Những kết quả đó, khẳng định sự lãnh đạo
đúng đắn của Tỉnh uỷ-HĐND-UBND tỉnh; nỗ lực của ngành GD-ĐT, sự quan tâm của cả
hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc, góp phần tích cực vào công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Mở rộng quy mô, mạng lưới, trường lớp
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XVII
Đảng bộ tỉnh, mạng lưới trường học đã được sắp xếp, củng cố và phát triển phù
hợp. Toàn tỉnh đã có 587 cơ sở giáo dục và dạy nghề. Trong đó, giáo dục mầm non
và phổ thông đã có 567 trường; 6.590 lớp, nhóm lớp; trên 186.780 cháu mầm non, học
sinh (so với năm 2010, tăng 13 trường, 270 nhóm lớp, trên 19.080 học sinh).
Ngành đã thực hiện hiệu quả nhiều biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục. Giáo
dục mầm non là bậc học có những chuyển biến căn bản theo hướng bền vững.
Bà Hà Thị Minh Lý-Phó giám đốc Sở GD-ĐT cho
biết: “Toàn tỉnh hiện có 173/180 xã có trường mầm non độc lập với 187 trường
mầm non, trên 1.700 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo; trên 48.390 trẻ ra nhóm, lớp. Trong
đó, riêng trẻ mẫu giáo 5 tuổi 15.652 cháu. Tỷ lệ huy động trẻ ra nhóm, lớp nhà
trẻ đạt 15,8%, mẫu giáo đạt 85%, riêng mẫu giáo 5 tuổi đạt 97,9%. So với năm
2010, tăng 6 xã có trường mầm non độc lập, 8 trường mầm non, 189 nhóm lớp, trên
9.000 trẻ”.
Minh chứng cho sự chuyển biến chất lượng là
những con số, rất thuyết phục: giáo dục mầm non, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở nhà
trẻ giảm 2,6%, mẫu giáo giảm 5%, mẫu giáo 5 tuổi giảm 5,2%, tỷ lệ trẻ mẫu giáo
học 2 buổi/ ngày tăng 15,8%, mẫu giáo 5 tuổi tăng 19,7%. Hay như giáo dục phổ thông,
tỷ lệ học sinh hoàn thành khoá học tăng 9,2% so với năm 2010, trong đó tiểu học
tăng 6,8%, THCS tăng 9,4%, THPT tăng 11,1%. Riêng bậc THCS, tỷ lệ học sinh xếp
loại yếu kém giảm 6,3%; xếp loại khá, giỏi tăng 21,5%; số lượng giải học sinh
giỏi cấp tỉnh tăng 50 giải, cấp quốc gia tăng 21 giải so với năm 2010.
Bậc THPT, tỷ lệ học sinh xếp loại yếu kém
giảm 6,9%; xếp loại khá giỏi tăng 21,4%; tỷ lệ học sinh đỗ vào các trường đại
học, cao đẳng (ĐH-CĐ) đạt 35,1% (tăng 7,7%); số giải học sinh giỏi cấp tỉnh
tăng 86 giải, cấp quốc gia tăng 22 giải so với năm 2010. Một khó khăn, thách thức
lớn với sự nghiệp GD-ĐT Yên Bái là tình trạng học sinh bỏ học, nhất là ở vùng
cao, vùng dân tộc ít người, vùng đặc biệt khó khăn. Ngành đã chỉ đạo, thực hiện
đồng bộ, quyết liệt nhiều giải pháp chống bỏ học.
