CTTĐT - Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết 30a với các cơ chế, chính sách, giải pháp đặc thù được thụ hưởng như: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; Các chính sách hỗ trợ giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; Các chính sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện, bộ mặt kinh tế - xã hội huyện vùng cao Mù Cang Chải đã có nhiều khởi sắc.
Trung tâm thị trấn Mù Cang Chải đang đổi thay từng ngày.
Để thực hiện tốt các mục tiêu của Đề án và các chính
sách hỗ trợ, Ủy ban nhân dân huyện đã chủ động chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, các
xã, thị trấn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu
kinh phí và các hạng mục đầu tư hỗ trợ, các chỉ tiêu phấn đấu thực hiện các nội
dung thuộc chương trình, gửi về Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
tham mưu xây dựng nhu cầu vốn của toàn huyện, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê
duyệt. Tại các kỳ họp cuối năm Hội đồng nhân dân huyện đã ban hành Nghị quyết
giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách huyện, đồng thời trên cơ sở Quyết định của Ủy
ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện tổ chức giao chỉ tiêu kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cho các cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện, trong đó chú trọng nội dung về thực hiện chương trình giảm nghèo.
Cùng với đó, UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan, đơn
vị liên quan thực hiện công tác tổng hợp, báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy
định; Các cơ quan trực thuộc ủy ban nhân dân huyện căn cứ các Quyết định phân
bổ nguồn kinh phí, Quyết định giao chỉ tiêu nhiệm vụ thực hiện các nội dung
được phụ trách tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện xây dựng các kế hoạch, công
văn chỉ đạo, hướng dẫn quy trình thực hiện các chính sách đảm báo xác định đúng
định mức, đúng đối tượng thụ hưởng chính sách. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
về công tác tổ chức triển khai thực hiện các hạng mục của đề án tới các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể huyện và các xã, thị trấn. Chỉ đạo làm tốt công tác
thông tin tuyên truyền phổ biến rộng rãi các nội dung, hạng mục hỗ trợ và kế
hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng đến nhân dân, công tác báo cáo định kỳ 6 tháng và
tổng kết năm đầy đủ kịp thời.
Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết 30a với các cơ chế, chính sách, giải pháp
đặc thù được thụ hưởng như: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; Các
chính sách hỗ trợ giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; Các chính
sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện. Đến nay trên địa
bàn huyện tỷ lệ dân số được nghe Đài TNVN, xem THVN đạt 75%, xã có trạm truyền
thanh tại các xã năm 2015 là 13/13 xã đạt 100%. Gia đình đạt chuẩn
văn hóa đạt 57,1 %/60%, tỷ lệ làng bản, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt: 46%/40%
so với mục tiêu Đề án. Tỷ lệ hộ được dùng điện lưới Quốc gia đạt: 70,9%. Huy
động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi ra lớp năm
2015 đạt 96%, tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt
96%, tỷ lệ học sinh tiểu học đi học
đúng độ tuổi đạt 94,7%, tỷ lệ học sinh THCS đi học đúng tuổi đạt 80,9%, tỷ lệ học sinh tiểu học hoàn thành
cấp học đạt 92%, tỷ lệ học sinh THCS hoàn thành cấp học đạt 87,1%, tỷ lệ học sinh THPT hoàn thành cấp học đạt
81,4%. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia: 6/5 trường, đạt 120% (vượt so với mục tiêu
Đề án là 20%). Hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả huyện, xã, bản như: Đường
giao thông, thủy lợi, nước sinh
hoạt, trường học… đã phát huy được hết hiệu quả sử dụng, tạo điều kiện
cho nhân dân trong việc đi lại, giao lưu buôn bán, trao đổi sản xuất hàng hóa,
tăng diện tích gieo cấy từ l vụ đã nâng lên cấy 2 vụ/năm.
Mặc dù đã
có những mục tiêu đạt và vượt so với mục tiêu Đề án đề ra, song với đặc thù của
huyện vùng cao, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên công tác triển khai thực hiện các nội dung, hạng mục của Đề án còn
chưa được kịp thời, hiệu quả chưa cao. Công tác lập kế hoạch triển khai đôi khi
còn chậm và chưa sát với yêu cầu nhiệm vụ, công tác chỉ đạo kiểm tra giám sát tổ
chức thực hiện các nội dung, hạng mục của Đề án của Ban chỉ đạo thực hiện Đề án
đến các cơ quan, đơn vị, đến các xã thị trấn chưa được chú trọng, chưa sát sao.
