Đây là chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử
giữa các thành viên gia đình, quy định trách nhiệm của cá nhân, tổ chức, Nhà
nước và xã hội trong việc xây dựng, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình, trong
đó có một số điểm mới so với Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, cụ thể như
sau:
1. Về độ tuổi kết hôn
Điều 8, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
quy định, nam, nữ kết hôn với nhau phải bảo đảm các điều kiện về độ tuổi, tính
tự nguyện, không bị mất năng lực hành vi dân sự và không thuộc các trường hợp
cấm kết hôn. Trong đó, về độ tuổi kết hôn, nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ
phải từ đủ 18 tuổi trở lên.
2. Không thừa nhận việc kết hôn giữa những
người cùng giới tính
Tuy theo quy định tại Khoản 2, Điều 5, Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã bỏ quy định cấm kết hôn giữa những người cùng
giới tính nhưng theo Khoản 2, Điều 8, Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa
những người cùng giới tính. Để bảo đảm quyền kết hôn giữa nam, nữ theo Hiến
pháp, Luật không cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính nhưng cũng không thừa
nhận việc kết hôn giữa những người cùng giới tính với nhau.
3. Cụ thể hóa việc xác lập tài sản chung,
tài sản riêng của vợ, chồng trong một số trường hợp
Điều 43, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
quy định, trường hợp tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng
được xem là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản
riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân được xem là tài sản chung; trừ
trường hợp phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân, hoa
lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của vợ, chồng sau khi phân chia được xem
là tài sản riêng; đối với quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn được xem là
tài sản chung; đối với quyền sử dụng đất có được sau khi kết hôn từ việc thừa
kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch từ tài sản riêng
được xem là tài sản riêng.
4. Thừa nhận chế định mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo
Điều 95, Điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 quy định, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải thực hiện trên
cơ sở tự nguyện giữa các bên và được lập thành văn bản; thỏa thuận bằng văn bản
giữa các bên phải được công chứng. Bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải
bảo đảm các điều kiện như: có xác nhận của tổ chức y tế về người vợ không thể
mang thai và sinh con, ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; vợ chồng
không có con chung và đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng
phải đáp ứng các điều kiện như: là người thân thích cùng hàng bên vợ hoặc bên
chồng nhờ người mang thai hộ; từng sinh con và chỉ mang thai hộ một lần; ở độ
tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế về khả năng mang thai hộ; trường
hợp người mang thai hộ có chồng, phải có sự đồng ý bằng văn bản của chồng và đã
được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
5. Bổ sung một số quy định về xác định cha,
mẹ, kể cả trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo và quyền nhận con
Đối với việc xác nhận cha, mẹ, Điều 88 và
Điều 93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định, trường hợp sinh con trong
thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ
có thai trong thời kỳ hôn nhân và được xem là con chung của vợ, chồng; con sinh
ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ
chồng. Việc xác định cha, mẹ theo quy định này cũng được áp dụng để xác định
cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong trường
hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, người
phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra.
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn,
cho phôi với người con được sinh ra. Trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được
sinh ra.
Về quyền nhận con, Điều 91 bổ sung quy
định, cha, mẹ có quyền nhận con, kể cả trong trường hợp con đã chết; trong
trường hợp người đang có vợ, chồng mà nhận con, việc nhận con không cần có sự
đồng ý của người kia.
(Theo Báo Yên Bái)