Trấn Yên đã tạo điểm nhấn và bứt phá trong
bức tranh kinh tế - xã hội, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm lên
11,2%, cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thu nhập bình quân đầu người
đạt 25 triệu đồng/năm, tăng 2,6 lần so với đầu nhiệm kỳ.
Với lợi thế nằm dọc theo hai bên bờ sông
Hồng, đã tạo điều kiện thuận lợi cho các xã ven sông hình thành các cánh
đồng rộng và màu mỡ. Hệ thống thuỷ lợi đã và đang được kiên cố hoá, đây là tiền
đề cơ bản để Trấn Yên phát triển ngành nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá, gắn với công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cùng với đó, người
dân đã tăng cường đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới
để nâng cao năng suất, chất lượng các loại cây trồng. Với diện tích cây lương
thực có hạt bình quân hàng năm trên 6.200ha, trong đó, diện tích lúa nước chiếm
trên 80%, tổng sản lượng lương thực có hạt hàng năm đạt trên 30.000 tấn.
Những năm gần đây, huyện Trấn Yên đã tích
cực đẩy mạnh sản xuất lúa hàng hoá với diện tích lúa chất lượng cao là 1.700ha.
Việc sản xuất vụ 3 trên đất 2 lúa và đất màu soi bãi đã góp phần nâng cao thu
nhập cho người dân trên địa bàn. Cùng với cây lúa, nghề trồng dâu nuôi tằm đã phát
triển ở các xã dọc hai bờ sông Hồng, đến nay, diện tích dâu của huyện là trên
200ha, sản lượng kén tằm đạt trên 200 tấn/năm, đạt giá trị trên 20 tỷ đồng/năm.
Là một trong những địa phương có diện tích
chè lớn của tỉnh, với gần 2.180ha chè kinh doanh trong đó có tới trên 1.000ha
chè chất lượng cao như: Bát Tiên, Phúc Vân Tiên, mỗi năm tổng sản lượng chè búp
tươi của huyện đạt 16.000 tấn. Huyện đang hướng cho các địa phương xây dựng thương
hiệu chè theo tiêu chuẩn VietGAP. Và một cây trồng không thể không nhắc đến ở
Trấn Yên là tre măng Bát Độ, sau hơn 10 năm triển khai đến nay, Trấn Yên đã mở
rộng diện tích lên gần 2.100ha tăng 870ha so với đầu nhiệm kỳ tập trung chủ yếu
ở 10 xã như: Kiên Thành, Tân Đồng, Hồng Ca… trong đó, xã Kiên Thành chiếm 50%
diện tích. Trung bình mỗi hec-ta tre măng Bát Độ cho thu nhập từ 30 - 40 triệu
đồng/năm, cao gấp 3 - 4 lần so với cây nguyên liệu khác; mỗi năm huyện thu 25 -
30 tỷ đồng từ cây tre măng Bát Độ. Sản phẩm tre măng Bát Độ được xuất khẩu sang
thị trường Đài Loan, Nhật Bản và một số nước trong khu vực. Cây tre măng Bát Độ
đã làm hồi sinh nhiều vùng quê, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho
người dân.
Cùng với nông nghiệp, thời gian qua, huyện
Trấn Yên đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư vào lĩnh vực
công nghiệp chế biến tại Khu công nghiệp tập trung Minh Quân, Cụm công nghiệp
Hưng Khánh, Báo Đáp và mới đây Trấn Yên đã thu hút được 1 dự án nước ngoài đầu
tư xây dựng nhà máy may xuất khẩu quy mô 3.000 công nhân tại thị trấn Cổ Phúc.
Hiện, toàn huyện có hơn 1.000 công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh
phần lớn là đăng ký kinh doanh, sản xuất chế biến nông, lâm sản; tuy sản phẩm
chỉ là các mặt hàng sơ chế nhưng đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế giải quyết việc làm, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm sản
cho nông dân các địa phương trong huyện, nâng cao tỷ trọng sản xuất công nghiệp
- xây dựng. Đến năm 2015, tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công
nghiệp trên địa bàn huyện đạt 230 tỷ đồng, trong đó, công nghiệp địa phương đạt
211 tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 2010.
Xác định để thúc đẩy kinh tế - xã hội phát
triển, việc đầu tư xây dựng kiên cố, mở mới các tuyến đường giao thông có vai
trò quan trọng, nên những năm qua Trấn Yên đã ưu tiên cho việc cứng hóa các
tuyến đường giao thông. Đến nay, 100% các tuyến đường giao thông đến trung tâm
các xã được cứng hóa; phần lớn các tuyến đường liên xã, liên thôn từ vùng thấp
đến vùng cao được mở rộng nền đường, trong đó trên 30% đường liên thôn bản được
cứng hóa mặt đường, nhiều cầu cống, ngầm tràn qua đường được xây dựng vĩnh cửu.
Điển hình trong phong trào này là các xã Tân Đồng, Báo Đáp, Việt Thành, Việt
Cường, Hưng Khánh…
Đây cũng là một tiêu chí quan trọng xây
dựng nông thôn mới (XDNTM) ở các địa phương. Cùng với xã Tân Đồng là xã điểm
của tỉnh trong XDNTM, Trấn Yên cũng đã chọn xã Báo Đáp làm điểm XDNTM của
huyện. Qua triển khai, nhân dân trong huyện đã nhận thức về ý nghĩa của chương
trình đối với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, từ đó phát huy
tốt vai trò chủ thể trong XDNTM. Đến nay, Trấn Yên đã có 16 xã đạt từ 10 tiêu
chí trở lên; trong đó, xã Báo Đáp đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Huyện phấn đấu trong năm 2015 có thêm 2 xã Tân Đồng, Việt Thành được công nhận
đạt chuẩn nông thôn mới.
Kinh tế phát triển tạo đà để Trấn Yên quan
tâm đầu tư hơn cho các lĩnh vực văn hoá, giáo dục y tế, chăm sóc sức khỏe nhân
dân trên địa bàn. Mạng lưới trường lớp học được mở rộng về quy mô, tỷ lệ phòng
học được kiên cố hóa đạt trên 80%, chất lượng dạy và học được nâng lên. Hiện toàn
huyện có 28 trường chuẩn quốc gia mức độ 1 đạt kế hoạch đề ra; duy trì 100% xã,
thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS, phổ
cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Trấn Yên đang tập trung mọi biện pháp để
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đáp ứng với sự nghiệp giáo dục trong
thời kỳ mới.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống
chính trị có nhiều chuyển biến tích cực, Đảng bộ đã thường xuyên tổ chức tốt
việc thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 (khóa XI) "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay". Nhờ vậy năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở
đảng không ngừng được nâng lên. Trong nhiệm kỳ đã kết nạp được 1.076 đảng viên
nâng tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ lên 4.756 đảng viên; 100% thôn, bản,
nhà trường, trạm y tế có tổ chức đảng; tỷ lệ tổ chức đảng hàng năm đạt tiêu
chuẩn trong sạch, vững mạnh đạt trên 83%.
Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020 Đảng bộ huyện
Trấn Yên đề ra 21 chỉ tiêu chủ yếu, 4 chương trình kinh tế xã - hội, trong đó
trọng tâm là: Phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa gắn
với XDNTM, phấn đấu đến năm 2020 đưa giá trị sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản
của huyện đạt 1.200 tỷ, 7 xã được công nhận đạt tiêu chí nông thôn mới. Đẩy mạnh
phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp dịch vụ và du lịch; phấn đấu giá
trị sản xuất công nghiệp đạt 700 tỷ, xây dựng đạt 420 tỷ, thu ngân sách trên
địa bàn đạt 120 tỷ đồng; mỗi năm tạo việc làm mới cho 1.700 lao động, giảm tỷ
lệ hộ nghèo xuống còn 5,4% theo tiêu chí mới.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu
quả công tác giáo dục đào tạo; tăng cường phát triển văn hóa - thể dục, thể
thao; thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội; nâng cao đời sống vật chất
tinh thần cho nhân dân; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng, xây dựng Đảng bộ trong
sạch vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Với truyền thống của một huyện anh hùng,
Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Trấn Yên quyết tâm phấn đấu thực hiện
thành công các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXI nhiệm kỳ
2015 - 2020. Xây dựng huyện Trấn Yên trở thành huyện phát triển bền vững.