Tốc độ tăng trưởng kinh tế nông lâm nghiệp năm 2014 đạt 5,0%. Cơ cấu kinh
tế trong nông nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành trồng
trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và dịch vụ, an ninh lương thực đã cơ bản
được đảm bảo. Diện tích gieo trồng ngày càng được mở rộng, hệ số sử dụng đất
canh tác năm 2014 là 2,03 lần, giá trị sản xuất ngành trồng trọt bình quân trên
1 ha đất sản xuất nông nghiệp đạt khoảng 50 triệu đồng. Giá trị và hiệu quả
sản xuất được nâng lên; sản phẩm hàng hóa từng bước đáp ứng được nhu cầu của
thị trường trong và ngoài tỉnh.
Nhờ có những chính sách hỗ trợ phát
triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh mà bước đầu đã
hình thành được các vùng sản xuất hàng hóa nông nghiệp tập trung như: Vùng
trồng lúa chất lượng cao khoảng 5.000 ha, năng suất đạt trên 5 tấn/ha/vụ, sản
lượng đạt trên 50.000 tấn/năm tập trung tại các cánh đồng: Mường Lò, Đại Phú
An, Đông Cuông, Mường Lai, Liễu Đô; vùng thâm canh chè khoảng 9.000 ha; vùng
trồng măng tre Bát độ trên 3.000 ha; vùng trồng sắn cao sản 10.000 ha; vùng
trồng quế đặc sản 27.000 ha; vùng trồng cây ăn quả 6.000 ha; vùng cây nguyên
liệu giấy; phát triển các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm quy mô lớn với trên
1.000 cơ sở... Việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tiến tiến trong các khâu
sản xuất, bảo quản và chế biến sản phẩm nông nghiệp và xây dựng chỉ dẫn địa lý,
thương hiệu, nhãn hiệu, quảng bá giới thiệu sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã
được quan tâm đầu tư.
Các kết quả đạt được trong sản xuất
nông, lâm nghiệp năm 2014 thể hiện như sau:
Sản xuất lương thực
Để giành thắng lợi
trong sản xuất nông nghiệp thì yếu tố quan trọng cần quan tâm là tăng cường
công tác chỉ đạo sản xuất, cùng với việc nâng cao kiến thức, kỹ năng canh tác nông nghiệp của người dân tạo
tiền đề vững chắc cho sự tăng trưởng bền vững của ngành nông nghiệp tỉnh nhà.
Chính vì vậy, ngành nông nghiệp đã tổ chức đánh giá kết quả sản xuất vụ
Đông xuân 2013-2014. Xây dựng kế hoạch đồng thời phối hợp với các huyện, thị
xã, thành phố chỉ đạo, đôn đốc bà con nông dân chủ động sản xuất cây trồng vụ
Hè thu, vụ Đông 2014 trong khung thời vụ tốt nhất. Tập trung xây dựng chương
trình, kế hoạch và chỉ đạo tốt sản xuất vụ Đông xuân 2014-2015. Chỉ đạo công
tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư phục vụ sản xuất nhằm giúp bà con nông
dân nắm bắt kịp thời các thông tin khoa học, kỹ thuật về sản xuất nông lâm
nghiệp.
Bên cạnh đó ngành
đã chủ động tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các chính
sách trong sản xuất nông nghiệp; Kiểm tra việc chấp hành pháp luật đối với việc
sản xuất kinh doanh vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất. Ngành Nông nghiệp và PTNT chủ động tham mưu cho UBND tỉnh trong việc chỉ đạo
phát triển sản xuất; ban hành nhiều văn bản chỉ đạo kịp thời, từ đó giảm thiểu
được những rủi ro của thời tiết, khí hậu và những diễn biến của dịch bệnh trong
suốt quá trình sản xuất.
Có thể nói năm qua, nhiều tiến bộ kỹ
thuật về giống, phân bón, kỹ thuật canh tác đã được áp dụng rộng rãi. Hệ thống
các công trình thủy lợi, kênh mương nội đồng tiếp tục được đầu tư cải tạo, nâng
cấp đáp ứng tốt hơn yêu cầu của sản xuất và phòng chống thiên tai. Nhiều công
trình cơ sở hạ tầng được đầu tư sửa chữa, xây dựng mới đưa vào hoạt động phục
vụ sản xuất tạo điều kiện cho việc nâng cao năng suất, chất lượng nông sản và gia tăng hiệu quả kinh tế.
Cùng vào cuộc trong công tác chỉ đạo
sản xuất còn có sự chỉ đạo sát sao của cấp ủy chính
quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố đã chủ
động thực hiện nghiêm túc lịch gieo cấy, cơ cấu giống theo chỉ đạo của tỉnh.
