Ngày 28/12/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 701/QĐ-UBND, công nhận Di tích đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Di tích đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình
1. Tên Di tích
- Di tích lịch sử - văn hóa đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
- Tên gọi khác của Di tích: Đền Thác Bà hay còn gọi Đền Mẫu Thác Bà.
2. Loại hình Di tích
Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
3. Quyết định công bố Di tích
Quyết định số 701/QĐ-UBND, ngày 28/12/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận Di tích đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
4. Địa điểm, đường đến Di tích
Đền Thác Bà hay còn gọi Đền Mẫu Thác Bà, với diện tích 1.800m2 nằm trên núi Hoàng Thi ở độ cao 70m so với chân núi thuộc thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Đền quay theo hướng Đông Bắc dựa lưng vào núi, nhìn ra sông Chảy.
Đến đền Mẫu Thác Bà du khách có thể đi bằng đường bộ hoặc đường thủy. Nếu ở phía Nam và phía Đông lên khách có thể đi bằng xe cơ giới đến tận nhà máy thủy điện Thác Bà và lối lên đền Mẫu theo quốc lộ 37 Hà Nội - Yên Bái và tỉnh lộ Tuyên Quang - Thác Bà. Nếu ở phía Tây và phía Bắc tới theo Quốc lộ 70 Lào Cai - Hà Nội và đường Đông Hồ phân đoạn Lục Yên - Thác Bà, đi ca nô từ bến cảng Hương Lý và nhiều bến thuyền khác từ các nơi trên hồ Thác Bà đến đền Mẫu.
5. Sơ lược lịch sử Di tích
Đền Mẫu Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Theo dân gian tương truyền: Từ thời các các vua Hùng, có nàng công chúa tên gọi Minh Đạt được cắt cử trông coi vùng sông Chảy Thác Bà, dạy dân khai khẩn đất hoang, trồng lúa, dệt vải. Khi bà mất được nhân dân tôn kính là Thánh Mẫu và lập đền thờ phụng tại Thác Bà.
Theo yêu cầu xây dựng nhà máy Thủy điện Thác Bà, tháng 4 năm 1963, nhà đền, thiện nam tín nữ và toàn dân xã Minh Phú tự nguyện rước Mẫu sang xã Vĩnh Kiên bên kia sông Chảy cách vị trí đền Thác Bà 5km để lấy chỗ thi công.
Đền Mẫu tọa lạc bên hữu ngạn sông Chảy, mặt hướng ra sông theo hướng Đông Đông bắc. Sau nhiều lần tôn tạo, phục dựng nhưng đền vẫn giữ được dáng vẻ cổ xưa. Cảnh quan do con người và tạo hóa đắp đổi, tuy khiêm nhường về mặt vật chất nhưng công trình thực sự vẫn toát lên linh khí của đền xưa chốn cũ với dáng vẻ vừa mộng lại vừa thực, vắng mà không quạnh, lặng mà không đìu hiu, tĩnh động luôn hòa quyện, cổ kính song vẫn hiện đại.
Về kiến trúc, Đền Mẫu Thác Bà gồm có 5 gian đại bái, 3 gian trung cung và 3 gian hậu cung. Chính giữa gian Đại bái là bức cuốn thư “Thác Bà linh từ”. Ở cung chính tâm: trên cùng thờ Tam Phủ: Đức Ngọc Hoàng, quan Nam Tào (bên phải) quan Bắc Đẩu (bên trái); Tiếp đó là vị trí thờ Ngũ Vị Tôn Ông (Tức 5 ông quan lớn trấn giữ 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc và phương chính giữa) với ông Hoàng Bảy (bên phải) và ông Hoàng Mười (bên trái), hai bên là hai đôi câu đối. Cung bên phải là bàn thờ Ban Trần Triều có tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo. Cung bên trái thiết lập phủ "Chúa Sơn Lâm" có 2 tượng cô hầu và 12 cô Sơn Trang. Tại gian giữa “Tứ phủ Chầu bà” thờ 4 chầu cai quản 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc theo đúng tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Gian hậu cung thờ Mẫu Thác Bà và Tam Tòa Thánh Mẫu. Trong đền còn nhiều những hiện vật quý giá mang giá trị lịch sử, văn hóa. Qua các triều đại, đền được 6 lần sắc phong. Nữ thần Diệu Minh Đạt là vị duy nhất được nhắc đến trong sắc phong cùng văn chầu và bài khấn. Ngài choàng khăn đỏ, vận áo đỏ. Không rõ thân thế.
