Năm nào cũng vậy, cứ đến tháng Bảy tôi lại
đau đáu tìm đề tài về chủ đề thương binh, liệt sỹ. Khi là những bài viết về anh
thương binh làm kinh tế giỏi, về tấm gương chiến đấu, hy sinh của những chiến
sỹ Tiểu đoàn Yên Ninh; có lần lại quặn lòng trên trang viết khi kể về người
lính 30 năm mất tin, mất tích mà đến tận hôm nay vẫn chưa được xem xét công nhận!
Tháng Bảy năm nay lại về nhắc tôi thực hiện lời hẹn ước của mình.
Trải qua các cuộc chiến tranh thần thánh
của dân tộc, quân và dân Yên Bái với truyền thống yêu nước thương nòi, đã có
hàng vạn người cầm súng lên đường hoặc dũng cảm chiến đấu ngay tại mảnh đất quê
hương. Rất, rất nhiều tấm gương anh dũng, hy sinh, không có ai đủ sức để kể hết
công lao, chiến tích của họ! Như vậy có nghĩa là đề tài thương binh, liệt sỹ là
vô tận cho các văn, nghệ sỹ. Câu chuyện mà tôi mới được nghe kể dưới đây thực
sự là huyền thoại - huyền thoại có thực về một gia đình cả hai mẹ con đều
là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ở một vùng quê giàu truyền thống Cách mạng, xã Việt
Cường huyện Trấn Yên.
Đường về Việt Cường không xa và rất êm
thuận, con đường trải nhựa uốn quanh những nương chè, rừng cây xanh tốt. Quê
hương Chiến khu Vần vẫn rực cờ và biểu ngữ mừng 70 năm Ngày thành lập Đảng bộ
tỉnh Yên Bái (30/6/1945 - 30/6/2015). Đồng Phú kia rồi, ông Đỗ Kim Can người đi
cùng reo lên như một người xa quê lâu ngày mới về. Ông Can bảo: “Tôi là người Đồng
Phú, thoát ly công tác đã lâu, giờ định cư ở Cổ Phúc, tôi vẫn tranh thủ về thăm
quê luôn. Nhưng lần nào về quê cũng háo hức lắm, quê tôi nghèo nhưng bà con đùm
bọc thương yêu nhau, đặc biệt nhất là giàu truyền thống cách mạng”.
Công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước đã
khiến Đồng Phú đổi thay rất nhiều, thôn đã có điện sáng, có đường nhựa, có
trường lớp học, nhà xây kiên cố thay thế dần những ngôi nhà tranh tre, nứa lá…
Với người Đồng Phú thì trên quê hương này cái gì cũng có đổi mới, chỉ có ngọn
núi Gạo (tiếng Tày là Nà Khẩu) thì vẫn vậy. Ngọn núi sừng sững vươn lên trời xanh,
bất chấp phong ba bão táp, chân núi phía Tây là làng Kháo (xã Hưng Thịnh), phía
Đông là thôn Đồng Phú này.
Chuyện kể lại rằng, những năm trước cách
mạng (1945) (thời thuộc Pháp người Tày gọi là người Thổ) ở bên đồi Kháo thuộc
địa phận xã Hưng Khánh, đứng trên đỉnh Nà Khẩu nhìn thấy cánh đồng màu mỡ và
dòng suối trong xanh liền về làng bảo nhau sang bên kia núi lập nên làng mới
Đồng Phú. Rồi giặc Pháp cũng mò đến làng mới để ức hiếp dân lành.
Lịch sử Đảng bộ xã Việt Cường và huyện Trấn
Yên ghi lại: Những năm 1945 - 1946 được giác ngộ cách mạng, đặc biệt là lòng căm
thù giặc đã được đẩy lên cao (bản Đồng Phú chỉ có 35 hộ, gần 200 khẩu nhưng từ
năm 1947 đến năm 1949 phải chịu 4 đợt giặc càn; chúng đã bắn chết 9 người, bắn
bị thương 2 người, bắt đi 19 người, nhà cửa bị đốt sạch, thóc lúa, của cải bị
cướp bóc…) nhiều thanh niên trong làng, trong bản đã đứng lên chiến đấu chống
quân thù; du kích Việt Cường cũng ra đời và trưởng thành từ đấy. Vào năm 1948
trong một trận chiến đấu chống giặc càn tại xã Việt Cường, chiến sỹ du kích
Đinh Văn Hữu con của bà mẹ Tày - Vũ Thị Mậu đã anh dũng hy sinh, sau khi giặc
rút chạy, người dân thương tiếc chôn cất người liệt sỹ ngay đầu bản.
