Do đường xa xôi, cách trở, đi lại khó khăn, người dân ở đây đã lập ban thờ các vua Hùng để thể hiện lòng biết ơn đến các vị vua có công dựng và giữ nước. Thể hiện tình cảm, sự gắn bó của bộ phận người dân miền xuôi xa quê nhưng lòng vẫn hướng về chốn quê cũ.

- Thờ mo ké, mo cố: Mo ké, mo cố là những người đại diện cho bà con dân tộc Tày hương khói, cúng và tế lễ trong các dịp lễ, tết tại đình. Khi các mo ké, mo cố qua đời, họ được bà con dân làng tưởng nhớ  và  tôn  thờ  tại  Đình.

Các ban thờ tại đình Làng Mường chia thành ba tầng (ban thượng, ban trung, ban hạ).

- Ban thượng thờ các vị vua Hùng. Ban được thiết kế ở gian trong cùng (theo hướng nhìn từ cửa vào), được làm bằng gỗ, có chiều cao 2 mét so với mặt đất. Trên ban thờ có ba bát hương, lọ hoa và ba chén rượu được bày sẵn ở đó.

- Ban trung thờ các vị Thành Hoàng. Ban được thiết kế vuông góc với ban thượng kéo dài theo hai bên của Đình, được làm bằng gỗ, cao 1,5 mét so với mặt đất.

- Ban hạ được thiết kế ở dưới ban thượng, nằm trên mặt đất. Trên ban có 2 bát hương lần lượt thờ mo ké, mo cố và nhiên thần.

7. Các hiện vật trong Di tích:

Di tích đình Làng Mường trải qua thời gian đã bị sụp đổ, các hiện vật tại Đình đã bị thất lạc và mất, hiện chỉ còn lại hai chân tảng đá kê chân cột. Đây là hiện vật khá quan trọng, giúp xác định rõ hướng Đình và nền móng ngôi Đình xưa trước khi sụp đổ. Chân tảng đá kê chân cột là phiến đá tự nhiên, mang nhiều hoa văn thời nhà Nguyễn. Chân tảng hình vuông, chiều dọc 35 cm, ngang 35 cm, cao 15 cm, nặng 10 kg. Nhiều góc bị vỡ, trên bề mặt được trang trí hình cánh hoa nổi lên khoảng 1 cm, có vòng tròn tâm kê cột đường kính 20 cm.

8. Phong tục, lễ hội: Cũng như tất cả các đình làng Bắc Bộ, đình Làng Mường, xã Tô Mậu, huyện Lục Yên diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, tín ngưỡng.

- Lễ cầu Đình: Cứ vào ngày mùng 4 tháng Giêng hàng năm, tại đình Làng Mường diễn ra lễ hội chính. Theo quan niệm về văn hóa, tín ngưỡng của bà con nơi đây, ngày mùng 1 tháng Giêng là ngày tết cha mẹ. Ngày mùng 2 tháng Giêng là ngày tết bạn. Ngày mùng 3 tháng Giêng là ngày tết thầy. Ngày mùng 4 tháng Giêng là ngày dân làng lễ Đình tạ ơn thần thánh.

Công tác chuẩn bị lễ cúng được phân bổ theo theo từng dòng họ, gia đình lần lượt từng năm. Về sau, việc chuẩn bị cho lễ hội được đóng góp theo quỹ làng. Những người giữ chức sắc trong làng như: Chánh tổng, Lý trưởng, Phó lý cho đến ông mo sẽ đóng góp nhiều hơn, sau đó mới đến từng hộ gia đình. Lễ vật chính gồm có một con lợn, các mâm lễ tạp và chay được từng hộ dân trong địa phương chuẩn bị (gia đình, dòng họ nào có điều kiện về kinh tế thì làm mâm to và đầy đặn hơn, gia đình, dòng họ khó khăn hơn thì cúng mâm chay). Mâm lễ tạp có thịt gà, thịt lợn, cá, xôi, bánh chưng, rượu… Mâm lễ chay gồm các loại bánh chay, hoa quả do chính tay người dân trồng và tự làm thể hiện lòng thành đối với thần thánh. Theo đó từng gia đình, dòng họ cử ra những trai tân, gái chỉ để phục vụ cho công tác lễ hội tại Đình như: Đón ông mo, quét dọn, vệ sinh khu vực Đình, chuẩn bị còn, yến, trang phục mới… để vui hội Đình.

Lễ cầu Đình diễn ra như sau: Đầu tiên là đón pú mo. Sau khi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, khoảng 5 giờ sáng ngày mùng 4 tháng Giêng, tại nhà pú mo đánh ba hồi trống, báo hiệu cho dân làng chuẩn bị cho lễ cầu diễn ra tại Đình. Khi nghe tiếng trống báo hiệu, những thanh niên khỏe mạnh được phân công từ trước đến nhà pú mo để khiêng chiêng, trống và các vật dụng khác đón ông mo ra Đình. Đến khoảng 7 giờ sáng, khi đã hoàn thành các thủ tục xin phép gia tiên, pú mo sẽ đánh ba hồi trống nữa rồi cùng đội chiêng, trống ra Đình. Từ lúc đó, trống và chiêng được đánh liên hồi từ nhà pú mo, chiêng và trống đi đến gia đình nhà nào thì gia đình đó đội mâm lễ đi tiếp nối nhau cho đến khi ra tới Đình.