Ngoài thần Diệu Minh Đạt, đền còn thờ Tam Phủ và các Hoàng Cô Hoàng Cậu như các đền khác.
6. Các nhân vật được thờ tự
Mẫu Thác Bà; Tam Tòa Thánh Mẫu; Ngũ vị tôn ông.
7. Các hiện vật trong Di tích
Đồ thờ trong Đền gồm: một pho tượng gỗ, sơn thiếp, vận sắc phục đỏ, thờ trong hậu cung. Bốn góc có bốn pho tượng nữ gỗ tô mầu tượng quanh tượng Mẫu.
Sắc phong có 6 bản gồm: Tự Đức năm thứ 33 (1880) gồm một bản chính và một bản sao phong cho thần nữ Diệu Minh Đạt; Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt; Duy Tân năm thứ 3 (1907) phong lần thứ 2 cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt; Khải Định năm thứ 9 (1924) phong cho thần nữ Huyền Diệu Minh Đạt... Ngoài ra còn có một sắc phong đời Lê Cảnh Hưng bị thất lạc.
8. Phong tục lễ hội
Lễ hội đền Mẫu Thác Bà có 3 lễ hội chính: Lễ hội mùa xuân ngày mùng 9 tháng Giêng; Lễ hội mùa hè ngày 17 tháng 5; Lễ hội mùa thu ngày 10 tháng 10 (âm lịch), trong đó lễ hội xuân là lễ hội lớn nhất.
+ Phần Lễ: Từ đêm ngày mùng 8 tháng Giêng đã có lễ nấu và đánh chè kho nguyên liệu là đỗ xanh ngâm bỏ vỏ, rang lên nấu với mật mía, chè kho được đánh bằng đôi mái chèo nhỏ, đôi trai gái đánh chè theo nhịp điệu chèo thuyền, những người xung quanh hát các bài hò chèo thuyền hoặc vui chơi tâm tình bên bếp lửa ở khu vực đền.
Lễ hội bắt cá để tế lễ, trước kia được tiến hành tại soi Do, thuộc suối Do xã Văn Chính cũ cách đền khoảng 2km, thời gian vào đêm mùng 8 tháng Giêng. Hình thức bắt dùng phên nứa (khoảng 3 cây nứa băm đan lại) úp mặt trắng vào phía trong, quây thành vùng, cá vào thấy phên nứa trắng tưởng bờ ao luẩn quẩn ở trong, mọi người đốt đuốc sáng rực hò reo, dùng tay hoặc dùng dập (một loại vó con) kéo vây bắt. Cá được nhốt lại chọn 2 con to, đẹp, ngon nhất vào sáng ngày mùng 9 tháng Giêng cho vào thúng sơn son có nước, rước lên đền để tế sống. Sau đó cá được làm thực phẩm để sinh hoạt ngay tại đền, hoặc xả chia nhau. Kiệu rước cá là loại kiệu song loan (4 người khiêng), thời gian rước khoảng 7 đến 8 giờ sáng. Lễ chay tế cung mẫu chỉ cúng bằng chè kho. Lễ vật tế cung ngoài (lễ mặn) xôi nếp loại ngon, thịt gà, vịt (không có thịt trâu, bò), thịt lợn được cắt kì cho các gia đình nuôi.
Lễ rước kiệu gồm 3 kiệu: Kiệu hoa, kiệu võng, kiệu bát cống (8 người khiêng), rước mẫu từ đền Thác Bà lên đền Đồng Sủng thuộc xã Văn Chính, cách đền 3 km, sau đó rước lại. Tục rước này hiện nay không còn vì Hồ Thác Bà đã dâng nước, chùa xưa đền cũ không còn. Hát phụ đồng (hầu đồng giáng bút) là màn đặc sắc của các đền thờ mẫu, người lên đồng viết chữ nôm lên mâm gạo, người hầu đồng ghi lại thành bài ca chầu.