Hướng dẫn, tổ chức sản xuất phòng chống dịch bệnh có hiệu quả cho cây trồng,
vật nuôi.
Bằng những giải
pháp đồng bộ, tổng diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt năm 2014 đã đạt
69.390,9 ha, tăng 2.169 ha so với năm 2013, bằng 107,2% so với kế hoạch (diện
tích lúa vụ Đông xuân tăng 325 ha so với cùng kỳ năm trước; diện tích ngô tăng
1.757 ha so với năm 2013). Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2014 ước đạt
285.920 tấn, tăng 2.947 tấn so với năm 2013, đạt 104,2% so với kế hoạch, trong
đó: Sản lượng thóc đạt 202.299 tấn, sản lượng ngô đạt 83.620 tấn, góp phần đảm
bảo an ninh lương thực đặc biệt là vùng cao; tổng sản lượng lương thực
vượt 4,16% kế hoạch năm.
Các chính sách hỗ
trợ sản xuất
Với vai trò là cơ quan được giao nhiệm vụ
chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành của tỉnh để tham mưu cho HĐND, UBND
tỉnh ban hành và tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và phát triển nông thôn. Trong năm 2014 đã tham mưu
trình các cấp phê duyệt chính sách hỗ trợ sản xuất nông lâm nghiệp và thuỷ sản
giai đoạn 2015-2016.
Thực hiện Quyết
định số 899/QĐ-TTg ngày 10/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tái
cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền
vững; Quyết định số 1384/QĐ-BNN-KH ngày 18/6/2013 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn về ban hành chương trình hành động thực hiện Đề án trên. Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng, hoàn thiện và trình Uỷ ban
nhân dân tỉnh Yên Bái Chương trình hành động về thực hiện tái cơ cấu ngành Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Yên Bái giai đoạn 2014 - 2020.
Đã xây dựng, hoàn thiện và trình
Tỉnh uỷ, Uỷ ban nhân dân tỉnh về phát triển vùng sản xuất nông nghiệp tập
chung. Tỉnh uỷ đã ban hành Nghị quyết số 61-NQ/TU ngày 24/7/2014 Nghị quyết hội
nghị lần thứ 20 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khoá XVII về phát triển vùng sản
xuất nông nghiệp tập trung theo hướng ứng dụng tiến bộ khoa kỹ thuật để nâng
cao hiệu quả sản xuất hàng hoá tỉnh Yên Bái, giai đoạn 2014-2020.
Sở Nông nghiệp và PTNT đã làm tốt
công tác thường trực, tổng hợp đề xuất của các địa phương, thông báo cụ thể
danh mục các loại giống vật nuôi, giống cây trồng, vật tư hỗ trợ cho các huyện,
thị xã, thành phố và các đơn vị phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương và
trong phạm vi nguồn kinh phí được Ủy ban nhân dân tỉnh giao để triển khai thực
hiện. Chủ trì, phối hợp với các cơ quan, đơn vị có liên quan trong công tác
hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh phí hỗ trợ của các đơn vị, các
huyện, thị xã, thành phố đảm bảo đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách. Định
kỳ tổng hợp báo cáo, đánh giá tình hình, kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ
của tỉnh.
Các chính sách hỗ trợ nông lâm
nghiệp đã phát huy tác dụng, hình thành các vùng sản xuất hàng hoá lớn như vùng
lúa, ngô, măng tre Bát độ, sản lượng lợn, gia cầm các trang trại chăn nuôi hàng
hoá đã được tiêu thụ với khối lượng lớn ở thị trường ngoài tỉnh đã khuyến khích
mạnh nông dân đầu tư sản xuất.
Lĩnh vực chăn nuôi
Thực hiện Đề án hỗ trợ chăn nuôi
trâu bò cho hộ người có công với cách mạng có thu nhập thấp tỉnh Yên Bái, giai
đoạn 2013 - 2016, đến nay toàn tỉnh đã có 189/240 hộ đủ tiêu chuẩn tham gia,
với tổng kinh phí hỗ trợ là 2.117/2.668 triệu đồng đạt 79,34% kế hoạch. Tiếp
tục thực hiện đề án, ngày 13/11/2014, UBND tỉnh ra quyết định số 2148/QĐ-UBND
phê duyệt kinh phí hỗ trợ 4.177,6 triệu đồng. Trong đó: hỗ trợ mua trâu, bò
sinh sản: 3.730 triệu đồng, hỗ trợ làm chuồng: 373 triệu đồng, Hỗ trợ trồng cỏ
(hoặc làm cây rơm): 74,6 triệu đồng. Hiện nay các đơn vị đang tiến hành triển
khai thực hiện.