Việc thực hiện nội dung đầu tư hỗ trợ của Đề án còn đạt tỷ lệ thấp so với kế
hoạch, cụ thể một số mô hình về giảm nghèo, mô hình nông lâm nghiệp chưa phát huy
hiệu quả so với mục tiêu đề ra. Các nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất mới chỉ
tập trung vào việc hỗ trợ giống cây trồng, vật tư sản xuất là chủ yếu. Sản phẩm
làm ra chủ yếu là phục vụ sinh hoạt gia đình hàng ngày, chưa tạo sự chuyển biến
để người dân tự tái cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp.
Việc phát
triển nông lâm nghiệp của huyện chưa thực sự bền vững, mức độ rủi ro còn cao,
sản xuất chưa theo định hướng quy hoạch, cơ chế quản lý và chính sách đầu tư
chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao, trình độ nhận thức của nhân dân
về khoa học kỹ thuật và sản xuất còn hạn chế. Bên cạnh đó, thời gian triển khai
thực hiện các chương trình đầu tư hỗ trợ chủ yếu vào giữa năm, nên còn gặp khó
khăn cho công tác tuyên truyền, bình xét tại thôn bản để triển khai thực hiện
các hạng mục đầu tư, việc giải ngân chưa triệt để tồn kinh phí chuyển sang năm
sau, làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các chương trình đầu tư, hỗ trợ, thời
gian thi công kéo dài. Một số mục tiêu còn đạt thấp so với mục tiêu Đề án đặt
ra như: Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, cuối năm 2015 là 47,47%; số trạm y tế xã có bác
sỹ năm 2015 là 2/13 xã, đạt 15,4%; xuất khẩu lao động đến năm 2014 là 70/750
người, đạt 9,3%; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 là 27,2%/40% so với mục
tiêu đến năm 2015.
Tiếp tục thực hiện chương trình giảm nghèo
trên địa bàn huyện Mù Cang Chải nói riêng, tỉnh Yên Bái nói chung trong giai đoạn
2016 - 2020, các huyện nghèo nói chung và huyện Mù Cang Chải nói riêng rất cần
có văn bản hướng dẫn thực hiện kịp thời, thống nhất của các Bộ, ngành để tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ sở cũng như địa phương trong quá trình thực hiện. Cùng với
đó ưu tiên tăng cường bố trí vốn theo mục tiêu Đề án, ưu tiên các công trình đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, như đường giao thông, công trình thủy lợi, điện lưới
quốc gia, trạm y tế và tiếp tục có chương trình hỗ trợ xóa nhà dột nát cho hộ nghèo
từ các nguồn vốn của Tập đoàn, Công ty, doanh nghiệp. Đối với việc xuất khẩu
lao động, các ngành chức năng lựa chọn các doanh nghiệp, công ty có uy tín nhận
được các thị trường có mức lương cao, phù hợp với trình độ, năng lực, sức khỏe
và tay nghề giới thiệu cho lao động huyện Mù Cang Chải để lao động tránh được
những rủi ro khi tham gia lao động tại nước ngoài.
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo nhằm tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh
thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo
đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ
phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hoá,
khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội phù hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.
Để hỗ trợ các huyện nghèo Chính phủ tiếp tục thực
hiện các chế độ, chính sách hiện hành về hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo
ở các huyện nghèo có sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng
và nâng mức hỗ trợ, mức đầu tư. Các cơ chế, chính sách, giải pháp đặc thù đối
với các huyện nghèo gồm: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; Chính
sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; Chính sách, cơ chế đầu tư
cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện.
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
|
434 lượt xem
Thanh Bình
Cổng thông tin điện tử tỉnh - Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết 30a với các cơ chế, chính sách, giải pháp đặc thù được thụ hưởng như: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; Các chính sách hỗ trợ giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; Các chính sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện, bộ mặt kinh tế - xã hội huyện vùng cao Mù Cang Chải đã có nhiều khởi sắc.