+ Phần Hội: Sau phần lễ nghiêm trang là phần hội của đền Mẫu Thác Bà mang sắc thái của dân bản địa cổ của người Châu Thu Vật xưa của người dân tộc Tày, Kinh, Nùng, Dao, Cao Lan vùng Thác Bà, Sông Chảy như ném còn, đánh yến, chọi gà, vật, hội đánh đu, đua thuyền, đẩy gậy... Những hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc dân gian đã tạo cho ngày hội của nhân dân vùng hạ lưu sông Chảy thêm sống động và thực sự là nơi giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong vùng.
Cuối năm, lễ thường vào ngày 10/10 âm lịch. Khách hành hương và con nhang đệ tử phần đông là dân Yên Bình. Khách bái vọng gồm các chủ bè, chủ buôn sông nước và chân sào mỗi khi thuyền bè qua đền đều "ném tiền xuống thác" và đốt hương vàng vái với, cầu xin Mẫu và chư thần phù hộ bình yên.
Đền Thác Bà không chỉ mang ý nghĩa của công trình văn hóa tâm linh để nhân dân và khách hành hương trong vùng cùng các tỉnh lân cận đến chiêm bái, cầu bình an mà còn là điểm đến hấp dẫn trong hành trình hướng về miền linh địa và khám phá cảnh quan sinh thái nên thơ và kỳ thú của Hồ Thác Bà. Đến với lễ hội đền mẫu Thác Bà, du khách sẽ được thưởng thức những nét văn hóa độc đáo của vùng Thác Bà sông Chảy, được nghe những tích sử gắn với truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha, để được về với miền trong xanh thanh tịnh, và để cầu mong một năm nhiều may mắn, hạnh phúc.
Đền Mẫu Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà huyện Yên Bình đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
16977 lượt xem
Ban Biên tập
Ngày 28/12/2004, Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái ban hành Quyết định số 701/QĐ-UBND, công nhận Di tích đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
1. Tên Di tích
- Di tích lịch sử - văn hóa đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái.
- Tên gọi khác của Di tích: Đền Thác Bà hay còn gọi Đền Mẫu Thác Bà.
2. Loại hình Di tích
Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
3. Quyết định công bố Di tích
Quyết định số 701/QĐ-UBND, ngày 28/12/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái công nhận Di tích đền Thác Bà, thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
4. Địa điểm, đường đến Di tích
Đền Thác Bà hay còn gọi Đền Mẫu Thác Bà, với diện tích 1.800m2 nằm trên núi Hoàng Thi ở độ cao 70m so với chân núi thuộc thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Đền quay theo hướng Đông Bắc dựa lưng vào núi, nhìn ra sông Chảy.
Đến đền Mẫu Thác Bà du khách có thể đi bằng đường bộ hoặc đường thủy. Nếu ở phía Nam và phía Đông lên khách có thể đi bằng xe cơ giới đến tận nhà máy thủy điện Thác Bà và lối lên đền Mẫu theo quốc lộ 37 Hà Nội - Yên Bái và tỉnh lộ Tuyên Quang - Thác Bà. Nếu ở phía Tây và phía Bắc tới theo Quốc lộ 70 Lào Cai - Hà Nội và đường Đông Hồ phân đoạn Lục Yên - Thác Bà, đi ca nô từ bến cảng Hương Lý và nhiều bến thuyền khác từ các nơi trên hồ Thác Bà đến đền Mẫu.
5. Sơ lược lịch sử Di tích
Đền Mẫu Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà, huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái. Theo dân gian tương truyền: Từ thời các các vua Hùng, có nàng công chúa tên gọi Minh Đạt được cắt cử trông coi vùng sông Chảy Thác Bà, dạy dân khai khẩn đất hoang, trồng lúa, dệt vải. Khi bà mất được nhân dân tôn kính là Thánh Mẫu và lập đền thờ phụng tại Thác Bà.
Theo yêu cầu xây dựng nhà máy Thủy điện Thác Bà, tháng 4 năm 1963, nhà đền, thiện nam tín nữ và toàn dân xã Minh Phú tự nguyện rước Mẫu sang xã Vĩnh Kiên bên kia sông Chảy cách vị trí đền Thác Bà 5km để lấy chỗ thi công.