Phần lễ chính tại Đình: Sau khi công tác chuẩn bị xong xuôi, pú mo đi lại một lượt qua các mâm lễ và chọn ra ba mâm đẹp nhất đặt trên ban thượng. Tiếp đó, chọn ra sáu mâm đặt lên hai bên của ban trung, mỗi bên ba mâm. Ban hạ đặt thủ lợn, bốn chân và đuôi cùng một mâm cỗ được lựa chọn. Các mâm còn lại đặt thành hai hàng dưới ban trung. Khi hoàn thành xong các thủ tục đặt lễ, pú mo bắt đầu cúng. Bài cúng bằng tiếng Tày, có nghĩa là mời thổ công, mo cố, mo ké… đi đón vua Hùng ở các phương về thôn, bản Mường, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái để dự và chứng kiến lòng thành kính của bà con dân làng vào dịp lễ hội mùng 4 tháng Giêng năm nay.

Sau khi mời các vị vua Hùng lên bản Mường, pú mo bắt đầu xướng tên các dòng họ trong lễ. Sau đó, pú mo bắt đầu cầu an cho bà con, bản làng không bị ốm đau bệnh tật, cầu cho mưa thuận, gió hòa, trâu, bò, lợn, gà không bị dịch bệnh... Tiếp đó, pú mo bắt đầu xin quẻ âm dương, đến lúc xin được quẻ rồi, bà con mới yên tâm về một năm mới được an lành, ấm no, không thiên tai, lũ lụt.

Khi các thủ tục tế lễ tại Đình hoàn tất, trời đã ngả về trưa, cũng là lúc diễn ra hoạt động ngày hội của bà con dân làng.

- Lễ mừng cơm mới (mững khảu mơi): Lễ mừng cơm mới là một nghi lễ nông nghiệp truyền thống, một nét văn hóa độc đáo của dân tộc Tày nơi đây, với ý nghĩa mừng một năm sản xuất đạt mùa bội thu, dâng thành quả lao động cúng thần, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, con cháu mạnh khỏe và bày tỏ sự tôn kính lên ông bà tổ tiên đã khuất. Hoạt động cúng cơm mới được tổ chức vào tháng 9 hàng năm tại đình Làng Mường. Ngày tổ chức lễ hội phải là ngày đẹp, do ông mo đình chọn. Lễ mừng cơm mới diễn ra đúng dịp khi lúa bắt đầu trổ bông, xanh mơn mởn, chuẩn bị một mùa bội thu, thóc lúa đầy nhà.

Lễ vật cúng tế bao gồm rượu, thịt lợn, xôi, gà và cơm mới (cốm) được các hộ gia đình chuẩn bị công phu để dâng lễ tại Đình với mục đích mừng mùa màng bội thu và để cúng tạ các vị thần đã che chở, bảo vệ, giúp dân làng được mùa, có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc, gia súc, gia cầm không bị dịch bệnh. Sau khi kết thúc các hoạt động dâng lễ, bà con dân làng cùng nhau thụ lộc tại Đình. Các hoạt động vui hội Đình ngày mừng cơm mới diễn ra như lễ Thượng Nguyên vào dịp đầu năm. Hội Đình kéo dài đến chiều tối thì kết thúc.

- Hội đình Làng Mường:

Hội ném còn: Mở đầu hội đình Làng Mường là phần thi ném còn diễn ra rất sôi động. Các quả còn được trai tài, gái sắc chuẩn bị ở nhà từ trước ngày hội. Người chơi chia thành hai đội, mỗi đội có sáu người đứng về hai phía cột còn. Pú mo đứng ở giữa tung cho mỗi bên sáu quả còn, ai ném còn thủng được lớp giấy chui qua vòng tròn sang phía bên kia thì sẽ là người chiến thắng. Người ta tin là nếu vòng tròn được ném thủng vào giờ Ngọ (12 giờ trưa) thì năm đó sẽ mùa màng bội thu, dân làng bình yên, khỏe mạnh, ấm no, hạnh phúc. Còn nếu qua giờ Ngọ, vòng tròn chưa thủng thì dân làng phải bắn nỏ cho thủng vòng tròn rồi mọi người mới bắt đầu được ăn cơm, thụ lộc tại Đình.

Hội tát yến: Quả yến cũng được dân làng chuẩn bị từ trước, sau đó người chơi đứng thành vòng tròn nam nữ xen nhau, chờ pú mo là người đầu tiên tát những cái yến cho đội chơi. Hội tát yến diễn ra sôi nổi và thu hút được rất nhiều người tham gia, nhất là những trai tài, gái sắc đang có ý muốn hẹn hò nhau. Vì thế, qua ngày hội Đình dịp đầu năm mới đã có nhiều cặp đôi trai gái nên duyên vợ chồng.

Các trò chơi dân gian khác: Ngoài hội thi ném còn, tát yến, tại đây còn diễn ra các trò chơi dân gian khác như kéo co, bắn nỏ, đẩy gậy… được bà con dân làng cổ vũ sôi động và nhiệt tình. Khi trời ngả về chiều, từng tốp nam nữ tụ tập dưới những gốc cây to quanh đình rì rầm trò chuyện, có tốp thì hát đối đáp với nhau... Hội Đình kéo dài đến đêm thì tan.

Đình Làng Mường, xã Tô Mậu là địa điểm sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng mang đậm nét văn hóa riêng của địa phương. Đình không chỉ là nơi hội họp, sinh hoạt làng xã giúp hun đúc tinh thần đoàn kết mà còn là nơi lưu giữ những nét văn hóa truyền thống tốt đẹp, xuyên suốt quá trình phát triển của địa phương trong đời sống cộng đồng.

(Bài viết có sử dụng tài liệu do Trung tâm Quản lý di tích và phát triển Du lịch Yên Bái)

3288 lượt xem
Ban Biên tập

15oC

Thấp nhất 13°C, cao nhất 17°C. Trời nhiều mây, . Áp suất không khí hPa.
Độ ẩm trung bình %. Tốc độ gió km/h