Đánh xong thực dân Pháp, cả nước bước vào
cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ. Với truyền thống của một gia đình, dòng họ,
quê hương cách mạng, bà Vũ Thị Mậu tiễn người con thứ hai là Đinh Văn Định lên
đường vào Nam chiến đấu. Người trong dòng họ kể lại, thời ấy ít chữ và khó khăn
lắm nên anh Định đi chiến đấu mà chẳng một lần biên thư về, lần đầu tiên gia
đình biết tin anh cũng đồng thời là tin đau xót - anh đã hy sinh tại
chiến trường miền Nam. Không có nỗi đau nào bằng người mẹ mất con nhưng bà Mậu
vẫn cắn răng chịu đựng bởi đất nước này còn rất nhiều gia đình, bà mẹ khổ đau,
mất mát như mình.
Bà Vũ Thị Mậu sinh hạ cả thảy được 6 người
con (3 trai, 3 gái). Trong số ấy, người con gái cả là bà Đinh Thị Nghĩa, sinh
năm 1923, xây dựng gia đình với ông Đỗ Văn Truyền, một cán bộ tiền khởi nghĩa,
sau này làm Phó chủ tịch, Trưởng công an xã Việt Cường huyện Trấn Yên. Ông bà
sinh hạ được bốn người con, hai người con đầu của bà Nghĩa ông Truyền lớn lên lần
lượt vào bộ đội tham gia chiến đấu tại chiến trường miền Nam. Trong đó, anh Đỗ
Văn Sử, sinh năm 1947, nhập ngũ năm 1968, còn anh Đỗ Văn Ân, sinh năm 1950,
nhập ngũ năm 1970. Không cùng đơn vị, không chiến đấu cùng mặt trận nhưng cả
hai anh em đều là những chiến sỹ giải phóng quân anh dũng của Quân đội nhân dân
Việt Nam và cùng anh dũng hy sinh năm 1971.
Ông Đỗ Kim Can, cháu ngoại của Bà mẹ
Việt Nam
Anh hùng Vũ Thị Mậu (tên địa phương là bà Vãi Can) tự hào về truyền thống cách
mạng của dòng tộc.
Thực hiện Nghị định 56/2013/NĐ-CP của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định Danh hiệu vinh
dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”, năm 2014, bà Đinh Thị Nghĩa được Nhà
nước truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng". Đúng một năm sau, bà
Vũ Thị Mậu - mẹ đẻ của bà Nghĩa cũng được Nhà nước truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt
Nam Anh hùng”. Hai mẹ con đều được truy tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng” có lẽ là một trong những trường hợp hiếm gặp ở đất nước Việt Nam, đó là
niềm vinh dự lớn lao của dòng tộc họ Đinh, họ Vũ vùng Hưng Khánh, Việt Cường,
đó cũng là niềm tự hào của quê hương, đất nước. Tuy không còn sống để được
Đảng, Nhà nước, dân tộc tri ân, được các cấp, các ngành và nhất là còn cháu
phụng dưỡng nhưng sự cống hiến, đức hy sinh của hai bà mẹ, có bốn người con
liệt sỹ trong một gia đình là rất cao cả và rất đáng kính trọng. Tổ quốc, dân
tộc và vùng quê Trấn Yên cùng con cháu sẽ mãi mãi nhớ ơn công lao của các bà
mẹ, các chiến sỹ đã anh dũng, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bắt nguồn từ đỉnh Nà Khẩu, dòng khe Đá Mài
vẫn lặng lẽ tuôn chảy, tưới mát cho những cánh đồng. Dưới chân núi, bên dòng
suối mát, phần mộ của hai mẹ con - hai Bà mẹ Việt Nam Anh hùng nằm khiêm nhường
bên ruộng lúa, nương chè. Tôi thắp nén hương trầm thành kính trước mộ mẹ Mậu,
mẹ Nghĩa, lòng thầm biết ơn các mẹ đã cống hiến, hy sinh cho thế hệ chúng tôi
được hòa bình, tự do và hạnh phúc.