Tới nay, cơ bản đã khắc phục tình trạng học
sinh bỏ học tràn lan và tỷ lệ học sinh bỏ học chỉ còn 0,5%. Quy mô phát triển,
chất lượng trường lớp được cải thiện cơ bản, ngành huy động hiệu quả các nguồn
lực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học. Bình quân, hàng năm làm mới gần
300 phòng học với kinh phí khoảng 100 tỷ đồng. Hiện tại, toàn tỉnh có 6.177 phòng
học, tỷ lệ kiên cố đạt 69%, so với năm 2010 tăng 1.491 phòng học, tỷ lệ phòng
học kiên cố tăng 4%. Khối phòng phục vụ học tập, tăng 329 phòng; khối phòng
hành chính quản trị, tăng 870 phòng. Đặc biệt, khối phòng ở bán trú, nội trú và
nhà ở công vụ của giáo viên đã đầu tư xây dựng 784 phòng, đáp ứng nhu cầu cho
khoảng 7.000 học sinh.
Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc
gia, đã huy động các nguồn lực, đầu tư có trọng điểm, huy động xã hội hoá, tăng
cường sự vào cuộc của cấp uỷ, chính quyền cơ sở. Đến nay, toàn tỉnh có 178
trường đạt chuẩn quốc gia, đạt 31,0% tổng số trường mầm non, phổ thông và tăng
73 trường so với năm 2010. So với trước khi triển khai Đề án xây dựng trường
đạt chuẩn quốc gia (năm 2005), tăng 147 trường, gấp 7,4 lần về số lượng...
Chú trọng nhân tố con người
Mỗi năm có 17.500 lượt cán bộ, giáo
viên được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ.Trong ảnh: Một buổi
tập huấn trực tuyến tại Sở Giáo dục - Đào tạo Yên Bái.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên mầm
non, phổ thông phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, từng bước đồng bộ về
cơ cấu, được nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn. Hàng năm, sau rà soát quy
mô trường lớp, đội ngũ, Sở GD-ĐT đã phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan
để xây dựng kế hoạch, tham mưu trình UBND - HĐND tỉnh, giao kế hoạch quy mô trường
lớp, biên chế. Ngành tích cực tham mưu bổ sung chỉ tiêu biên chế theo hướng
giảm chênh lệch biên chế giữa các huyện, thị trong tỉnh; ưu tiên cho vùng đặc
biệt khó khăn, ngành học mầm non, các trường phổ thông dân tộc bán trú (DTBT),
dân tộc nội trú (DTNT); bố trí đủ nhân viên hợp đồng theo Nghị định 68, nhân
viên dinh dưỡng các trường phổ thông DTNT, DTBT, trường mầm non vùng đặc biệt
khó khăn.
Ông Trần Xuân Hưng - Giám đốc Sở GD-ĐT đánh
giá: “Ngành đã tham mưu với tỉnh bổ sung gần 3.000 biên chế. Số biên chế này
được bù vào biên chế nghỉ hưu, thuyên chuyển, giảm lao động hợp đồng và tăng
quy mô ở mầm non, tỷ lệ biên chế năm 2014 đạt 91%. Điều đó, thể hiện sự quan
tâm của lãnh đạo tỉnh với sự nghiệp GD-ĐT và hiệu quả công tác tham mưu, phối hợp,
chỉ đạo của ngành, góp phần đáp ứng yêu cầu phát triển GD-ĐT”.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng,
nâng cao trình độ được quan tâm. Toàn ngành đã có 385 thạc sỹ, 10 tiến sỹ đã và
đang tham gia đào tạo, so với năm 2010 tăng 186 người. Tỷ lệ cán bộ quản lý,
giáo viên đạt chuẩn trở lên đạt 99,22%, trong đó trên chuẩn đạt 56,34%, so với
năm 2010 đạt chuẩn tăng 0,35%, trên chuẩn tăng 17,34%. Bình quân, mỗi năm có khoảng
17.500 lượt cán bộ, giáo viên được bồi dưỡng, tập huấn. Yên Bái là một trong 4
tỉnh được Bộ GD-ĐT đánh giá triển khai thực hiện tốt công tác bồi dưỡng đội
ngũ...