Thực hiện chính
sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi hàng hoá theo Quyết định số 501/QĐ-UBND ngày
16/4/2014 của UBND tỉnh, các huyện đã triển khai thực hiện cho 140 cơ sở (59 cơ
sở chăn nuôi lợn thịt, 48 cơ sở chăn nuôi lợn nái và 33 cơ sở chăn nuôi gia
cầm), đạt 100% kế hoạch.
Tiếp tục chỉ đạo
thực hiện Đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản; tổ chức sản xuất cá bột, cá
hương giống các loại phục vụ cho nuôi trồng thuỷ sản. Tăng cường công tác kiểm
tra, quản lý bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trên Hồ Thác Bà; đồng thời làm tốt công
tác kiểm soát, phòng chống dịch bệnh thuỷ sản.
Chỉ đạo công tác
phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm; thực hiện tốt công tác tiêm
phòng định kỳ các loại vắc xin cho đàn gia súc, gia cầm; tăng cường công tác
kiểm soát giết mổ, kiểm dịch vận chuyển. Công tác phòng trừ dịch bệnh trên gia
súc, gia cầm được thực hiện tốt, các ổ dịch đã được phát hiện và phòng trừ kịp thời
làm giảm thiểu tối đa thiệt hại do dịch bệnh gây ra, làm tốt công tác phòng trừ
sâu bệnh trên các loại cây trồng. Kết quả năm 2014, tổng đàn gia súc chính
(trâu, bò, lợn) đạt 622.013 con, tăng 5,6 % so với cùng kỳ, đạt 101,6 % so với
kế hoạch: đàn trâu tăng 1,93 %, đàn bò tăng 3,24 %, đàn lợn tăng 6,55 %, đàn
gia cầm tăng 5,9 % so với cùng kỳ. Tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng đàn gia
súc chính đạt 28.000 tấn bằng 100% kế hoạch.
Lĩnh vực lâm nghiệp
Ngành đã tích cực
đôn đốc các đơn vị, các huyện thị tiếp tục trồng mới rừng; chỉ đạo công tác
quản lý bảo vệ rừng, phòng chống cháy rừng, phòng chống việc khai thác, vận
chuyển, buôn bán lâm sản trái phép. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện Đề án giao rừng,
cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất sản xuất lâm nghiệp.
Triển khai tốt công tác quản lý bảo
vệ rừng, toàn tỉnh đã tổ chức giao khoán bảo vệ và khoanh nuôi 204.790,7 ha
rừng phòng hộ, đặc dụng và rừng tự nhiên sản xuất. Trong đó: Các Ban quản lý
rừng phòng hộ, Ban quản lý rừng đặc dụng tổ chức giao khoán bảo vệ và khoanh
nuôi được 164.887,8 ha rừng phòng hộ, đặc dụng (Rừng tự nhiên: 140.051,2 ha;
Rừng trồng: 23.889,1 ha; Rừng khoanh nuôi tái sinh: 947,5 ha). Chi cục Kiểm lâm
làm chủ đầu tư giao khoán bảo vệ 39.902,9 ha rừng sản xuất là rừng tự
nhiên từ nguồn ngân sách tỉnh; mức chi trả 50.000 đồng/ha/năm.
Công tác phát triển rừng đã gieo ươm
được 59.212.400 cây giống lâm nghiệp, đảm bảo đủ lượng cây giống phục vụ kế
hoạch trồng rừng. Năm 2014 toàn tỉnh đã trồng được 15.506,5 ha, đạt 103,4 % kế
hoạch năm, bao gồm: Rừng trồng sản xuất tập trung 10.933,7 ha; Rừng trồng phòng
hộ 1.200,0 ha; Cây trồng phân tán 5.401.260 cây, quy diện tích 3.372,8 ha. Toàn tỉnh khai thác và tiêu thụ được trên 280.000m3 gỗ
rừng trồng các loại và hơn 99.485 tấn tre, nứa, vầu phục vụ chế biến trong và
ngoài tỉnh..
Diện tích rừng được bảo vệ và quản
lý tốt, tình trạng cháy rừng, khai thác và buôn bán lâm sản trái phép đã được
hạn chế.
Năm 2014, tiếp tục thực hiện đề án
giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp năm 2014 của tỉnh và của cấp huyện. Tổng
diện tích dự kiến giao, cho thuê giai đoạn (2012-2015) theo đề án là 88.574 ha,
bao gồm các đối tượng rừng và đất rừng sản xuất nhận bàn giao từ các lâm trường
về địa phương quản lý (sau sắp xếp đổi mới lâm trường) là 51.835 ha;rừng và đất
rừng phòng hộ đã chuyển sang sản xuất là 36.739 ha.
Tập trung hoàn
thành thắng lợi nhiệm vụ trong năm 2015
Năm 2015, sản xuất nông nghiệp
dự báo còn gặp nhiều khó khăn do biến đổi khí hậu, biến động của thị trường,
dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi ngày càng phức tạp, khó lường. Mặc dù dự báo
khó khăn còn nhiều nhưng ngành nông nghiệp vẫn xác định mục tiêu năm 2015 là:
tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 277.000 tấn (sản lượng thóc 197.000
tấn, sản lượng ngô 80.000 tấn); tập trung chỉ đạo, hướng dẫn thu hái chè búp
tươi nhằm đạt sản lượng chè búp tươi 85.000 tấn; tổng đàn gia súc chính đạt
640.600 con, tăng 3% so với năm 2014, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đàn gia
súc chính đạt trên 31.200 tấn; trồng mới 15.000ha rừng (trồng rừng phòng hộ
1.100ha; trồng rừng sản xuất 13.900ha); tiếp tục thực hiện Đề án Giao rừng, cho
thuê rừng gắn với giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất sản xuất lâm nghiệp.
Với quyết tâm cao, ngành Nông nghiệp
xác định nhiệm vụ trọng tâm là thực
hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp, tập trung ưu tiên đầu tư phát triển các
sản phẩm nông nghiệp có lợi thế cạnh tranh, trong đó tiếp tục đầu tư xây dựng
các vùng chuyên canh như: lúa cao sản, chè sắn, nguyên liệu giấy, gỗ rừng
trồng, chè, quế, măng tre, cây ăn quả có quy mô lớn về diện tích và sản lượng;
tiếp tục xây dựng các mô hình tổ chức mới trong nông nghiệp, trọng tâm là mô
hình cánh đồng mẫu lớn; xây dựng các cơ sở chế biến nông lâm sản gắn với các
vùng sản xuất chuyên canh; đa dạng hóa công tác xúc tiến thương mại, quảng bá
sản phẩm; tiếp tục đầu tư nâng cấp và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng nông nghiệp
nông thôn, thúc đẩy nông nghiệp phát triển toàn diện; thu hút doanh nghiệp đầu
tư vào phát triển nông nghiệp, đặc biệt là đầu tư nâng cao giá trị nông, lâm
sản; chú trọng ứng dụng rộng rãi các tiến bộ khoa học kỹ thuật về giống, quy
trình công nghệ, biện pháp canh tác vào đồng ruộng; đồng thời xây dựng và phát
triển thương hiệu đối với các mặt hàng nông sản chủ lực như: gạo, quế Văn Yên,
chè. Phát triển mạng
lưới dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp ở nông thôn, hỗ trợ nông dân tiêu thụ
và chế biến nông lâm sản.
Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển
nông lâm nghiệp, thủy sản. Tiếp tục chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo
hướng nâng cao năng suất, chất lượng và phát triển bền vững. Đẩy mạnh phát
triển chăn nuôi theo hướng bán công nghiệp, kết hợp chăn nuôi trang trại và hộ
gia đình. Đẩy mạnh thực hiện giao rừng, cho thuê rừng gắn với giao đất, cho
thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sản xuất lâm nghiệp. Tăng cường
trồng rừng, khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên rừng. Tiếp
tục đầu tư cho phát triển nông thôn theo Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới. Hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn 3 xã: Tuy Lộc,
Báo Đáp, Mông Sơn.
CÁC CHỈ TIÊU CHỦ
YẾU NGÀNH NÔNG NGHIỆP NĂM 2015
- Tăng trưởng
kinh tế Nông, lâm nghiệp 5,4%;
- Tổng sản lượng
lương thực có hạt đạt 277.000 tấn, trong đó thóc 197.000 tấn, ngô 80.000 tấn;
- Sản lượng chè
búp tươi đạt 85.000 tấn;
- Trồng mới 900
ha cây cao su;
- Tổng đàn gia
súc chính đạt 630.200 con. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng các loại đạt 33.600
tấn trong đó: sản lượng thịt hơi xuất chuồng gia súc chính là 29.800 tấn;
- Sản lượng thuỷ
sản đạt 7.500 tấn;
- Trồng mới
15.000 ha rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 62%;
- Tỷ lệ dân nông
thôn được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 85%;
- Tỷ lệ hộ dân
nông thôn có nhà tiêu hợp vệ sinh là 56%;
- Tổng số xã đạt
5 tiêu chí nông thôn mới trở lên là 120 xã, trong đó số xã đạt từ 10 tiêu chí
nông thôn mới trở lên là 50 xã và có 3 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn
mới.
|
Phạm Văn Lái
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn