Chưa xứng với tiềm năng
Yên Bái có tiềm năng, thế mạnh trong lĩnh
vực công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Để biến tiềm năng này thành hiện thực,
một trong những giải pháp có tính tiên quyết được tỉnh tập trung chỉ đạo để
khai thác tốt thế mạnh này trong thời gian qua là nhà máy phải gắn với vùng
nguyên liệu; nhà máy gắn với lợi ích kinh tế của nông dân và ngược lại… Trong đó,
phải kể đến nhà máy chế biến sắn Văn Yên nhiều năm qua đã “bắt tay” bền chặt
với chính quyền địa phương và người trồng sắn trong việc giải quyết hài hòa lợi
ích giữa nông dân và doanh nghiệp, nhất là chính sách về giá thu mua, bao tiêu
sản phẩm.
Ông Nguyễn Quốc Trinh - Giám đốc Nhà máy
Chế biến sắn Văn Yên cho biết: “Để đảm bảo nguồn nguyên liệu, hàng năm nhà máy
ký kết hợp đồng canh tác bền vững và bao tiêu quản lý vùng nguyên liệu với 8 xã
vùng nguyên liệu chính, đồng thời có chính sách hỗ trợ canh tác sắn bền vững, trích
hỗ trợ theo diện tích, sản lượng, doanh thu để các xã, các hợp tác xã và các
đại lý tái đầu tư sản xuất”. Cùng với Nhà máy Sắn Văn Yên, Công ty Vạn Đạt
(Trấn Yên) cũng đã duy trì rất tốt mối liên kết với nông dân và vùng nguyên
liệu khi hàng năm đứng ra thu mua và phát triển vùng nguyên liệu măng Bát Độ ở
xã Kiên Thành (Trấn Yên). Đến nay, Kiên Thành đã có vùng măng trên 1.200ha, mỗi
năm thu về hàng chục tỷ đồng cho nông dân. Ngoài ra, các doanh nghiệp như: Nhà
máy Chè Nghĩa Lộ, Nhà máy Chè Liên Sơn... cũng đang xây dựng rất tốt vùng
nguyên liệu cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Sự nở rộ các cơ sở chế biến gỗ rừng
trồng gây nên sự mất cân bằng giữa vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến.
Thế nhưng, nhìn tổng thể các mối liên kết
trên chỉ là những gam mầu sáng hiếm hoi. Rõ ràng, một vấn đề đang tồn tại trong
hoạt động sản xuất, kinh doanh chế biến nông, lâm sản là giữa nhà máy và vùng
nguyên liệu chưa có mối quan hệ khăng khít với nhau. Đơn cử như trong sản xuất,
kinh doanh chè, nhiều doanh nghiệp đã cử cán bộ hướng dẫn kỹ thuật cho người
dân trong vùng nguyên liệu của nhà máy, ứng trước vật tư chăm sóc… nhưng khi
bán nguyên liệu, chỉ cần các cơ sở chế biến khác đến tranh mua và nhích giá lên
một chút là không ít người sẵn sàng quay lưng lại với nhà máy.
Thừa nhận thực tế này, đại diện một công ty
cổ phần chè ở Văn Chấn cho biết, công ty đã từng cung ứng giống, phân bón, vật
tư cho người dân với mục đích bảo đảm nguyên liệu cho sản xuất. Thế nhưng, do
tranh mua, tranh bán nên đến nay vẫn chưa thu lại vốn do người dân tự ý mang
chè bán cho thương lái. Hay như chuyện nhà máy và vùng nguyên liệu sắn, gần như
năm nào cũng lặp lại điệp khúc “được mùa, rớt giá”. Điển hình như vụ sắn vừa
qua, do giá sắn thấp hơn năm trước (dao động từ 1.100-1.200 đồng/kg) nên nông
dân không nhổ để bán cho nhà máy chế biến. Đến thời điểm trồng vụ mới nhiều nơi
sắn cũ vẫn trên đồi.
Tìm hiểu sâu hơn, có thể nhận thấy chính sự
phát triển quá nhanh, không theo qui hoạch của các cơ sở chế biến và vùng nguyên
liệu cũng ảnh hưởng đến mối liên kết của đôi bên. Minh chứng rõ nhất cho thực
trạng này là sự phát triển của các cơ sở chế biến chè Văn Chấn. Đến hết năm 2014,
toàn huyện có 68 nhà máy tham gia sản xuất, chế biến chè (chưa tính hàng trăm
cơ sở chế biến bằng bom quay tay), tăng 8 cơ sở so với năm 2010. Tổng công suất
thiết kế của các đơn vị này đạt trên 850 tấn chè búp tươi/ngày, gấp 3,5 lần khả
năng đáp ứng của vùng nguyên liệu.
Ông Trần Hữu Sính - Trưởng phòng Kinh tế Hạ
tầng huyện Văn Chấn thừa nhận: “Việc phát triển quá nhanh các cơ sở chế biến
chè nhất là các cơ sở chế biến công suất nhỏ đã dẫn đến tình trạng tranh mua,
tranh bán. Giữa các doanh nghiệp chưa có sự liên kết với nhau và gắn kết với
người trồng chè. Mặt khác, do công nghệ, thiết bị lạc hậu, thô sơ nên giá trị sản
phẩm thấp, thiếu tính cạnh tranh, không tạo dựng được thương hiệu”.
Từ câu chuyện về chè Văn Chấn, ta cũng có
thể thấy vùng quế Văn Yên cũng đang rơi vào thực trạng này. Với 10 đơn vị và
209 hộ tư nhân tham gia chế biến, chưng cất tinh dầu quế mỗi ngày cần tới hàng
nghìn tấn cành, lá thì việc khai thác, cắt tỉa ồ ạt, không bảo đảm kỹ thuật
chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới chất lượng tinh dầu và sự phát triển của quế. Ngoài
chè, quế thì sự nở rộ của các cơ sở chế biến ván bóc thời gian qua cũng dẫn đến
tình trạng mất cân bằng khi vùng nguyên liệu không thể đáp ứng được nhu cầu sản
xuất.
Theo ông Nguyễn Văn Thực - Phó giám đốc Sở
Công thương nhận xét, thực tế lâu nay việc cung ứng nguyên liệu cho các doanh
nghiệp chế biến thường không ổn định, việc thay đổi cơ cấu cây trồng thường do
dân tự quyết định theo biến động của thị trường nông phẩm, gây khó khăn cho các
doanh nghiệp trong việc chủ động nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất. Mặt khác,
các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản của tỉnh chủ yếu là doanh nghiệp vừa và
nhỏ, vốn ít, sản phẩm nghèo nàn, chất lượng sản phẩm chưa cao, công nghệ chế
biến còn lạc hậu, thị trường tiêu thụ còn hạn hẹp, sức cạnh tranh còn yếu kém.
Phần lớn các dự án đầu tư tập trung vào chế biến nông sản thô, giá trị gia tăng
thấp nên khó xây dựng được thương hiệu và sức cạnh tranh cho sản phẩm để đáp
ứng nhu cầu ngày càng "khó tính" của thị trường trong và ngoài nước.
Ngoài ra, điều dễ nhận thấy là công nghiệp chế biến nông, lâm sản mới chỉ tiếp
cận với một số cây mũi nhọn là cây chè, quế, sắn, măng và cây gỗ nguyên liệu.
Trong khi đó, sản xuất nông nghiệp đã hình thành các vùng chuyên canh có năng suất
cao như: vùng thâm canh lúa 5.000ha, vùng sản xuất ngô 15.000ha, vùng cây ăn
quả trên 3.000ha... Rõ ràng, việc chưa có các cơ sở tham gia chế biến gắn với
những vùng thâm canh này là điều đáng để suy nghĩ.