Đền Mẫu tọa lạc bên hữu ngạn sông Chảy, mặt hướng ra sông theo hướng Đông Đông bắc. Sau nhiều lần tôn tạo, phục dựng nhưng đền vẫn giữ được dáng vẻ cổ xưa. Cảnh quan do con người và tạo hóa đắp đổi, tuy khiêm nhường về mặt vật chất nhưng công trình thực sự vẫn toát lên linh khí của đền xưa chốn cũ với dáng vẻ vừa mộng lại vừa thực, vắng mà không quạnh, lặng mà không đìu hiu, tĩnh động luôn hòa quyện, cổ kính song vẫn hiện đại.
Về kiến trúc, Đền Mẫu Thác Bà gồm có 5 gian đại bái, 3 gian trung cung và 3 gian hậu cung. Chính giữa gian Đại bái là bức cuốn thư “Thác Bà linh từ”. Ở cung chính tâm: trên cùng thờ Tam Phủ: Đức Ngọc Hoàng, quan Nam Tào (bên phải) quan Bắc Đẩu (bên trái); Tiếp đó là vị trí thờ Ngũ Vị Tôn Ông (Tức 5 ông quan lớn trấn giữ 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc và phương chính giữa) với ông Hoàng Bảy (bên phải) và ông Hoàng Mười (bên trái), hai bên là hai đôi câu đối. Cung bên phải là bàn thờ Ban Trần Triều có tượng Đức thánh Trần Hưng Đạo. Cung bên trái thiết lập phủ "Chúa Sơn Lâm" có 2 tượng cô hầu và 12 cô Sơn Trang. Tại gian giữa “Tứ phủ Chầu bà” thờ 4 chầu cai quản 4 phương Đông, Tây, Nam, Bắc theo đúng tín ngưỡng tâm linh của người Việt. Gian hậu cung thờ Mẫu Thác Bà và Tam Tòa Thánh Mẫu. Trong đền còn nhiều những hiện vật quý giá mang giá trị lịch sử, văn hóa. Qua các triều đại, đền được 6 lần sắc phong. Nữ thần Diệu Minh Đạt là vị duy nhất được nhắc đến trong sắc phong cùng văn chầu và bài khấn. Ngài choàng khăn đỏ, vận áo đỏ. Không rõ thân thế.
Ngoài thần Diệu Minh Đạt, đền còn thờ Tam Phủ và các Hoàng Cô Hoàng Cậu như các đền khác.
6. Các nhân vật được thờ tự
Mẫu Thác Bà; Tam Tòa Thánh Mẫu; Ngũ vị tôn ông.
7. Các hiện vật trong Di tích
Đồ thờ trong Đền gồm: một pho tượng gỗ, sơn thiếp, vận sắc phục đỏ, thờ trong hậu cung. Bốn góc có bốn pho tượng nữ gỗ tô mầu tượng quanh tượng Mẫu.
Sắc phong có 6 bản gồm: Tự Đức năm thứ 33 (1880) gồm một bản chính và một bản sao phong cho thần nữ Diệu Minh Đạt; Đồng Khánh năm thứ 2 (1887) phong cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt; Duy Tân năm thứ 3 (1907) phong lần thứ 2 cho thần nữ Thục Diệu Minh Đạt; Khải Định năm thứ 9 (1924) phong cho thần nữ Huyền Diệu Minh Đạt... Ngoài ra còn có một sắc phong đời Lê Cảnh Hưng bị thất lạc.
8. Phong tục lễ hội
Lễ hội đền Mẫu Thác Bà có 3 lễ hội chính: Lễ hội mùa xuân ngày mùng 9 tháng Giêng; Lễ hội mùa hè ngày 17 tháng 5; Lễ hội mùa thu ngày 10 tháng 10 (âm lịch), trong đó lễ hội xuân là lễ hội lớn nhất.
+ Phần Lễ: Từ đêm ngày mùng 8 tháng Giêng đã có lễ nấu và đánh chè kho nguyên liệu là đỗ xanh ngâm bỏ vỏ, rang lên nấu với mật mía, chè kho được đánh bằng đôi mái chèo nhỏ, đôi trai gái đánh chè theo nhịp điệu chèo thuyền, những người xung quanh hát các bài hò chèo thuyền hoặc vui chơi tâm tình bên bếp lửa ở khu vực đền.