Để thực hiện tốt các mục tiêu của Đề án và các chính
sách hỗ trợ, Ủy ban nhân dân huyện đã chủ động chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, các
xã, thị trấn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xác định nhu cầu
kinh phí và các hạng mục đầu tư hỗ trợ, các chỉ tiêu phấn đấu thực hiện các nội
dung thuộc chương trình, gửi về Ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP
tham mưu xây dựng nhu cầu vốn của toàn huyện, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê
duyệt. Tại các kỳ họp cuối năm Hội đồng nhân dân huyện đã ban hành Nghị quyết
giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách huyện, đồng thời trên cơ sở Quyết định của Ủy
ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện tổ chức giao chỉ tiêu kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội cho các cơ quan, đơn vị, các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện, trong đó chú trọng nội dung về thực hiện chương trình giảm nghèo.
Cùng với đó, UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan, đơn
vị liên quan thực hiện công tác tổng hợp, báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy
định; Các cơ quan trực thuộc ủy ban nhân dân huyện căn cứ các Quyết định phân
bổ nguồn kinh phí, Quyết định giao chỉ tiêu nhiệm vụ thực hiện các nội dung
được phụ trách tham mưu cho Ủy ban nhân dân huyện xây dựng các kế hoạch, công
văn chỉ đạo, hướng dẫn quy trình thực hiện các chính sách đảm báo xác định đúng
định mức, đúng đối tượng thụ hưởng chính sách. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc
về công tác tổ chức triển khai thực hiện các hạng mục của đề án tới các cơ
quan, ban ngành, đoàn thể huyện và các xã, thị trấn. Chỉ đạo làm tốt công tác
thông tin tuyên truyền phổ biến rộng rãi các nội dung, hạng mục hỗ trợ và kế
hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng đến nhân dân, công tác báo cáo định kỳ 6 tháng và
tổng kết năm đầy đủ kịp thời.
Qua 7 năm thực hiện Nghị quyết 30a với các cơ chế, chính sách, giải pháp
đặc thù được thụ hưởng như: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; Các
chính sách hỗ trợ giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; Các chính
sách, cơ chế đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện. Đến nay trên địa
bàn huyện tỷ lệ dân số được nghe Đài TNVN, xem THVN đạt 75%, xã có trạm truyền
thanh tại các xã năm 2015 là 13/13 xã đạt 100%. Gia đình đạt chuẩn
văn hóa đạt 57,1 %/60%, tỷ lệ làng bản, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt: 46%/40%
so với mục tiêu Đề án. Tỷ lệ hộ được dùng điện lưới Quốc gia đạt: 70,9%. Huy
động trẻ em mẫu giáo 5 tuổi ra lớp năm
2015 đạt 96%, tỷ lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt
96%, tỷ lệ học sinh tiểu học đi học
đúng độ tuổi đạt 94,7%, tỷ lệ học sinh THCS đi học đúng tuổi đạt 80,9%, tỷ lệ học sinh tiểu học hoàn thành
cấp học đạt 92%, tỷ lệ học sinh THCS hoàn thành cấp học đạt 87,1%, tỷ lệ học sinh THPT hoàn thành cấp học đạt
81,4%. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia: 6/5 trường, đạt 120% (vượt so với mục tiêu
Đề án là 20%). Hiệu quả đầu tư cơ sở hạ tầng ở cả huyện, xã, bản như: Đường
giao thông, thủy lợi, nước sinh
hoạt, trường học… đã phát huy được hết hiệu quả sử dụng, tạo điều kiện
cho nhân dân trong việc đi lại, giao lưu buôn bán, trao đổi sản xuất hàng hóa,
tăng diện tích gieo cấy từ l vụ đã nâng lên cấy 2 vụ/năm.
Mặc dù đã
có những mục tiêu đạt và vượt so với mục tiêu Đề án đề ra, song với đặc thù của
huyện vùng cao, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nên công tác triển khai thực hiện các nội dung, hạng mục của Đề án còn
chưa được kịp thời, hiệu quả chưa cao. Công tác lập kế hoạch triển khai đôi khi
còn chậm và chưa sát với yêu cầu nhiệm vụ, công tác chỉ đạo kiểm tra giám sát tổ
chức thực hiện các nội dung, hạng mục của Đề án của Ban chỉ đạo thực hiện Đề án
đến các cơ quan, đơn vị, đến các xã thị trấn chưa được chú trọng, chưa sát sao.