Liên kết, hướng phát triển bền vững
Từ những bất cập, tồn tại trên có thể thấy
để công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát triển ổn định, vững chắc, thời gian
tới các cấp, các ngành và địa phương trong tỉnh cần tập trung xây dựng, qui
hoạch và tái cơ cấu vùng cây nguyên liệu cũng như nội ngành chế biến đồng thời
tiếp tục thu hút các cơ sở tham gia chế biến gắn với các vùng cây trồng vật nuôi
có thể mạnh của tỉnh như: lúa, ngô, cây ăn quả... Trong đó, chú trọng các lĩnh
vực công nghệ chế biến hiện đại, sản xuất các sản phẩm tinh chế và công nghiệp
hỗ trợ phục vụ sản xuất nông nghiệp. Muốn vậy, cần minh bạch và đơn giản hóa
thủ tục hành chính để các doanh nghiệp dễ dàng hình thành dự án và triển khai
thực hiện; xây dựng chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp
sản xuất công nghiệp. Trước mắt là tăng mức vay, hạ lãi suất vay tín dụng, cung
cấp mặt bằng sạch...
Bên cạnh đó, điều quan trọng là phải tăng
cường sự liên kết giữa doanh nghiệp với vùng nguyên liệu, doanh nghiệp với
doanh nghiệp, doanh nghiệp với nông dân và nông dân với nông dân. Để làm được
điều này, trước tiên chúng ta cần xây dựng được qui hoạch các vùng cây nguyên
liệu gắn với từng địa phương. Chẳng hạn như xây dựng vùng lúa hàng hóa tại cánh
đồng Mường Lò (thị xã Nghĩa Lộ, Văn Chấn), cánh đồng Đại - Phú - An và Đông
Cuông (Văn Yên); vùng cây ăn quả đặc sản (vùng bưởi Khả Lĩnh tại xã Đại Minh và
Hán Đà (huyện Yên Bình) và vùng cam, quýt huyện Văn Chấn, Lục Yên; vùng rau an
toàn ở thành phố Yên Bái và thị xã Nghĩa Lộ...
Trước nhu cầu trước nhu cầu của thị trường
về sản xuất tinh dầu, huyện Văn Yên cần mở rộng vùng nguyên liệu chuyên biệt
cung cấp cành và lá quế cho các nhà máy chế biến tinh dầu. Tuy nhiên, việc xây
dựng, mở rộng vùng nguyên liệu ngoài sự định hướng, qui hoạch rõ ràng, cụ thể
của các cấp chính quyền rất cần sự vào cuộc của doanh nghiệp và nông dân. Trong
đó, doanh nghiệp đóng vai trò "động lực" kết nối sản xuất, chế biến
với thị trường; tập trung thực hiện các phương án đầu tư cho vùng nguyên liệu
thông qua mối liên kết với hợp tác xã, hộ dân để chủ động được nguồn nguyên
liệu; từng bước đầu tư thay thế dần các thiết bị công nghệ đã lạc hậu, không
ngừng đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hạ giá thành
sản phẩm… Ngoài ra, nông dân, doanh nghiệp phải ngồi lại với nhau bàn về cơ
chế, sự liên kết, tính toán cung cầu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm...
Công nghiệp chế biến nông, lâm sản của Yên
Bái đang đứng trước cơ hội và thách thức lớn, nhất là khi tuyến đường cao tốc
Nội Bài - Lào Cai đang chạy qua nhiều vùng cây nguyên liệu tại nhiều địa
phương. Đây là điều kiện rất tốt cho việc thu hút, kêu gọi thêm nhiều nhà đầu
tư với dây chuyền sản xuất hiện đại, góp phần nâng cao chuỗi giá trị cây trồng,
vật nuôi cho nông dân. Từ đó, đưa công nghiệp chế biến nông, lâm sản có bước
phát triển mới, tạo đà cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - chính trị - xã
hội của tỉnh.
(Theo Báo Yên Bái)