Lễ hội bắt cá để tế lễ, trước kia được tiến hành tại soi Do, thuộc suối Do xã Văn Chính cũ cách đền khoảng 2km, thời gian vào đêm mùng 8 tháng Giêng. Hình thức bắt dùng phên nứa (khoảng 3 cây nứa băm đan lại) úp mặt trắng vào phía trong, quây thành vùng, cá vào thấy phên nứa trắng tưởng bờ ao luẩn quẩn ở trong, mọi người đốt đuốc sáng rực hò reo, dùng tay hoặc dùng dập (một loại vó con) kéo vây bắt. Cá được nhốt lại chọn 2 con to, đẹp, ngon nhất vào sáng ngày mùng 9 tháng Giêng cho vào thúng sơn son có nước, rước lên đền để tế sống. Sau đó cá được làm thực phẩm để sinh hoạt ngay tại đền, hoặc xả chia nhau. Kiệu rước cá là loại kiệu song loan (4 người khiêng), thời gian rước khoảng 7 đến 8 giờ sáng. Lễ chay tế cung mẫu chỉ cúng bằng chè kho. Lễ vật tế cung ngoài (lễ mặn) xôi nếp loại ngon, thịt gà, vịt (không có thịt trâu, bò), thịt lợn được cắt kì cho các gia đình nuôi.
Lễ rước kiệu gồm 3 kiệu: Kiệu hoa, kiệu võng, kiệu bát cống (8 người khiêng), rước mẫu từ đền Thác Bà lên đền Đồng Sủng thuộc xã Văn Chính, cách đền 3 km, sau đó rước lại. Tục rước này hiện nay không còn vì Hồ Thác Bà đã dâng nước, chùa xưa đền cũ không còn. Hát phụ đồng (hầu đồng giáng bút) là màn đặc sắc của các đền thờ mẫu, người lên đồng viết chữ nôm lên mâm gạo, người hầu đồng ghi lại thành bài ca chầu.
+ Phần Hội: Sau phần lễ nghiêm trang là phần hội của đền Mẫu Thác Bà mang sắc thái của dân bản địa cổ của người Châu Thu Vật xưa của người dân tộc Tày, Kinh, Nùng, Dao, Cao Lan vùng Thác Bà, Sông Chảy như ném còn, đánh yến, chọi gà, vật, hội đánh đu, đua thuyền, đẩy gậy... Những hình thức sinh hoạt văn hóa mang đậm màu sắc dân gian đã tạo cho ngày hội của nhân dân vùng hạ lưu sông Chảy thêm sống động và thực sự là nơi giao lưu văn hóa giữa các dân tộc trong vùng.
Cuối năm, lễ thường vào ngày 10/10 âm lịch. Khách hành hương và con nhang đệ tử phần đông là dân Yên Bình. Khách bái vọng gồm các chủ bè, chủ buôn sông nước và chân sào mỗi khi thuyền bè qua đền đều "ném tiền xuống thác" và đốt hương vàng vái với, cầu xin Mẫu và chư thần phù hộ bình yên.
Đền Thác Bà không chỉ mang ý nghĩa của công trình văn hóa tâm linh để nhân dân và khách hành hương trong vùng cùng các tỉnh lân cận đến chiêm bái, cầu bình an mà còn là điểm đến hấp dẫn trong hành trình hướng về miền linh địa và khám phá cảnh quan sinh thái nên thơ và kỳ thú của Hồ Thác Bà. Đến với lễ hội đền mẫu Thác Bà, du khách sẽ được thưởng thức những nét văn hóa độc đáo của vùng Thác Bà sông Chảy, được nghe những tích sử gắn với truyền thống chống giặc ngoại xâm của ông cha, để được về với miền trong xanh thanh tịnh, và để cầu mong một năm nhiều may mắn, hạnh phúc.
Đền Mẫu Thác Bà thuộc thị trấn Thác Bà huyện Yên Bình đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
Các bài khác
- Di tích đền Phúc Linh, xã Lâm Giang, huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích chùa và đền Bách Lẫm, phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di Tích đình và đền Quy Mông, xã Quy Mông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích Cổng Đục - Đồn Cao, phường Nguyễn Phúc, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích chùa Ngọc Am, phường Hồng Hà, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích đình làng Dọc, xã Việt Hồng, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích đền Tuần Quán, phường Yên Ninh, thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích lịch sử văn hóa thành cổ Pác Pha, xã Minh Xuân và Yên Thắng, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích đình Làng Xây, xã Báo Đáp, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
- Di tích đền Hóa Cuông, xã Hòa Cuông, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái (13/08/2019)
Xem thêm »