Phát triển giáo dục dân tộc, phổ cập giáo
dục
Hằng năm, Sở GD-ĐT đã ban hành văn bản
hướng dẫn, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục dân tộc, trong đó đi sâu chỉ đạo
công tác quản lý của các trường phổ thông DTBT; chỉ đạo chuyên đề liên quan đến
công tác bán trú. Tới nay, hệ thống trường phổ thông DTNT có 9 trường; trường
phổ thông DTBT 43 trường và 55 trường có học sinh bán trú với trên 13.800 học
sinh hưởng chính sách hỗ trợ (năm 2010 chỉ có 4.799 học sinh thuộc diện bán trú
dân nuôi). Chất lượng giáo dục được nâng lên, đối với trường phổ thông DTNT, học
sinh xếp loại học lực khá, giỏi cấp THCS tăng 8,8%; cấp THPT tăng 9%, không có
học sinh xếp loại học lực kém; tỷ lệ đỗ tốt nghiệp THPT đạt 100%. Trường phổ
thông DTBT, cấp THCS tỷ lệ học sinh khá, giỏi tăng 9,7%; tỷ lệ học lực yếu, kém
giảm trên 8%.
Cơ sở trường lớp khang trang, giúp
thầy và trò Trường THCS Đông An (Văn Yên) nâng cao chất lượng dạy và học.
Bậc tiểu học, học sinh khá giỏi tăng 8%,
học lực yếu giảm gần 10%. Trong 4 năm, đã cấp trên 168 tỷ đồng cho các trường
phổ thông DTBT và học sinh bán trú được hưởng chính sách hỗ trợ tiền ăn, tiền
nhà ở; hỗ trợ tủ thuốc, mua sắm dụng cụ thể dục thể thao; hỗ trợ nhân viên phục
vụ (chính sách riêng của tỉnh); hỗ trợ trên 11.600 lượt học sinh THPT được hưởng
chính sách hỗ trợ theo Quyết định 12/QĐ-TTg với số tiền trên 26 tỷ đồng và trên
50.200 lượt học sinh được hỗ trợ gạo theo Quyết định 36/2013/QĐ-TTg. Cùng với
đó, công tác PCGD được quan tâm chỉ đạo, củng cố, duy trì, đẩy nhanh tiến độ.
Kết quả PCGD tiểu học được giữ vững và nâng
cao chất lượng. Tỷ lệ trẻ 11 tuổi hoàn thành chương trình tiểu học đạt 90,6%;
tổng số trẻ trong độ tuổi 11 đến 14 hoàn thành chương trình tiểu học đạt 96,5%.
Toàn tỉnh có 180/180 đơn vị cấp xã; 9/9 đơn vị cấp huyện duy trì chuẩn quốc gia
phổ cập giáo dục (PCGD) tiểu học; 174 đơn vị cấp xã đạt chuẩn PCGD tiểu học
đúng độ tuổi. PCGD THCS được củng cố và đẩy mạnh thực hiện theo hướng bảo đảm
chất lượng. Tỷ lệ đối tượng 15 đến 18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS đạt 88,3%.
Tới nay, 180 đơn vị cấp xã, 9/9 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn PCGD THCS. Phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, ngành đã tích cực tham mưu với tỉnh
triển khai chỉ đạo việc thực hiện và đang chuẩn bị các điều kiện đề nghị Bộ
GD-ĐT công nhận đạt chuẩn trong năm 2015.
Những thành tựu quan trọng của sự nghiệp
GD-ĐT qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Tỉnh uỷ-HĐND-UBND tỉnh; sự quan tâm, chăm lo của
cả hệ thống chính trị và nhân dân các dân tộc và nỗ lực vượt bậc của ngành
GD-ĐT. Những kết quả, thành tựu đó, góp phần tích cực vào công cuộc phát triển kinh
tế-xã hội, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, phát triển nguồn nhân lực, đáp
ứng nhu cầu phát triển của tỉnh và của đất nước-đó cũng là cơ sở để ngành thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và toàn diện GD-ĐT
trong những năm tiếp theo.
(Theo Báo Yên Bái)