Việc thực hiện nội dung đầu tư hỗ trợ của Đề án còn đạt tỷ lệ thấp so với kế
hoạch, cụ thể một số mô hình về giảm nghèo, mô hình nông lâm nghiệp chưa phát huy
hiệu quả so với mục tiêu đề ra. Các nội dung hỗ trợ phát triển sản xuất mới chỉ
tập trung vào việc hỗ trợ giống cây trồng, vật tư sản xuất là chủ yếu. Sản phẩm
làm ra chủ yếu là phục vụ sinh hoạt gia đình hàng ngày, chưa tạo sự chuyển biến
để người dân tự tái cơ cấu trong sản xuất nông nghiệp.
Việc phát
triển nông lâm nghiệp của huyện chưa thực sự bền vững, mức độ rủi ro còn cao,
sản xuất chưa theo định hướng quy hoạch, cơ chế quản lý và chính sách đầu tư
chưa hợp lý dẫn đến hiệu quả kinh tế không cao, trình độ nhận thức của nhân dân
về khoa học kỹ thuật và sản xuất còn hạn chế. Bên cạnh đó, thời gian triển khai
thực hiện các chương trình đầu tư hỗ trợ chủ yếu vào giữa năm, nên còn gặp khó
khăn cho công tác tuyên truyền, bình xét tại thôn bản để triển khai thực hiện
các hạng mục đầu tư, việc giải ngân chưa triệt để tồn kinh phí chuyển sang năm
sau, làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các chương trình đầu tư, hỗ trợ, thời
gian thi công kéo dài. Một số mục tiêu còn đạt thấp so với mục tiêu Đề án đặt
ra như: Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, cuối năm 2015 là 47,47%; số trạm y tế xã có bác
sỹ năm 2015 là 2/13 xã, đạt 15,4%; xuất khẩu lao động đến năm 2014 là 70/750
người, đạt 9,3%; tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 là 27,2%/40% so với mục
tiêu đến năm 2015.
Tiếp tục thực hiện chương trình giảm nghèo
trên địa bàn huyện Mù Cang Chải nói riêng, tỉnh Yên Bái nói chung trong giai đoạn
2016 - 2020, các huyện nghèo nói chung và huyện Mù Cang Chải nói riêng rất cần
có văn bản hướng dẫn thực hiện kịp thời, thống nhất của các Bộ, ngành để tạo điều
kiện thuận lợi cho cơ sở cũng như địa phương trong quá trình thực hiện. Cùng với
đó ưu tiên tăng cường bố trí vốn theo mục tiêu Đề án, ưu tiên các công trình đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng, như đường giao thông, công trình thủy lợi, điện lưới
quốc gia, trạm y tế và tiếp tục có chương trình hỗ trợ xóa nhà dột nát cho hộ nghèo
từ các nguồn vốn của Tập đoàn, Công ty, doanh nghiệp. Đối với việc xuất khẩu
lao động, các ngành chức năng lựa chọn các doanh nghiệp, công ty có uy tín nhận
được các thị trường có mức lương cao, phù hợp với trình độ, năng lực, sức khỏe
và tay nghề giới thiệu cho lao động huyện Mù Cang Chải để lao động tránh được
những rủi ro khi tham gia lao động tại nước ngoài.
Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các huyện nghèo nhằm tạo sự chuyển biến nhanh hơn về đời sống vật chất, tinh
thần của người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số thuộc các huyện nghèo, bảo
đảm đến năm 2020 ngang bằng các huyện khác trong khu vực. Hỗ trợ
phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững, theo hướng sản xuất hàng hoá,
khai thác tốt các thế mạnh của địa phương. Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế -
xã hội phù hợp với đặc điểm của từng huyện; chuyển đổi cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội
nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi
trường sinh thái được bảo vệ; bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng.
Để hỗ trợ các huyện nghèo Chính phủ tiếp tục thực
hiện các chế độ, chính sách hiện hành về hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo
ở các huyện nghèo có sửa đổi, bổ sung theo hướng mở rộng đối tượng thụ hưởng
và nâng mức hỗ trợ, mức đầu tư. Các cơ chế, chính sách, giải pháp đặc thù đối
với các huyện nghèo gồm: Hỗ trợ sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập; Chính
sách giáo dục, đào tạo, dạy nghề, nâng cao dân trí; Chính sách, cơ chế đầu tư
cơ sở hạ tầng ở cả thôn, bản, xã và huyện.
Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP